Nói một cách khái quát, “mùa khô” có lẽ đã trở thành một truyền thống “tấn công” kẻ thù của Quân đội nhân dân Việt Nam chúng ta chăng? Ngay từ khi thành lập, mở đầu bằng hai trận tiêu diệt đồn Phai Khắt và Nà Ngần chả đúng vào mùa khô năm 1944 là gì?
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp 9 năm, cứ vào đúng mùa khô là các chiến dịch lớn bắt đầu và hàng loạt đồn bốt địch lại thi nhau sập đổ dẫn đến chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu đúng vào dịp kết thúc mùa khô.
Đối với bọn ngụy cũng vậy. Cứ mỗi năm, khi mùa khô đến là chúng nó lo sợ mất ăn mất ngủ. Một số nhà bác học, kỹ sư Mỹ bán rẻ linh hồn cho bọn quỷ dữ trong tòa Nhà Trắng và Lầu Năm Góc đã dày công nghiên cứu chế tạo ra đủ loại phương tiện hiện đại, máy móc tối tân như máy phát hiện tiếng động cơ xe máy từ xa, cây nhiệt đới phát hiện được cả tiếng chân người, máy bay trinh sát các loại, máy bay điện tử chụp ảnh ban đêm cả một vùng rộng lớn. Vô vàn loại bom, mìn, đạn, pháo các cỡ. Kể cả chất độc hóa học đã được rải xuống khắp nơi… Tất cả những thứ đó đã được sử dụng triệt để nhằm ngăn chặn những mùa khô. Thế nhưng mùa khô vẫn đến, cứ đến, gieo bao nỗi kinh hoàng lên đầu chúng nó. Ngược lại, mùa khô với chúng ta lại là mùa làm ăn lớn. Mùa thu hái những chiến công.
Vào đầu mùa khô năm 1966, kẻ địch đánh phá ác liệt các tuyến đường thuộc khu vực Binh trạm 12 quản lý. Giao thông vận tải bị cản trở nghiêm trọng. Đảng ủy, thủ trưởng Binh trạm 12 chỉ thị cho Đội điều trị 14 cử một tổ phẫu thuật lưu động lên chốt ở La Trọng đường chiến lược 12.
Đội phẫu thuật gồm 10 người, cả nhân viên chuyên môn lẫn chị nuôi. Trừ một gánh nồi niêu xoong chậu và một gánh dụng cụ đựng trong đôi bồ nhỏ. Còn những người khác, ngoài chiếc ba lô đựng y cụ, thuốc men… mỗi người còn phải đeo thêm một ba lô quần áo chăn màn của bản thân và để phục vụ thương binh, bệnh binh. Chúng tôi lên đường vào lúc sâm sẩm tối. Trăng lưỡi liềm đầu tháng tỏa ánh sáng mờ mờ. Có lúc lại bị cả một vùng rừng núi trùng điệp che khuất. Chúng tôi lần đi theo con đường mòn nhỏ gồ ghề khó bước. Lúc lên dốc, khi xuống đèo. Có chỗ trơn như đổ mỡ. Càng lên cao, gió càng thổi dữ. Cũng may gió thốc từ phía sau. Cây cối ngả nghiêng, cành khô gãy răng rắc nghe rợn cả người. Chưa hết, những con vắt bị đói lâu ngày, giấu mình dưới những tầng lớp lá mục, nay thấy hơi người ngóc đầu cả dậy, đo mình thoăn thoắt bám chặt vào chân chúng tôi mà hút máu. Những con vắt xanh còn dữ dằn hơn nhưng bám vào bẹn, nách, thậm chí chui cả vào ngực, cổ hoặc những nơi thâm nghiêm nhất nữa. Chỗ nào bị chúng hút máu no rồi nhả ra thì chỗ đó rất đau, rất ngứa và máu cứ ri rỉ chảy mãi rất khó cầm.
Chúng tôi cứ đi như vậy trong cảnh đêm rừng vắng. Mỗi bước nhích chân lại cảm thấy trong người rời rã. Đến khoảng 10 giờ đêm chúng tôi mới leo lên tới đỉnh dốc. Ai cũng thở phào nhẹ nhõm. Sau ít phút nghỉ ngơi, chúng tôi động viên nhau xuống dốc. Tưởng khi xuống sẽ dễ chịu hơn, ai dè lại càng chùn chân mỏi gối. Oái oăm hơn nữa là chiếc ba lô đằng trước đã níu người xuống lại thêm chiếc ba lô đằng sau đè nặng trên lưng. Nếu không nhờ có chiếc gậy Trường Sơn chống đỡ thêm cho đôi chân, có khi cả người và ba lô đều rơi xuống vực. Cứ đi, đi mãi hết dốc này qua dốc khác. Cuối cùng thì chúng tôi cũng đến được nơi cần đến. Bác Biên - Bệnh xá trưởng cùng các đồng chí ở đây đã đón tiếp chúng tôi rất thân tình, làm vơi đi bao nỗi mệt nhọc vất vả vừa qua. Định tranh thủ ngả lưng một chút cho đỡ mệt. Không ngờ chưa nóng chỗ thì tiếng bom tọa độ đã nổ ầm ầm ở phía Bãi Dinh, xen lẫn là tiếng pháo cao xạ của ta bắn từ các trận địa lên rất dữ dội. Thế là chúng tôi bật cả dậy, lao vào chuẩn bị sẵn sàng đón khách. Quả nhiên chỉ chừng một tiếng sau, anh chị em C7 thanh niên xung phong đã khiêng vào ba, bốn thương binh, trong đó có một thương binh bị thương vào bụng và cột sống. Chúng tôi đã nhanh chóng quyết định mổ sớm, khâu các vết thương thủng ruột non, lấy mảnh bom đã làm đứt tủy gây liệt hoàn toàn hai chi dưới. Công việc hậu phẫu khó khăn phức tạp hơn ở những thương binh khác rất nhiều. Bốn tám giờ sau, thương binh vẫn chưa trung tiện được. Bụng mỗi lúc một chướng căng. Nhìn vẻ mặt đau khổ của bệnh nhân, ai cũng ao ước giá mà có được một cái “xông en-no” để hút dịch trong dạ dày ra, chắc chắn bệnh nhân sẽ dễ chịu hơn nhiều. Nhưng kiếm đâu ra của quý đó. Ngay cả ở Đội điều trị 14 cũng còn không có. Cô Thảo y tá chợt nhớ ra ở địa phương cô, hễ ai chướng bụng các cụ lại nướng bồ kết, tán thành bột nhét vào trong hậu môn, một lúc sau “đánh rắm” được là khỏi. Cô chạy xuống C7 xin xác chị thanh niên xung phong về làm thử. Không kết quả. Ai cũng băn khoăn, thất vọng. Bỗng có tiếng của y sĩ Định reo lên:
- Có xông hút dịch dạ dày rồi thủ trưởng ạ.
- Đâu, đâu? - Tôi mừng rỡ hỏi.
Định chỉ vào sợi dây truyền huyết thanh bằng Polyethylen nói:
- Cắt một đầu thật nhẵn, khoét thêm hai, ba lỗ bầu dục ở trên cạnh rồi luồn qua lỗ mũi vào dạ dày hút được dịch ra chứ thủ trưởng?
- Giỏi! Giỏi! Cậu đúng là một cây sáng kiến.
Quay sang phía Tám, Xinh, Diên, tôi giục:
- Các cô kiếm cho tôi sợi dây truyền cũ. Chúng ta làm thử xem.
Quả nhiên chỉ sau dăm bảy lần hút, dịch dạ dày ra rất nhiều. Bụng bớt căng chướng hẳn. Chừng tiếng sau bệnh nhân trung tiện được. Chúng tôi mừng lắm.
Anh K… là một trong số thương binh nặng thuộc diện phải chăm sóc đặc biệt nên chị nuôi phải thường xuyên trèo đèo lội suối đi hàng chục cây số kiếm rau, kiếm thịt về nuôi dưỡng. Hộ lý phải móc phân hàng ngày. Cách 30 phút đến 1 giờ lại một lần trở mình xoa bóp chống loét. Ngày thứ mười bốn, các vết thương liền sẹo, chúng tôi chuyển anh về tuyến sau. Tin vui đội phẫu thuật bước đầu ra quân mổ cấp cứu tại trọng điểm La Trọng cứu sống một thương binh nặng lan nhanh trong các đơn vị. Đặc biệt là ở Tiểu đoàn 13, Trung đoàn 84 cao xạ pháo 37 ly. Sau đó ít ngày, chính đơn vị này đã bắn rơi một phản lực Mỹ ở gần đèo Mụ Giạ. Đồng chí Huynh - Chính trị viên Tiểu đoàn 13 đã thông báo tin vui đó và coi chiến công này có một phần đóng góp của đội phẫu thuật.
Từ mùa khô năm 1967, đế quốc Mỹ vốn rất thực dụng. Biết rút kinh nghiệm ngay và rất khôn ngoan. Không đánh phá tràn lan khắp dọc đường vận chuyển nữa mà tập trung đánh phá ác liệt, liên tục, dứt điểm ở từng trọng điểm một. Giao thông bị cản trở rất nghiêm trọng. Binh trạm 12 đã phải huy động hàng tiểu đoàn gùi xăng trên lưng vượt qua các trọng điểm, tiếp viện cho các xe ở phía trước để vận chuyển hàng. Đội phẫu chúng tôi cũng được lệnh rời La Trọng lên chốt ở cây số 34 trọng điểm Cổng Trời. Ở đây có đợt chúng tôi đã nhận một lúc mười bảy, mười tám thương binh, trong đó có năm, sáu thương binh bị vết thương vào ngực, bụng phải đứng mổ suốt hai, ba ngày liền mới hết.
Sau cú “Tết Mậu Thân 1968”, bọn Mỹ, ngụy hồi sức lại dần dần. Chúng dốc sức mở những trận càn quét trả thù ở khắp miền Nam. Chúng gia tăng các phi vụ ở ngoài miền Bắc. Kể cả máy bay B-52 đánh phá cực kỳ ác liệt cả ngày lẫn đêm vào các trận địa pháo, các trọng điểm, vào bất cứ nơi nào mà chúng nghi ngờ. Thậm chí nghĩa trang của Đội điều trị cũng bị đánh đi đánh lại tới ba, bốn lần. Anh em chúng tôi đã phải ra thu lượm từng chiếc xương sọ, xương sườn, từng gióng chân, tay… chôn cất lại. Và cứ mỗi lần như vậy, chúng tôi lại càng hiểu sâu sắc thêm về “nhân quyền và văn minh đạo đức của Huê Kỳ”.
Còn cái đội phẫu thuật lưu động của chúng tôi vẫn như thường lệ, luôn luôn chuẩn bị sẵn sàng. Khi mùa khô vẫy gọi là lên đường!