• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Thánh địa tội ác
  3. Trang 31

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 30
  • 31
  • 32
  • More pages
  • 35
  • Sau

27

Phiên tòa được bố trí vào ngày Hai mươi tháng Sáu. Một tuần sau cuộc viếng thăm Memphis, Horace gọi điện cho cô Reba. “Tôi chỉ muốn biết liệu cô ấy có còn ở đấy không”, anh nói. “Như vậy tôi có thể liên lạc được với cô ấy khi cần.”

“Cô ta có ở đây”, cô Reba nói. “Nhưng cái vụ liên lạc này, tôi không thích. Tôi không muốn mấy tên cớm lảng vảng quanh đây trừ phi tụi nó đến vì công việc của tôi.”

“Sẽ chỉ có một viên chức đi đưa trát đòi cho tòa án quận thôi”, Horace nói. “Sẽ có người đưa một tờ giấy tới tận tay cô ấy.”

“Vậy thì, để người đưa thư làm chuyện đó đi”, cô Reba nói. “Dù gì thì anh ta cũng phải đến đây. Mặc đồng phục nữa. Anh ta nhìn cũng không tệ trong bộ đồng phục hơn một tên cớm trang bị tới tận răng đâu. Hãy để anh ta làm chuyện đó.”

“Tôi sẽ không làm phiền cô”, Horace nói. “Tôi sẽ không gây cho cô bất kỳ rắc rối nào.”

“Tôi biết thế”, cô Reba nói. Giọng cô ta qua đường dây mỏng và khàn khàn. “Tôi sẽ không cho phép anh. Tối nay Minnie vừa khóc một thôi một hồi, vì chuyện thằng chó đẻ rời bỏ nó, còn tôi và cô Myrtle đang ngồi đây, chúng tôi cũng bắt đầu khóc. Tôi, Minnie và Myrtle. Chúng tôi đã uống cả một chai gin. Tôi không có khả năng đó. Vì vậy, anh đừng có gửi tụi cớm ngu xuẩn tới đây với mấy thứ thư từ gì đó cho bất kỳ ai. Anh gọi điện cho tôi, tôi sẽ đẩy cả hai đứa chúng nó ra đường và anh có thể bắt giữ chúng ngoài đó.”

Vào đêm Mười chín, anh gọi điện thoại cho cô Reba lần nữa. Anh gặp khó khăn trong việc liên lạc với cô ta.

“Bọn họ đi rồi”, cô ta nói. “Cả hai. Anh không đọc báo à?”

“Báo nào?”, Horace hỏi. “A lô. A lô!”

“Bọn họ không còn ở đây nữa, tôi nói rồi”, cô Reba nói. “Tôi chẳng biết bất cứ điều gì về bọn họ và tôi cũng không muốn biết bất cứ điều gì ngoại trừ việc ai là người sẽ trả cho tôi tiền thuê phòng một tuần…”

“Nhưng cô không biết cô ấy đã đi đâu sao? Tôi có thể cần cô ấy.”

“Tôi không biết gì cả và tôi không muốn biết gì cả”, cô Reba nói. Anh nghe tiếng cạch ở đầu dây bên kia. Nhưng đường dây chưa bị ngắt ngay. Anh nghe tiếng ống điện thoại rơi “huỵch” trên mặt bàn và tiếng cô Reba gọi Minnie: “Minnie. Minnie!”. Sau đó, bàn tay của ai đấy nhấc ống nghe lên và đặt nó vào vị trí cũ, đầu dây bên kia “cạch” một tiếng.

* * *

Phiên tòa mở vào ngày hôm sau. Trên bàn rải rác các vật chứng mà công tố viên quận cung cấp: viên đạn từ hộp sọ của Tommy, một bình gốm đựng rượu whiskey ngô. “Tôi sẽ gọi bà Goodwin lên ghế nhân chứng”, Horace nói. Anh không nhìn đằng sau. Anh có thể cảm thấy đôi mắt Goodwin đang chiếu trên lưng mình khi anh giúp người phụ nữ ngồi vào chỗ. Cô ta tuyên thệ, đứa bé nằm trên đùi cô ta. Cô ta lặp lại câu chuyện đã từng kể với anh sau ngày đứa bé bị bệnh. Goodwin cố gắng ngắt lời hai lần và bị tòa bắt im lặng. Horace không nhìn ông ta.

Người phụ nữ kể xong câu chuyện. Cô ta ngồi thẳng, mặc chiếc váy màu xám cũ kỹ nhưng gọn gàng, đội cái mũ có mạng che mặt, đeo một đồ trang sức màu tím trên cổ. Đứa bé nằm trên đùi cô ta, hai mắt nó nhắm nghiền bất động như say thuốc. Bàn tay cô ta mơn trớn xung quanh khuôn mặt đứa bé, biểu hiện tình mẫu tử một cách vô thức.

Horace ngồi xuống. Sau đó, anh chỉ nhìn Goodwin. Nhưng người đàn ông kia lúc này đang ngồi lặng lẽ, hai cánh tay khoanh lại và đầu hơi cúi xuống, Horace có thể thấy lỗ mũi ông ta trắng bệch vì tức giận trên khuôn mặt đen sạm. Anh ngả người về phía ông ta và thì thầm, nhưng Goodwin không cử động.

Công tố viên quận bây giờ đối diện người phụ nữ.

“Bà Goodwin”, anh ta nói, “ngày bà kết hôn với ông Goodwin là khi nào?”.

“Tôi phản đối!”, Horace nói, đứng bật dậy.

“Bên nguyên có thể trình bày xem câu hỏi này có liên quan đến vụ án như thế nào không?”, quan tòa nói.

“Tôi bỏ qua, thưa ngài”, công tố viên quận nói, liếc nhìn bồi thẩm đoàn.

Khi ngày xử án hôm đó kết thúc, Goodwin chua chát nói: “Ôi, mấy người đó đã từng nói sẽ giết tôi một ngày nào đó, nhưng tôi không nghĩ lời nói đó là thật. Tôi không nghĩ rằng mấy người đó…”.

“Đừng có ngu ngốc như thế”, Horace nói. “Ông không thấy mình đang thắng sao? Họ đã giảm việc công kích nhân cách nhân chứng của ông.” Nhưng khi họ rời nhà tù, anh thấy người phụ nữ vẫn quan sát mình như dự báo của một điềm gở nào đó. “Cô không phải lo lắng gì hết, nghe không? Có thể cô biết về chuyện làm rượu whiskey hay tình yêu rõ hơn tôi, nhưng tôi biết nhiều về thủ tục hình sự hơn cô, hãy nhớ vậy.”

“Anh không nghĩ rằng tôi đã gây ra một lỗi lầm nào đó à?”

“Tôi biết cô không gây ra lỗi lầm nào cả. Cô không thấy vụ án của họ đã nổ tung ra như thế nào ư? Điều tốt nhất họ có thể hy vọng bây giờ là ý riêng của bồi thẩm đoàn. Và cơ hội cho điều đó không phải là một trên năm mươi. Tôi cho cô biết, ngày mai ông ấy sẽ bước ra khỏi nhà tù như một người tự do.”

“Vậy tôi cho là đã đến lúc nghĩ về chuyện trả thù lao cho anh.”

“Được”, Horace nói, “được rồi mà. Tôi sẽ đi ra ngoài tối nay”.

“Tối nay?”

“Phải. Ngày mai ông ta có thể gọi cô trở lại ghế nhân chứng. Dù sao chăng nữa, chúng ta nên chuẩn bị cho việc ấy.”

Vào lúc tám giờ, anh bước vào sân nhà người phụ nữ bị điên. Một ánh đèn lẻ loi chiếu sáng trong sự sâu thẳm hoang vu của căn nhà, như một con đom đóm vướng vào một đám cây thạch nam, nhưng người phụ nữ không xuất hiện khi anh cất tiếng gọi. Anh đi đến cửa và gõ. Một giọng the thé hét lên điều gì đó, anh đợi một giây. Anh chuẩn bị gõ thêm một lần nữa thì lại nghe thấy giọng nói đó, chát chúa, hoang dại và mơ hồ, như thể vọng đến từ một chốn xa xăm, giống như một cây lau sậy bị chôn vùi bởi mưa bão. Anh đi vòng quanh căn nhà trong đám cỏ dại rậm rạp mọc đến thắt lưng. Cửa bếp mở. Cây đèn đặt ở đó, mù mờ trong cái chụp đèn bẩn thỉu, căn phòng tràn ngập mùi hôi hám lưu niên của phụ nữ. Đôi nhãn cầu đảo lộn trong cái đầu hình viên đạn cứng đơ, người da đen mặc một cái áo bên trong cái quần có dây đeo qua hai vai rộng lùng thùng. Bên cạnh người da đen, người đàn bà điên đang xoay về hướng cái tủ bếp đang mở, chải mái tóc rũ rượi của bà ta ngược ra sau.

“Con chó cái của mày đã vào tù rồi”, bà ta nói. “Đi với nó đi.”

“Tù?”, Horace nói.

“Đúng thế, tao đã nói với nó: Khi mày có một ông chồng, mày phải chăm sóc hắn trong tù.” Bà ta quay sang người da đen, cầm một chai rượu dẹt nhỏ trong tay. “Tới đây. Trả tao một đô la cho món này. Mày có nhiều tiền mà.”

Horace trở lại thị trấn, đến nhà tù. Họ cho anh vào. Anh trèo lên cầu thang, người cai ngục khóa cánh cửa đằng sau lưng anh.

Người phụ nữ cho anh vào xà lim. Đứa bé đang nằm trên cái giường nhỏ. Goodwin ngồi bên cạnh nó, hai cánh tay khoanh lại, hai chân duỗi ra như điệu bộ của một người đàn ông sắp kiệt sức.

“Tại sao ông lại ngồi ở đó, ngay trước cái khe hở?”, Horace nói. “Tại sao không đi vào trong góc và chúng tôi sẽ đắp chăn cho ông?”

“Anh đến để xem chuyện kết thúc như thế nào, phải không?”, Goodwin nói. “Phải rồi. Đó là công việc của anh. Anh đã hứa tôi sẽ không bị treo cổ, phải vậy không?”

“Ông còn một giờ nữa”, Horace nói. “Chuyến tàu Memphis không đến đây trước tám giờ ba mươi. Hắn chắc chắn sẽ không ngu gì mà đến đây trong chiếc ô tô màu hoàng yến đó.” Anh quay sang người phụ nữ. “Còn cô. Tôi đã nghĩ cô sẽ thông minh hơn thế này. Tôi biết rằng ông ấy và tôi là kẻ ngu xuẩn, nhưng tôi nghĩ cô phải giỏi hơn chúng tôi.”

“Anh đang ban ơn cho cô ấy”, Goodwin nói. “Cô ấy chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng bởi câu chuyện của tôi và sẽ chẳng thể nào lấy được một người đàn ông tử tế. Nếu anh hứa sẽ xin cho đứa trẻ một công việc nào đó khi nó đủ lớn, tôi sẽ thanh thản hơn.”

Người phụ nữ đã trở lại cái giường. Cô ta nhấc đứa bé lên đùi. Horace đi đến bên cô ta. Anh nói: “Hiện giờ, cô chỉ việc tiến về phía trước. Sẽ không có chuyện gì xảy ra đâu. Ở đây ông ấy sẽ ổn thôi. Ông ấy biết vậy mà. Cô phải về nhà và ngủ một giấc, bởi vì cả hai người sẽ được rời khỏi đây vào ngày mai. Đi nào.”

“Tôi cho là mình nên ở lại”, người phụ nữ nói.

“Khỉ thật, cô không biết rằng cứ nghĩ về tai họa thì sẽ tự chuốc lấy xui xẻo sao? Lee biết điều đó mà. Lee, bảo cô ấy ngừng việc này đi.”

“Đi đi, Ruby”, Goodwin nói. “Về nhà và đi ngủ đi.”

“Em cho là mình nên ở lại”, cô ta nói.

Người phụ nữ trầm ngâm cạnh đứa bé, mặt cô ta cúi xuống và toàn thân bất động. Goodwin tựa lưng vào tường, cổ tay áo sơ mi bạc màu đang xắn lên.

“Ông là một người đàn ông”, Horace nói. “Phải không? Tôi mong rằng bồi thẩm đoàn có thể nhìn thấy ông bây giờ, bị nhốt trong một cái xà lim bằng bê tông, dọa nạt phụ nữ và trẻ em với những câu chuyện ma của lớp Năm. Họ sẽ biết ông không bao giờ có đủ can đảm để giết bất kỳ ai.”

“Anh nên về nhà ngủ đi”, Goodwin nói. “Chúng tôi có thể ngủ ở đây, nếu ngoài kia không tiếp tục có quá nhiều tiếng ồn.”

“Không”, Horace nói. Anh rời xà lim. Người cai ngục mở cửa và anh rời khỏi tòa nhà. Mười phút sau, anh quay trở lại với một gói đồ. Goodwin không động đậy. Người phụ nữ quan sát anh mở cái gói. Trong đó có một chai sữa, một hộp kẹo, một hộp xì gà. Anh đưa cho Goodwin một điếu xì gà và lấy cho mình một điếu. “Cô đã mang bình sữa cho đứa bé, đúng không?”

Người phụ nữ lấy cái bình từ một bọc bên dưới gầm giường. “Vẫn còn một ít”, cô ta nói. Cô ta đổ sữa từ chai vào đầy bình. Horace châm điếu xì gà của mình và của Goodwin. Khi anh nhìn lại, cái chai đã được cất đi.

“Chưa tới giờ cho nó ăn à?”, anh hỏi.

“Tôi đang hâm nóng nó”, người phụ nữ nói.

“Ồ”, Horace nói. Anh ngả cái ghế tựa vào tường, đối diện với cái giường trong xà lim.

“Trên giường còn chỗ”, người phụ nữ nói. “Nó êm hơn một chút.”

“Tuy nhiên, không đủ để thay đổi được gì”, Horace nói.

“Nghe này”, Goodwin nói, “anh về nhà đi. Anh làm thế này không ích gì đâu”.

“Chúng ta còn chút chuyện cần làm”, Horace nói. “Tên luật sư đó sẽ lại gọi cô ấy lên vào buổi sáng. Đó là cơ hội duy nhất của hắn: làm mất hiệu lực lời khai của cô ấy bằng cách nào đó. Ông có thể ngủ một chút trong khi chúng tôi duyệt lại từng chi tiết.”

“Được rồi”, Goodwin nói.

Horace bắt đầu luyện tập cho người phụ nữ, anh đi tới đi lui trên sàn phòng chật hẹp. Goodwin đã hút hết điếu xì gà và lại ngồi bất động, hai cánh tay khoanh lại và đầu cúi xuống. Đồng hồ trên quảng trường gõ chín tiếng, rồi mười tiếng. Đứa bé rên rỉ, quẫy đạp. Người phụ nữ ngừng lại và thay tã cho nó, rồi lấy bình sữa và cho nó uống. Sau đó, cô ta ngả người về phía trước một cách cẩn trọng và nhìn vào khuôn mặt Goodwin. “Anh ấy ngủ rồi”, cô ta thì thầm.

“Ta sẽ đặt ông ấy nằm xuống chứ?”, Horace khẽ hỏi.

“Không. Hãy để anh ấy ở yên đó.” Di chuyển nhẹ nhàng, cô ta đặt đứa bé lên giường và ngồi xuống đầu còn lại của chiếc giường. Horace mang chiếc ghế đến bên cạnh cô. Họ thì thầm trò chuyện.

Đồng hồ điểm mười một tiếng. Horace vẫn luyện tập cho người phụ nữ, tiếp tục ôn đi ôn lại hiện trường tưởng tượng. Cuối cùng, anh nói: “Tôi nghĩ thế là đủ rồi. Giờ cô đã nhớ chưa? Nếu hắn ta hỏi cô bất cứ điều gì mà cô không thể trả lời bằng những từ chính xác mà cô đã học được đêm nay, đừng nói gì hết trong một giây. Tôi sẽ lo phần còn lại. Cô nhớ chưa?”.

“Vâng”, cô ta thì thầm. Anh với tay lấy hộp kẹo từ trên giường, mở nó ra, lớp giấy bóng kính khẽ kêu loạt xoạt. Cô ta lấy một viên. Goodwin vẫn không động đậy. Cô ta nhìn ông ta, rồi chuyển hướng nhìn cái khe hẹp của cửa sổ.

“Thôi đi”, Horace thầm thì. “Hắn không thể phi một cái ghim cài mũ trúng vào ông ấy, huống hồ là một viên đạn. Cô không biết điều đó ư?”

“Vâng”, cô ta nói, cầm viên kẹo trong tay. Cô ta không nhìn anh. “Tôi biết những gì anh đang nghĩ”, cô ta thì thầm.

“Cái gì?”

“Khi anh đến nhà và tôi không có ở đó. Tôi biết anh nghĩ gì.” Horace quan sát cô ta, cô ta ngoảnh đi. “Anh nói đêm nay là thời điểm để bắt đầu trả nợ cho anh.”

Anh nhìn cô ta một lúc lâu. “À”, anh nói. “Ôi những thói xấu chồng chất! Ôi địa ngục! Những động vật có vú ngu xuẩn các cô chẳng bao giờ tin rằng bất kỳ người đàn ông nào, mọi người đàn ông… Cô nghĩ tôi đến vì cái đó hả? Cô nghĩ nếu tôi muốn làm chuyện ấy, tôi phải chờ lâu thế này à?”

Cô ta thoáng nhìn anh. “Nếu anh không chờ đợi, sẽ chẳng có gì cả.”

“Cái gì? Ồ. Vâng. Tuy nhiên cô định làm chuyện đó tối nay ư?”

“Tôi nghĩ đó là những gì…”

“Vậy thì bây giờ cô sẽ làm chứ?” Cô ta nhìn sang Goodwin. Ông ta đang ngáy. “Ồ, tôi không có ý nói là ngay phút này”, anh thì thầm. “Nhưng cô sẽ làm theo yêu cầu.”

“Tôi nghĩ đó là những gì anh muốn. Tôi đã bảo anh chúng tôi không có… Nếu anh không cần chuyện đó, thì tôi không biết rằng mình đã đổ trách nhiệm cho anh.”

“Không phải thế. Cô biết là không phải như vậy. Tuy nhiên, cô không thể biết rằng một người đàn ông làm một điều gì đó chỉ bởi vì anh ta biết điều đó là lẽ phải sao?”

Người phụ nữ chầm chậm xoay cái kẹo trong bàn tay. “Tôi nghĩ anh bực dọc về ‘hắn’.”

“Lee?”

“Không. Nó.” Cô chạm vào đứa bé. “Bởi vì tôi phải mang nó theo chúng tôi.”

“Ý cô là, với nó ở cuối giường, có lẽ thế?”

Cô ta nhìn anh, đôi mắt đờ đẫn và trầm tư. Bên ngoài, đồng hồ điểm mười hai tiếng.

“Chúa ơi”, anh thì thầm. “Cô đã biết những loại đàn ông nào vậy?”

“Tôi từng một lần đưa anh ấy ra khỏi nhà tù bằng cách đó. Ra khỏi Leavenworth nữa. Khi họ biết anh ấy có tội.”

“Cô đã làm thế?”, Horace nói. “Đây. Lấy một viên khác đi. Viên đó đã chảy ra rồi.” Cô ta nhìn xuống những ngón tay bị dính sôcôla và viên kẹo biến dạng. Cô ta bỏ nó xuống đằng sau cái giường. Horace đưa cho cô ta cái khăn tay của mình.

“Nó sẽ bẩn mất”, cô ta nói. “Đợi đã.” Cô ta lau những ngón tay vào đống tã vừa thay của đứa bé và lại ngồi xuống, hai bàn tay siết chặt trong lòng. Goodwin vẫn ngáy đều đều. “Khi anh ấy sang Philippines, anh ấy để tôi lại San Francisco. Tôi kiếm được một công việc và sống trong một phòng trọ nhỏ xíu, nấu ăn trên một cái đèn hàn khí nhỏ, bởi vì tôi đã nói với anh ấy tôi sẽ quyết tâm. Tôi không biết anh ấy sẽ đi bao lâu, nhưng tôi đã hứa với anh ấy tôi sẽ làm vậy và anh ấy biết tôi quyết tâm. Khi anh ấy giết một người lính khác vì một con đàn bà da đen, tôi thậm chí không hề biết chuyện đó. Tôi không nhận được một bức thư nào của anh ấy trong năm tháng. Chỉ đến khi tình cờ nhìn thấy một tờ báo cũ trải trên một cái bàn nơi tôi làm việc, tôi mới biết trung đoàn ấy đang về nhà và khi tôi nhìn vào lịch thì đúng là ngày hôm ấy. Tôi đã rất ổn suốt thời gian đó. Tôi từng có những cơ hội tốt, hằng ngày tôi đều gặp may bởi những người đàn ông đến nhà hàng.

Họ không cho tôi nghỉ để đi đón anh ấy, do đó tôi phải bỏ việc. Rồi họ không cho tôi gặp anh ấy, thậm chí không cho tôi lên tàu. Tôi đứng đó trong lúc họ lần lượt rời tàu, tìm kiếm anh ấy và hỏi từng người đi qua liệu họ có biết anh ấy ở đâu không. Họ đùa cợt tôi rằng tôi đã có cuộc hẹn nào tối hôm đó chưa, bảo tôi rằng họ chưa bao giờ nghe nói về anh ấy hoặc anh ấy đã chết hay đã bỏ trốn sang Nhật Bản với bà vợ của ông đại tá. Tôi lại cố lên tàu lần nữa, nhưng họ không cho tôi lên. Vì vậy, đêm đó tôi mặc quần áo đẹp lên người và đi đến những hộp đêm cho đến khi tôi tìm ra một tên trong bọn họ, đi theo hắn như một con bò lạc và hắn đã kể cho tôi nghe mọi việc. Quả tình giống như là tôi đã chết. Tôi ngồi đó với tiếng nhạc ầm ĩ và tên lính say rượu đang sờ soạng mình và tôi tự hỏi tại sao không từ bỏ, vào cuộc với hắn ta, uống cho say và không bao giờ tỉnh lại nữa, tôi đã nghĩ ‘Đây là cái phần thú vật mình đã lãng quên một năm qua’. Tôi đoán rằng đó là lý do tại sao tôi đã không từ bỏ.

Dù sao, tôi đã không làm vậy. Tôi đi về phòng mình và ngày hôm sau bắt đầu tìm kiếm anh ấy. Tôi cứ tiếp tục, người ta nói dối tôi và cố gắng làm tôi tin, cho đến khi tôi khám phá ra là anh ấy đang ở Leavenworth. Tôi không có đủ tiền mua vé, do đó tôi phải kiếm một công việc khác. Tôi mất hai tháng mới kiếm đủ tiền. Sau đó, tôi đi đến Leavenworth. Tôi có một công việc khác là làm nhân viên phục vụ bàn, ở nhà hàng Childs’, ca đêm, như vậy cứ cách hai tuần tôi có thể gặp Lee vào chiều Chủ nhật. Chúng tôi quyết định thuê một luật sư. Chúng tôi không biết luật sư không thể làm bất cứ điều gì cho một tù nhân liên bang. Tên luật sư không nói với tôi điều ấy và tôi không nói với Lee làm thế nào tôi thuê được một luật sư. Anh ấy nghĩ tôi đã để dành được một ít tiền. Tôi sống chung với tên luật sư hai tháng trước khi khám phá ra sự thật.

Rồi chiến tranh xảy ra và họ thả Lee để gửi anh ấy sang Pháp. Tôi đến New York và kiếm được việc làm tại một công xưởng quốc phòng. Tôi sống đàng hoàng, với những thành phố đầy lính tráng sẵn tiền để vung ra và thậm chí cả những đứa con gái hư hỏng mặc quần là áo lượt. Nhưng tôi vẫn sống đàng hoàng. Rồi anh ấy trở về. Tôi đến chỗ con tàu để đón anh ấy. Anh ấy rời khỏi tàu, họ đưa anh ấy về lại Leavenworth vì tội giết người lính kia ba năm trước. Sau đó, tôi thuê một luật sư để tìm một nghị sĩ Quốc hội can thiệp cho anh ấy ra ngoài. Tôi đã đưa người luật sư đó tất cả số tiền tôi dành dụm được. Vì vậy, khi Lee được thả ra, chúng tôi không có gì cả. Anh ấy nói chúng tôi nên kết hôn, nhưng chúng tôi không có khả năng. Khi tôi kể với anh ấy về chuyện tên luật sư hồi trước, anh ấy đã đánh tôi.”

Một lần nữa, cô ta bỏ viên kẹo đã bị biến dạng ra phía sau cái giường và lau tay vào mảnh tã lót bẩn thỉu của đứa bé. Cô ta chọn một viên kẹo khác trong hộp và ăn. Vừa nhai, vừa nhìn Horace chằm chằm, ánh mắt trống rỗng. Qua khe cửa sổ, bóng tối tỏa vào hơi lạnh và không khí chết chóc.

Goodwin đã ngừng ngáy. Ông ta cựa quậy và ngồi dậy.

“Mấy giờ rồi?”, ông ta nói.

“Cái gì?”, Horace nói. Anh nhìn vào đồng hồ đeo tay của mình. “Hai giờ ba mươi phút.”

Gần sáng Horace đã ngủ trên ghế. Khi anh thức dậy, một tia nắng hồng rơi xuống cầu thang, xuyên qua cửa sổ. Goodwin và người phụ nữ đang khe khẽ nói chuyện trên cái giường nhỏ. Goodwin nhìn anh chán chường.

“Chào buổi sáng”, ông ta nói.

“Tôi hy vọng ông không mơ thấy ác mộng”, Horace nói.

“Nếu tôi gặp ác mộng, đó sẽ là cơn ác mộng cuối cùng mà tôi có. Họ nói anh không nằm mơ ở đó.”

Horace nói: “Vậy sao? Tôi cho rằng ông sẽ tin tưởng chúng tôi, sau chuyện này”.

“Tin tưởng, quỷ tha ma bắt”, Goodwin nói, ông ta ngồi rất lặng lẽ, rất kiềm chế, với khuôn mặt ủ rũ, lơ đễnh trong bộ quần áo lao động bên ngoài sơ mi màu xanh, “anh nghĩ rằng gã đàn ông đó sẽ để tôi bước ra khỏi cánh cửa kia, đi trên phố và vào trong tòa án sau ngày hôm qua? Anh đã sống với loại người nào trong suốt cuộc đời vậy? Trong nhà giữ trẻ à? Tôi sẽ không làm điều đó, bản thân tôi sẽ không làm điều đó.”

“Nếu hắn ta làm thế, hắn ta đã nhảy vào chính cái bẫy của mình”, Horace nói.

“Cái đó sẽ có ích gì cho tôi hả? Để tôi nói cho...”

“Lee”, người phụ nữ nói.

“... anh vài điều: lần sau nếu anh muốn chơi may rủi với cái cổ của một người đàn ông...”

“Lee”, người phụ nữ nói. Cô ta đang dịu dàng vuốt tóc Goodwin và vuốt phẳng cái áo sơ mi cho ông ta. Horace quan sát hai người họ.

“Ông có muốn ở lại đây ngày hôm nay không?”, Horace khẽ nói. “Tôi có thể dàn xếp chuyện đó.”

“Không”, Goodwin nói. “Tôi ngán nó lắm rồi. Tôi sẽ vượt qua chuyện này. Chỉ cần bảo cái tên nghị sĩ mắc dịch đó đừng có bước quá gần tôi. Anh và cô ấy tốt hơn nên đi ăn sáng đi.”

“Em không đói”, người phụ nữ nói.

“Em hãy làm theo những gì anh bảo em”, Goodwin nói.

“Lee.”

“Đi đi”, Horace nói. “Cô có thể quay lại đây sau mà.”

Bên ngoài, trong không khí buổi sáng mát mẻ, anh bắt đầu thở những hơi thật sâu. “Hít đầy lá phổi của cô đi”, anh nói. “Một đêm trong chỗ đó sẽ làm bất cứ ai bị mê sảng. Hình dung ra cảnh ba người trưởng thành… Chúa ơi, đôi khi tôi tin rằng tất cả chúng ta đều là trẻ con. Nhưng hôm nay sẽ là ngày cuối cùng. Trưa nay, ông ấy sẽ bước ra khỏi chỗ đó như một con người tự do: cô có ý thức được điều đó không?”

Họ đi dạo trong ánh mặt trời tươi thắm, dưới bầu trời cao cao, dịu mát. Trên bầu trời xanh, những đám mây nhỏ được thổi đến từ phía tây nam và làn gió hiu hiu làm run rẩy những đóa hoa bồ kết ba gai.

“Tôi không biết anh muốn được trả công như thế nào”, cô ta nói.

“Quên nó đi. Tôi đã được trả rồi mà. Cô sẽ không hiểu được chuyện đó, nhưng linh hồn tôi đã học việc bốn mươi ba năm rồi. Bốn mươi ba năm. Dài gấp rưỡi cuộc đời cô đã sống. Vì vậy, cô thấy cái điều điên rồ nực cười đó cũng như sự bần cùng nghèo đói, sẽ tự quan tâm tới chính nó.”

“Và anh biết rằng anh ấy... rằng...”

“Thôi đi. Chúng ta đều mơ điều đó thành hiện thực. Chúa đôi khi cũng xuẩn ngốc, nhưng chí ít Ngài là một người cao quý. Cô không biết điều đó sao?”

“Tôi luôn luôn coi Ngài là một người đàn ông”, người phụ nữ nói.

* * *

Tiếng chuông đổ dồn khi Horace băng qua quảng trường về hướng tòa án. Quảng trường đã đông nghịt xe ngựa, ô tô và những người mặc quần áo lao động, họ dần dần tụ tập bên dưới lối vào kiểu Gothic của tòa nhà. Chiếc đồng hồ trên đầu đánh chín tiếng khi anh đặt chân lên cầu thang.

Các cánh cửa lớn phía đầu cầu thang chật hẹp đã được mở. Đằng sau chúng, mọi người đang tìm chỗ ngồi. Horace có thể nhìn thấy những cái đầu của họ - những cái đầu hói, những cái đầu hoa râm, những cái đầu bờm xờm, những cái đầu bôi dầu thơm bên trên những cổ áo kiểu cách và đây đó một cái mũ có buộc dây dưới cằm hoặc một cái mũ gắn hoa.

Không khí ùa vào qua những ô cửa sổ mở, thổi qua những mái đầu và dội ngược lại Horace ở chỗ cửa chính, nặng mùi thuốc lá, mùi mồ hôi chua, mùi đất và thứ mùi không lẫn vào đâu được của những phòng xử án, thứ mùi mốc meo của dục vọng tàn lụi, của tham lam, tranh cãi ti tiện và cay đắng. Các cửa sổ nhìn ra ban công khép lại dưới mái vòm cong cong. Cơn gió nhẹ luồn qua chúng, mang theo tiếng chíp chíp, tiếng gù gù của lũ chim sẻ và bồ câu làm tổ chỗ mái hiên nhô ra, thi thoảng tiếng còi ô tô từ quảng trường bên dưới vọng lên và chìm trong sự ầm ĩ của những bước chân trên hành lang và cầu thang.

Chỗ ghế ngồi của quan tòa trống không. Tại một cái bàn dài, anh có thể nhìn thấy mái tóc đen, khuôn mặt nâu sạm hốc hác của Goodwin và cái mũ xám của người phụ nữ. Ở đầu kia của bàn, là một người đàn ông đang ngồi xỉa răng. Hộp sọ của ông ta được bọc sát bởi một cái mũ nhỏ bên những lọn tóc đen xoăn tít mỏng manh trên chỗ đầu bị hói. Ông ta có cái mũi dài xấu xí, mặc bộ com lê vàng nâu, một cái cặp da lịch sự và cái mũ viền dải lụa màu đỏ và vàng nhạt đặt trên mặt bàn gần đó, ông ta vừa nhìn chăm chăm ra cái cửa sổ bên trên những dãy đầu, vừa xỉa răng của mình. Horace đứng lại ngay bên cửa. “Đó là một luật sư”, anh nói. “Một luật sư Do Thái đến từ Memphis.” Sau đó, anh nhìn về phía sau những cái đầu xung quanh chiếc bàn, nơi các nhân chứng và những người có khả năng làm chứng sẽ ngồi. “Mình biết mình sẽ tìm thấy gì trước khi tìm thấy nó”, anh nói. “Cô ta đội một cái mũ màu đen.”

Anh bước lên lối đi. Từ bên ngoài cửa sổ - nơi những tiếng chuông phát ra và bên dưới cái mái hiên vươn ra, những con chim bồ câu gù gù trong cổ họng - tiếng nói của viên mõ tòa vang lên:

“Tòa án đáng kính của quận Yoknapatawpha bây giờ bắt đầu y theo luật pháp…”

Temple đội một chiếc mũ đen. Viên thư ký gọi tên cô hai lần trước khi cô di chuyển lên ghế nhân chứng. Một lát sau, Horace nhận ra rằng quan tòa, với một chút gắt gỏng, đang nói với anh:

“Đây có phải là nhân chứng của ông không, ông Benbow?”

“Đúng vậy, thưa ngài.”

“Ông muốn cô ấy tuyên thệ và lời khai của cô ấy được ghi chép lại chứ?”

“Tôi muốn, thưa ngài.”

Giọng của viên mõ tòa vẫn còn đều đều, lặp đi lặp lại, mặc dù tiếng chuông đã dứt.

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 30
  • 31
  • 32
  • More pages
  • 35
  • Sau