Khi người phụ nữ đi vào phòng ăn, trên tay là một đĩa thịt, Popeye và người đàn ông tìm cái bình ở nhà bếp cùng người lạ đã ngồi sẵn ở cái bàn ăn đóng từ ba mảnh gỗ tạp sần sùi. Bước vào ánh sáng của ngọn đèn đặt trên bàn, khuôn mặt người phụ nữ chưa già nua nhưng ủ rũ, đôi mắt lạnh giá. Quan sát người phụ nữ, Benbow thấy cô ta không nhìn anh một lần nào khi cô ta đặt đĩa thức ăn lên bàn và đứng lại nhìn bàn ăn một lát như cách mà các bà nội trợ vẫn thường làm, rồi bỏ đi. Cô ta cúi xuống một chiếc thùng vẫn mở nắp ở góc phòng, lấy từ trong đó một cái đĩa, dao và nĩa, mang đến bàn và đặt trước mặt Benbow, rồi như vô tình, tay áo cô ta chạm nhẹ vào vai anh.
Lúc cô ta đang làm việc đó, Goodwin bước vào. Ông ta mặc chiếc áo khoác vấy bùn. Khuôn mặt gầy nhom biến dạng, xung quanh quai hàm là bộ râu đen lởm chởm; tóc của ông ta đã ngả hoa râm ở chỗ thái dương. Ông ta đang dìu một ông già với bộ râu dài màu trắng bẩn thỉu. Benbow nhìn Goodwin đặt ông già ngồi xuống ghế, ông ta ngoan ngoãn ngồi xuống với sự háo hức khốn khổ của người chỉ còn lại một giác quan, bởi ông ta vừa mù vừa điếc: một người đàn ông thấp lùn với cái đầu hói và khuôn mặt hồng hào, tròn trịa, phúng phính, đôi mắt bị đục nhân trông giống như hai cục đờm. Benbow nhìn ông già lấy một miếng giẻ rách bẩn thỉu từ trong túi ra và phun vào đó một thứ bã bọt hầu như không có màu, cái gì đó từng là thuốc lá sợi để nhai, rồi gấp miếng giẻ rách và nhét lại vào túi. Người phụ nữ chia phần từ đĩa thức ăn vào đĩa của ông già. Những người khác đã bắt đầu ăn, im lặng và đều đều, nhưng ông già ngồi đó, đầu ông ta chúi xuống cái đĩa, bộ râu nhúc nhích chậm chạp. Ông ta dò dẫm trên đĩa với bàn tay run rẩy thiếu tự tin và tìm ra một miếng thịt nhỏ, bắt đầu mút nó cho tới khi người phụ nữ quay lại, gõ vào đốt ngón tay của ông. Ông ta bỏ miếng thịt lại trên đĩa rồi Benbow nhìn người phụ nữ cắt nhỏ thức ăn trong đĩa, thịt, bánh mì và mọi thứ, sau đó đổ lúa miến lên trên. Benbow không quan sát nữa. Khi đã xong bữa ăn, Goodwin lại dìu ông già ra ngoài. Benbow quan sát hai người họ ra khỏi cửa và nghe tiếng họ đi lên hành lang.
Đám đàn ông quay lại chỗ hiên. Người phụ nữ đã dọn sạch bàn ăn và mang những cái đĩa xuống bếp. Cô ta đặt chúng lên bàn và đi đến cái thùng phía sau bếp lò, đứng ở đó một lúc. Sau đó cô ta quay lại, đặt đồ ăn tối của mình lên đĩa, ngồi vào bàn, ăn và châm một điếu thuốc từ cái đèn dầu, rửa những cái đĩa rồi xếp chúng lên kệ. Tiếp theo, cô ta quay lên hành lang. Không ra ngoài hiên, cô chỉ đứng bên trong cánh cửa, lắng nghe câu chuyện của họ, lắng nghe người lạ nói và cái âm thanh nho nhỏ không rõ ràng khi họ chuyền cái bình có tay cầm vòng quanh. “Điều này thật ngu ngốc”, người phụ nữ nói, “Anh ta muốn gì…”. Cô ta lắng nghe giọng của người lạ; một giọng nói nhanh, yếu ớt đến kỳ dị, giọng của một người có thói quen nói rất nhiều, ngoài ra chẳng có gì. “Dù sao chăng nữa cũng không được uống rượu”, người phụ nữ nói sau cánh cửa. “Tốt hơn là anh ta nên tiếp tục đi đến nơi mà anh ta muốn đến, nơi mà người đàn bà thân thiết của anh ta có thể chăm sóc cho anh ta.”
Cô lắng nghe anh ta. “Từ cửa sổ, tôi có thể nhìn thấy vườn nho và cả cái giàn nữa. Nhưng tới mùa đông, tất cả chỉ còn lại một cái giàn trống không. Điều đó lý giải tại sao chúng ta biết Tự nhiên là đàn bà; bởi vì có sự tương đồng giữa nhu cầu xác thịt của giống cái và mùa giống cái. Như vậy, mỗi mùa xuân tôi có thể nhận thấy sự xôn xao ngàn năm ẩn giấu trong vườn nho, đó là lời hứa cám dỗ màu xanh đầy bất ổn. Đó là điều mà những bông hoa nho đem tới. Không nhiều lắm, đó là một vùng hoang vu và những cái cây phun trào nhựa sống, hoa không nhiều hơn lá, ẩn giấu dưới cái giàn, cho đến khoảng cuối tháng Năm, trong lúc chạng vạng, tiếng nói của con bé - Belle Bé nhỏ - giống như tiếng thì thầm của chính loài nho dại. Con bé không bao giờ nói: ‘Horace, đây là Louis, Paul hay bất cứ người nào’, mà chỉ nói: ‘Horace ấy mà’. Ông hiểu không, khoác lên mình chiếc váy màu trắng bé nhỏ lúc chạng vạng, cả hai cùng có vẻ kín đáo, cảnh giác và hơi nôn nóng. Tôi không hề thấy xa lạ với con bé nữa, giống như chính tôi đã sinh ra nó.”
“Như vậy là sáng nay, không, tức là đã bốn ngày trước, thứ Năm con bé đã về nhà từ trường học và hôm đó là thứ Ba, tôi đã nói: ‘Cục cưng, nếu con tìm ra nó trên tàu hỏa, nó chắc chắn thuộc quyền sở hữu của công ty đường sắt, con mang nó về nhà là chống lại luật pháp, giống như hai điện cực trái dấu vậy’.”
“Nó cũng tốt như ông mà. Nó đi đến Tulane.”
“Nhưng trên một tàu hỏa”, tôi đáp.
“Cháu đã tìm thấy nó trong một chỗ còn tồi tệ hơn trên tàu hỏa nữa.”
“Ta biết”, tôi đáp. “Ta cũng từng có một thứ như thế. Nhưng con đừng mang chúng về nhà. Con chỉ nên bước qua chúng và tiếp tục đi. Con không được làm bẩn đôi dép của mình.”
Điều đó xảy ra trước bữa ăn tối, khi đó chúng tôi đang ở trong phòng khách, chỉ có hai chúng tôi trong nhà. Belle đã đi xuống phố. Rồi thì…
“Chuyện của ông là gì vậy? Ông không phải bố tôi. Ông chỉ là… chỉ là...”
“Cái gì”, tôi hỏi, “Chỉ là cái gì?”.
“Vậy thì, đi mà nói với mẹ! Đó là điều ông nên làm.”
“Nhưng con à, trên tàu hỏa…”, tôi nói, “Nếu nó mà vào phòng của con trong một khách sạn, ta sẽ giết nó. Nhưng lại là trên tàu hỏa, ta chán ghét lắm rồi. Hãy đuổi nó đi và bắt đầu lại”.
“Ông thật là tốt! Ông thật là tốt! Đồ nhỏ mọn! Đồ nhỏ mọn!”
“Hắn bị điên”, người phụ nữ nói, bất động sau cánh cửa. Giọng người lạ tiếp tục, lộn xộn, gấp gáp, dài dòng.
“Rồi con bé nói ’Không! Không!’, tôi ôm nó và con bé bám sát vào tôi. ’Cháu không hề có ý như vậy! Horace! Horace!’ Tôi ngửi thấy mùi của những bông hoa bị vùi dập, những bông hoa mỏng manh, tàn tạ và nước mắt, khi ấy tôi nhìn thấy gương mặt con bé trong cái gương. Có một cái gương sau lưng con bé và một cái khác sau lưng tôi, con bé đang ngắm nhìn nó trong cái gương sau lưng tôi, không nhớ rằng còn một cái gương khác trong phòng mà tôi có thể nhìn thấy khuôn mặt nó, tôi thấy nó đang ngắm nhìn phía sau tôi với sự thuần khiết vờ vĩnh. Điều đó có nghĩa Tự nhiên là ’đàn bà‘ và Sự Tiến bộ là ‘đàn ông’; Tự nhiên làm ra cây nho nhưng Sự Tiến bộ phát minh ra cái gương soi.”
“Hắn bị điên”, người phụ nữ đang lắng nghe đằng sau cánh cửa, thốt lên.
“Nhưng không hoàn toàn như vậy. Tôi có suy nghĩ rằng tuổi xuân, hoặc có lẽ bốn mươi ba năm tuổi đời, đã làm tôi đau khổ. Có lẽ tôi sẽ được bình an, khỏe mạnh nếu như tôi có một ngọn đồi để nghỉ ngơi trong một thời gian… Đó là miền đất ấy. Bằng phẳng, phì nhiêu, dường như vô vàn những cơn gió đã thổi tiền bạc tới nơi ấy. Giống như việc ông không hề cảm thấy ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng mình có thể nhặt những chiếc lá rụng từ rừng cây, mang vào ngân hàng và đổi thành tiền. Vùng châu thổ đó. Năm nghìn dặm vuông, không có lấy một ngọn đồi, chỉ có những ụ đất của người da đỏ đã đắp để đứng lên đó khi con sông dâng nước tràn bờ. “
“Tôi đã nghĩ nó đúng là ngọn đồi mà tôi hằng mong muốn mà không phải chính Belle Bé nhỏ đã khiến tôi có suy nghĩ đó. Ông có hiểu nó là cái gì không?”
“Hắn ta…”, người phụ nữ đằng sau cánh cửa nói, “Lee không nên để cho…”.
Benbow không chờ đợi câu trả lời nào. “Đó là một mảnh vải với phấn hồng trên ấy. Tôi đã biết mình sẽ tìm thấy nó trước khi đi vào trong phòng của Belle. Nó được chèn phía sau tấm gương soi: một cái khăn tay con bé từng dùng để chùi đi phấn thừa khi trang điểm được nhét sau mặt lò sưởi. Tôi bỏ nó vào trong túi quần, lấy mũ xuống và bước ra. Tôi đã đi nhờ trên một chiếc xe tải trước khi nhận ra rằng tôi chẳng có đồng nào trong túi. Đó là phần nào của chuyện ấy, ông thấy đó, tôi không thể đổi tiền từ một tấm ngân phiếu. Tôi không thể xuống khỏi cái xe tải, trở lại thị trấn và lấy một ít tiền. Tôi không thể làm vậy. Đúng là tôi từng đi bộ và lang thang đi nhờ xe suốt từ đó. Tôi đã ngủ một đêm trong trại cưa ở một nhà máy, một đêm ở túp lều người da đen, một đêm trên xe vận chuyển hàng ở trạm nghỉ của tàu hỏa. Tôi chỉ muốn một ngọn đồi để nghỉ ngơi trên đó. Rồi thì tôi sẽ được bình yên và khỏe mạnh. Khi anh cưới vợ, anh bắt đầu cảm nhận thấy những vết thương lòng. Khi anh cưới vợ của một ai khác, anh bắt đầu thấy những vết thương lòng từ mười năm trước của một ai khác. Tôi chỉ muốn một ngọn đồi để nằm nghỉ một thời gian.”
“Đồ ngốc”, người phụ nữ nói, “Đồ ngốc tội nghiệp”. Cô ta vẫn đứng sau cánh cửa. Popeye từ phía sau đi xuyên qua hành lang. Hắn đi ngang qua người phụ nữ mà không nói gì và đi lên chỗ cái hiên.
“Đi nào”, hắn nói, “Kiếm tiền thôi”. Người phụ nữ nghe tiếng ba người đàn ông bỏ đi. Cô ta vẫn đứng đấy. Khi ấy, cô ta nghe thấy tiếng người lạ loạng choạng rời khỏi ghế và băng qua cái hiên. Rồi cô ta nhìn thấy anh ta, như một hình bóng mờ nhạt, một chiếc bóng nhạt nhòa của người đàn ông gầy gò trong thứ quần áo kỳ quái, mái tóc lưa thưa được chải gọn ghẽ, say mèm. “Người ta không cho anh ăn uống đàng hoàng à?”, người phụ nữ nói.
Cô ta bất động, tựa nhẹ vào bức tường, anh ta đang đối diện cô. “Cô thích sống như thế này à?”, anh ta hỏi, “Tại sao cô làm thế? Cô hãy còn trẻ, cô có thể trở lại thành phố và khiến mình khá hơn còn nhanh hơn một cái chớp mắt”. Người phụ nữ không cử động, tựa nhẹ vào bức tường, hai cánh tay khoanh lại. “Đồ đáng thương, đồ đáng thương nhát gan”, người phụ nữ nói.
“Cô thấy không”, anh ta nói, “Tôi thiếu can đảm, thứ đó đã rời bỏ tôi. Cỗ máy thì còn nguyên đây, nhưng nó không hoạt động”. Bàn tay anh ta dò dẫm trên gò má của người phụ nữ. “Cô hãy còn trẻ.” Người phụ nữ không cử động, cảm giác bàn tay của anh ta trên mặt cô, chạm vào da thịt cô như thể đang cố gắng nghiên cứu hình dạng, vị trí các xương và kết cấu cơ thể của người phụ nữ. “Thực tế, cô còn cả cuộc đời trước mặt. Cô bao nhiêu tuổi rồi? Cô chưa quá ba mươi được.” Giọng anh ta khẽ khàng, gần như thì thầm.
Khi nói, người phụ nữ không hề hạ giọng. Không cử động, hai cánh tay vẫn khoanh trước ngực. “Tại sao anh rời bỏ vợ của anh?”, người phụ nữ hỏi.
“Bởi vì cô ta đã ăn tôm”, anh ta đáp. “Tôi không thể… Đó là vào thứ Sáu, tôi suy nghĩ làm thế nào vào buổi chiều tôi phải đi đến nhà ga, lấy cái hộp tôm từ tàu hỏa, đi bộ về nhà với nó, đếm hàng trăm bước chân, đổi tay, và nó…”
“Anh đã làm việc đó mỗi ngày à?”, người phụ nữ hỏi.
“Không. Chỉ có thứ Sáu thôi. Nhưng tôi đã làm vậy trong mười năm, kể từ khi chúng tôi cưới nhau. Tôi vẫn không thích mùi tôm nhưng không ngại mang nó về nhà. Tôi có thể chịu đựng được chuyện đó nhưng vì cái hộp tôm chảy nước. Suốt đường về nhà, nó cứ nhỏ giọt và nhỏ giọt. Sau này, tôi tự đi theo sau chính tôi đến nhà ga, đứng một bên, nhìn Horace Benbow lấy cái hộp ra khỏi tàu hỏa và bắt đầu về nhà với nó, cứ một trăm bước chân lại đổi tay, tôi đi theo chính mình và nghĩ ngợi: Đây là gã Horace Benbow giả tạo với những giọt nước bốc mùi kinh khủng trên một lề đường ở Mississippi.”
“Chao ôi”, người phụ nữ nói. Cô ta thở êm ả, hai cánh tay khoanh lại. Cô động đậy, anh ta bỏ tay ra khỏi người phụ nữ và đi theo cô ta xuống hành lang. Họ đi vào nhà bếp nơi cái đèn dầu đang tỏa sáng.
“Hãy bỏ qua cách ăn mặc bê bối của tôi”, cô ta nói. Người phụ nữ đến bên cái thùng phía sau bếp lò, kéo ra và đứng cạnh nó, hai bàn tay giấu trong váy. Benbow đứng giữa căn phòng. “Tôi phải giấu nó trong thùng để lũ chuột không thể đến gần nó được”, người phụ nữ nói.
“Cái gì?”, Benbow hỏi. “Nó là cái gì vậy?” Anh ta bước đến chỗ có thể nhìn vào cái thùng. Trong thùng có một đứa bé đang ngủ, chưa đầy một tuổi. Anh ta nhìn xuống khuôn mặt đứa bé.
“Chao ôi”, anh ta kêu lên. “Cô có một bé trai.” Họ cùng nhìn xuống khuôn mặt say ngủ đang nhăn lại của đứa bé. Có tiếng động từ bên ngoài, tiếng bước chân đi vào hiên nhà. Người phụ nữ đẩy mạnh cái thùng về chỗ cũ trong góc bằng đầu gối khi Goodwin bước vào.
“Được rồi”, Goodwin nói. “Tommy sẽ dẫn đường cho anh tới cái xe tải.” Ông ta quay lại, bước đi trên lối vào trong nhà.
Benbow nhìn người phụ nữ. Hai bàn tay vẫn quấn bên trong váy. “Cảm ơn về bữa ăn tối”, anh ta nói. “Một ngày nào đó, có thể…” Anh nhìn người phụ nữ đang quan sát mình, khuôn mặt cô ta không ủ rũ lắm, chỉ hơi lạnh lùng như nó vốn thế. “May ra tôi có thể làm một điều gì đó cho cô ở Jefferson. Gửi cho cô một vài thứ cô cần…”
Người phụ nữ xoay người, bỏ tay ra khỏi váy, thình lình cô ta giật tay lại và giấu chúng đi. “Mấy thứ tương tự như nước rửa bát và đồ để giặt giũ. Anh nên gửi cho tôi một cái cắt móng tay”, người phụ nữ nói.
* * *
Người này bước sau người kia thành một hàng, Tommy và Benbow đi xuống ngọn đồi, đi tiếp vào con đường bị bỏ quên. Benbow ngoái nhìn phía sau. Sự đổ nát thê lương của ngôi nhà in lên nền trời, bên trên đám tuyết tùng mờ xỉn, nhạt nhòa, tiêu điều, thăm thẳm. Con đường đã bị xói mòn lồi lõm quá mức để có thể gọi là một con đường và quá thẳng để có thể coi là một cái rãnh, đọng đầy bùn bởi những dòng nước vào mùa đông dâng lên đột ngột và bị nghẽn lại bởi những cây dương xỉ và cành lá mục nát. Theo sau Tommy, Benbow bước vào một con đường mòn mờ nhạt nơi có vô vàn dấu chân đã in lại trên những lớp thực vật bị phân hủy trong bùn đất. Trên đầu, vòm cây rừng thưa thớt tương phản với bầu trời.
Con dốc trở nên khúc khuỷu. “Chúng tôi đã nhìn thấy một con cú quanh chỗ này”, Benbow nói.
Phía trước anh ta, Tommy cười hô hố: “Tao chắc chắn là ngay cả con vật đó cũng làm hắn sợ”.
“Đúng vậy”, Benbow trả lời. Anh ta theo sau cái bóng lờ mờ của Tommy, cố gắng bước cẩn thận, nói một cách cẩn thận vì đang say rượu.
“Tao là con chó nếu hắn không phải là thằng ngu xuẩn nhát chết nhất mà tao từng biết”, Tommy nói. “Cũng tại đây, khi hắn đang đi trên con đường mòn để đến hiên nhà, có một con chó xuất hiện từ đằng sau ngôi nhà, đi ngược lên, khụt khịt ngửi mấy gót chân của hắn giống như bất kỳ con chó nào, tao sẽ là chó nếu hắn đã không sợ hãi giống như nó là rắn hổ mang trong khi hắn đi chân không, thế là hắn vung ra cây súng đồ chơi bé tí đó, bắn con chó chết tươi. Tao là chó nếu hắn không làm như thế.”
“Nó là chó của ai vậy?”, Horace hỏi.
“Của tao”, Tommy nói. Hắn ta cười như nắc nẻ: “Một con chó già đến nỗi không làm tổn hại nổi một con rệp”.
Con đường dốc nhưng không lồi lõm; Benbow bước thận trọng, nhẹ nhàng trong cát. Tương phản màu cát nhạt nhòa, bây giờ anh có thể nhìn thấy Tommy đang lóng ngóng lê từng bước giống như một con la đi trong cát, không làm ra vẻ cố gắng, ngón chân cái của anh hất nhẹ cát lại phía sau từng cái yếu ớt.
Cái cái cây kềnh càng bị đốn ngã chắn ngang con đường. Tommy đã trèo qua nó và Benbow làm theo, vẫn cẩn thận, rón rén, tự xoay xở để xuyên qua đám tán lá còn chưa khô, có vẻ vẫn xanh tươi. “Thằng Popeye đang…”, Tommy nói. Hắn ta quay lại. “Mày có thể vượt qua được không đấy?”
“Tôi làm được mà”, Horace trả lời. Anh đã lấy lại thăng bằng. Tommy đi tiếp.
“Thằng Popeye đang làm một vài việc nữa”, Tommy nói, “Toàn những điều vô ích, ví dụ như chặn con đường này bằng cách như vậy đó. Nếu con đường được thông suốt, chúng ta sẽ đi bộ chừng một dặm là đến chỗ mấy cái xe tải. Tao đã bảo người ta đến đây để mua hàng của Lee bốn năm nay và chẳng có thằng cảnh sát nào đến quấy rầy Lee hết. Vả lại, đem cái xe đó của hắn ra ngoài này lần nữa là chuyện lớn. Nhưng bọn họ không ngăn cản hắn. Tao sẽ là con chó nếu hắn không khiếp sợ chính cái bóng của hắn.”
“Tôi cũng sợ điều đó”, Benbow nói, “nếu như bóng của hắn là bóng của tôi”.
Tommy cười khùng khục. Con đường giờ đã trở thành một đường hầm đen ngòm được trải bằng thứ cát rất mịn, không còn thấy ánh sáng. “Ở đâu đó xung quanh chỗ này là đường mòn để rẽ đến con suối”, Benbow suy nghĩ, cố gắng phân biệt nơi con đường mòn dẫn vào mé rừng. Họ tiếp tục đi.
“Ai lái chiếc xe tải?”, Benbow hỏi, “Mấy người ở Memphis à?”.
“Đúng đấy”, Tommy nói, “Mấy cái xe tải đó là của thằng Popeye”.
“Tại sao bọn Memphis đó không ở Memphis và để mấy người các anh yên ổn làm rượu của mình.”
“Bởi vì ở đây có tiền”, Tommy nói, “Những vụ kiểu như một phần tư gallon* hay nửa gallon chỉ đem lại ít tiền thôi. Lee làm việc đó như là cho mượn mà không đòi trả lại, nhặt nhạnh thêm một hai đô la. Còn tiền nhiều là từ việc chở rượu đi bỏ mối mà ra đó...”.
* 1 gallon = 3,785 lít
“Ồ”, Benbow nói, “Tôi nghĩ thà chết đói còn hơn là gã đó cứ lảng vảng quanh mình”.
Tommy cười khùng khục. “Popeye cũng được. Hắn chỉ thọc mạch một chút thôi.” Hắn ta vẫn bước đều, tương phản với sự tĩnh lặng, tăm tối của con đường phủ đầy cát. “Tao là con chó nếu ngay lúc này hắn không gây ra một chuyện gì đó. Phải vậy không?”
“Đúng”, Benbow đáp, “hắn là thằng chuyên gây chuyện rắc rối”.
Chiếc xe tải đang đợi trên đường, đoạn này đã trở lại là đường đất sét, bắt đầu dẫn tới quốc lộ rải sỏi. Hai gã đàn ông đang ngồi trên rào chắn của con đường chính, hút thuốc lá.
“Tụi mày lề mề quá”, một trong hai gã đàn ông nói, “Không phải vậy sao? Đáng nhẽ bây giờ tao đã đi được nửa đường đến thị trấn. Còn một người phụ nữ đang đợi tao đấy”.
“Chắc rồi”, gã đàn ông còn lại nói, “Cô ta đang nằm ngửa chờ mày đấy”. Gã đàn ông thứ nhất lầm bầm nguyền rủa gã thứ hai.
“Bọn tao đến nhanh nhất có thể rồi”, Tommy nói, “Tại sao bọn mày không treo một cái đèn? Nếu tao và hắn ta là cảnh sát, bọn tao đã tìm được bọn mày”.
“Chà, biến đi, mấy thằng con hoang”, gã thứ nhất nói. Chúng búng mấy điếu thuốc văng đi và leo vào trong xe tải. Tommy cười khùng khục. Benbow quay lại và bắt tay với hắn ta.
“Tạm biệt”, anh nói, “và rất cảm ơn, anh…“.
“Tên tao là Tommy”, người kia nói. Bàn tay chai sạn, uể oải của hắn ta vụng về luồn vào bàn tay của Benbow và trang trọng lắc nó một cái rồi lóng ngóng rút về. Hắn ta đứng đó, dáng lùn tịt bè bè, kỳ quái tương phản ánh sáng nhạt nhòa của con đường, trong khi Benbow bước lên bậc thang. Anh bị sẩy chân, cố ghìm người lại.
“Cẩn thận đấy”, một giọng nói từ buồng lái xe tải vọng ra. Benbow đã vào trong. Gã đàn ông thứ hai dựng một khẩu súng săn phía sau chỗ ngồi. Chiếc xe tải nổ máy chuyển động trên mặt đất loang lổ, tiến vào quốc lộ rải sỏi, về hướng Jefferson và Memphis.