N
gày thứ Sáu trời nắng và lạnh, dù không lạnh đến mức khô hanh. Tom và ông Eduardo ăn sáng trong phòng khách gần ô cửa sổ kiểu Pháp dưới ánh nắng chiếu rọi. Bá tước vẫn mặc pyjama và áo choàng ngủ, như ông ta nói thì ông ta sẽ không mặc như vậy nếu có nữ chủ nhân trong nhà, nhưng ông ta hy vọng Tom không thấy khó chịu.
Mười giờ hơn, Bá tước lên phòng thay đồ rồi mang va-li của mình xuống nhà, sẵn sàng ra về trước bữa trưa. “Không biết tôi có thể mượn ít kem đánh răng không,” Eduardo nói. “Tôi nghĩ đã bỏ quên tuýp kem đánh răng ở trong khách sạn ở Milan rồi. Tôi ngớ ngẩn thật.”
Tom đang đợi Bá tước hỏi như vậy và thấy khá mừng vì cuối cùng ông ta cũng đề cập tới. Anh đi nói chuyện với bà Annette trong bếp. Cho rằng đồ vệ sinh của Bá tước nằm trong chiếc va-li đang đặt sẵn dưới nhà của ông ta, Tom nghĩ tốt nhất là dẫn ông ta tới phòng vệ sinh không dùng đến có bồn rửa mặt. Bà Annette mang một ít kem đánh răng đến cho ông ta.
Người đưa thư đến và Tom xin cáo lỗi ra ngoài xem thư từ. Một tấm bưu thiếp từ Heloise, không nói gì nhiều. Một bức thư khác từ Christopher Greenleaf. Tom xé phong bì ra. Thư viết:
Ngày 15 tháng Mười, 19...
Anh Ripley thân mến,
Tôi vừa phát hiện ra là mình có thể đi trên một chuyến bay thuê ngoài tới Paris nên tôi sẽ đến sớm hơn dự tính. Tôi hy vọng hiện giờ anh đang có mặt ở nhà. Tôi sẽ bay đến cùng một người bạn, Gerald Hayman, cũng tầm tuổi tôi, nhưng tôi bảo đảm với anh là sẽ không đưa cậu ta đến gặp anh vì như thế có thể sẽ hơi phiền nhiễu dù cậu ta cũng là một chàng trai dễ thương. Tôi sẽ đến Paris vào thứ Bảy, ngày 19 tháng Mười và sẽ cố gắng gọi điện cho anh. Tất nhiên, đêm thứ Bảy tôi sẽ ngủ lại ở một khách sạn nào đó ở Paris vì máy bay hạ cánh lúc bảy giờ tối giờ Pháp.
Trong lúc này, xin chào trân trọng,
Chris Greenleaf
Thứ Bảy tức là ngày mai. Ít nhất thì Chris sẽ không đến đây vào ngày mai. Chúa lòng lành, Tom nghĩ thầm, giờ chỉ cần thêm Bernard xuất hiện là mọi thứ sẽ loạn cả lên. Tom nghĩ xem có nên dặn bà Annette đừng nghe điện thoại trong hai ngày tới hay không, nhưng như thế thì hơi kỳ lạ và sẽ khiến bà Annette bực mình thêm vì bà ta nhận được ít nhất một cuộc gọi mỗi ngày từ một người bạn của mình, thường là bà Yvonne, một quản gia khác trong làng.
“Tin xấu à?” Ông Eduardo hỏi.
“À không, hoàn toàn không,” Tom đáp lại. Anh phải đưa xác của ông Murchison ra ngoài, tốt nhất là tối nay. Và tất nhiên, anh có thể báo Chris đừng đến, nói rằng anh sẽ bận ít nhất cho tới thứ Ba. Tom thoáng tưởng tượng ra cảnh một cảnh sát Pháp tới nhà anh vào ngày mai, tìm ông Murchison, và chẳng tốn chút công sức nào đã tìm thấy ông ta ở nơi hợp lý nhất, tầng hầm.
Tom vào bếp để chào tạm biệt bà Annette. Bà ta đang đánh bóng một cái liễn bằng bạc to cùng rất nhiều thìa súp, tất cả đều được trang trí bằng tên viết tắt của gia đình Heloise, P.F.P. “Tôi sẽ ra ngoài tham quan một chút. Ngài Bá tước chuẩn bị ra về. Tôi có cần mua gì về nhà không?”
“Nếu anh thấy mùi tây tươi, anh Tome…”
“Tôi sẽ nhớ. Persil19. Tôi nghĩ mình sẽ về trước năm giờ. Tối nay tôi ăn tối một mình. Thứ gì đơn giản thôi.”
19 (Tiếng Pháp): Mùi tây.
“Tôi giúp anh bê va-li nhé?” Bà Annette đứng dậy. “Tôi không rõ hôm nay đầu óc tôi chạy đi đâu mất nữa.”
Tom trấn an bà ta là chuyện đó không cần thiết nhưng bà ta vẫn ra ngoài chào tạm biệt Bá tước – người cúi mình chào bà ta và ngỏ ý khen ngợi tài nấu nướng của bà ta bằng tiếng Pháp.
Họ lái xe tới Nemours, xem chợ và đài phun nước rồi đi lên phía bắc dọc sông Loing tới thị trấn Moret, với những con đường một chiều mà đến giờ Tom đã vô cùng rành rẽ. Thị trấn có những tòa tháp bằng đá xám lộng lẫy, trước đây là cổng thành, ở cả hai bên cầu nhìn xuống sông. Bá tước thấy mê mẩn.
“Nó không bụi bặm như Ý,” ông ta nhận xét.
Tom cố gắng hết sức để không thể hiện sự bồn chồn trong suốt bữa trưa chậm rãi của họ và anh thường ngơ ngẩn nhìn ra những cành liễu rủ bên bờ sông ngoài cửa sổ, ước gì bản thân cũng có được vẻ thảnh thơi của những nhành liễu đung đưa trước gió ấy. Bá tước kể một câu chuyện dài về việc con gái ông ta làm đám cưới lần hai với một thanh niên đến từ một gia đình có tước hiệu nhưng lâu nay bị gia đình Bologna của anh ta từ mặt vì dám cưới một cô gái đã qua một đời chồng. Tom chẳng mấy để tâm đến câu chuyện này vì còn mải nghĩ về việc tiêu hủy xác ông Murchison. Có nên mạo hiểm thả ông ta xuống sông không? Liệu anh có đủ sức vứt xác ông ta, cộng thêm sức nặng của một cái neo đá, qua thành cầu? Mà không bị ai bắt gặp? Nếu anh chỉ kéo lê ông ta xuống từ bờ sông thì liệu có dám chắc xác ông Murchison chìm xuống đủ sâu không, dù có được neo thêm đá đi nữa? Trời đã bắt đầu mưa lất phất. Như thế thì đào đất sẽ dễ hơn, Tom nghĩ. Sau rốt thì khu rừng sau lưng nhà biết đâu lại chính là ý tưởng tuyệt vời nhất.
Ở ga Melun, ông Eduardo chỉ có mười phút chờ chuyến tàu tới Paris. Sau khi ông ta và Tom thân mật nói lời chào tạm biệt, anh lái xe tới tiệm bán thuốc lá gần nhất và mua một đống tem để dán lên phong bì gửi cho người của Reeves, như thế nó sẽ không bị một thu ngân bủn xỉn nào đó ở bưu điện chặn lại chỉ vì muốn thêm năm cent.
Tom mua mùi tây cho bà Annette. Persil, tiếng Pháp. Petersilie, tiếng Đức. Prezzemolo, tiếng Ý. Sau đó Tom lái xe về nhà. Mặt trời đang khuất bóng dần. Tom tự hỏi liệu ánh đèn pin hay bất kỳ một loại ánh sáng nào trong rừng có thu hút sự chú ý của bà Annette không nếu bà ta nhìn ra ngoài cửa sổ phòng vệ sinh của mình, vốn hướng ra vườn sau? Liệu bà ta có lên phòng anh (và phát hiện anh đã đi đâu mất) để báo rằng bà ta đã nhìn thấy ánh đèn trong rừng không? Theo Tom biết thì chẳng có ai đặt chân vào khu rừng ấy, dù là người đi pinic hay người hái nấm. Dẫu vậy Tom định sẽ đi sâu hẳn vào trong rừng, chắc bà Annette sẽ không để ý thấy ánh sáng đâu.
Khi về đến nhà, Tom bị thôi thúc phải mặc chiếc quần Levi’s vào ngay lập tức và mang xe cút kít ra khỏi nhà kho. Anh lăn bánh xe cút kít tới gần các bậc thềm đá dẫn xuống sau hiên sau. Sau đó, vì vẫn còn ánh sáng, anh lại đi túc tắc qua bãi cỏ vào nhà kho. Nếu bà Annette chú ý thấy có gì lạ thì anh sẽ nói là mình đang cân nhắc xem có nên làm một cái chuồng phân bón hữu cơ trong rừng hay không.
Đèn vẫn bật trong phòng vệ sinh của bà Annette, nó có một cửa sổ bằng kính mờ và anh đoán là bà ta đang tắm, như bà ta vẫn làm vào giờ này nếu không có quá nhiều việc trong bếp. Tom lấy một cái chĩa bốn ngạnh từ nhà kho và mang nó vào rừng. Anh đang đi tìm một vị trí khả dĩ và mong sẽ đào được một cái hố để giúp anh vui vẻ hơn đôi phần khi phải kết thúc công việc này vào ngày mai, sáng sớm mai. Anh tìm được một chỗ giữa vài gốc cây khẳng khiu, nơi hy vọng là sẽ không có quá nhiều rễ lớn dưới mặt đất phải đào qua. Trong không gian tranh tối tranh sáng, Tom tin rằng nó là vị trí tốt nhất, dù chỉ cách bìa rừng khoảng bảy chục mét, nơi giáp ranh với bãi cỏ nhà anh. Tom đào một cách điên cuồng, giải phóng một chút năng lượng lo âu đã quấy rầy anh cả ngày trời.
Tiếp đến là rác, anh nghĩ và dừng lại, thở hổn hển, cười to khi ngửa mặt lên để hít hà không khí. Gom vỏ khoai tây trong thùng rác cùng với lõi táo và đổ tất cả lên xác Murchison thì sao? Và thả một ít bột phấn để bắt đầu quá trình phân hủy nữa? Có một bao tải đựng thứ đó trong bếp.
Giờ trời đã khá tối.
Tom mang cái chạc về, cất nó lại trong nhà kho, thấy đèn phòng tắm của bà Annette vẫn sáng – mới có bảy giờ tối – Tom đi xuống hầm. Giờ anh đã có thêm can đảm để chạm vào ông Murchison, hay cái xác như họ vẫn gọi, và ngay lập tức anh thò tay vào túi trong áo khoác của ông Murchison. Tom tò mò về vé máy bay và hộ chiếu. Anh chỉ tìm được đúng một cái ví và hai tấm danh thiếp rơi từ ví xuống sàn. Tom do dự rồi nhét cái ví, cùng hai tấm danh thiếp đã được cất lại vào trong ví, vào trong túi áo khoác. Túi bên của chiếc áo khoác chỉ có một chiếc chìa khóa được móc vào vòng, Tom kệ nó đấy. Túi còn lại, bị ông Murchison nằm đè lên, khó lục hơn vì xác ông ta đã cứng đờ như tượng và có vẻ cũng nặng tương đương. Túi trái không có gì. Túi quần chỉ có vài đồng xu Pháp lẫn lộn với xu Anh, Tom cũng để chúng yên. Tom cũng để lại hai chiếc nhẫn của ông Murchison trên ngón tay ông ta. Nếu có ngày có người tìm thấy xác ông Murchison trên đất nhà anh thì chẳng có gì phải nghi ngờ về danh tính của ông ta: bà Annette đã gặp ông ta. Tom rời khỏi hầm và bật đèn ở đầu cầu thang lên.
Sau đó Tom đi tắm rửa và đúng lúc anh vừa tắm xong thì điện thoại reo. Tom chộp lấy nó, hy vọng, mong chờ là Jeff gọi, biết đâu lại mang theo tin tốt – nhưng cái gì có thể là tin tốt cơ chứ?
“Chào anh, Tome! Jacqueline đây. Anh thế nào?”
Một trong các hàng xóm của họ, Jacqueline Berthelin, sống cùng chồng cô ta Vincent ở một ngôi làng cách đó vài cây số. Cô ta muốn mời anh đến ăn tối vào thứ Năm. Cô ta mời cả nhà Clegg, một cặp đôi trung niên người Anh mà Tom cũng quen, sống gần Melun.
“Bạn thân mến, bạn biết không, thật không may cho tôi. Tôi cũng có một vị khách. Một thanh niên đến từ Mỹ.”
“Cứ mang cậu ta theo. Cậu ta cũng được chào đón.”
Tom cố gắng khước từ nhưng không thành công trọn vẹn. Anh nói sẽ gọi lại trong vài ngày tới để báo tin cho cô ta vì không chắc người bạn Mỹ của anh sẽ ở lại đây bao lâu.
Tom đang định rời phòng thì điện thoại lại reo.
Lần này là Jeff, gọi điện từ khách sạn Strand Palace, anh ta kể. “Mọi việc ở đó thế nào rồi?” Jeff hỏi.
“À, ổn cả, cảm ơn,” Tom mỉm cười nói và cào tay qua tóc như thể không mấy bận tâm đến việc trong hầm nhà anh có một cái xác, một người đàn ông mà Tom đã giết để bảo vệ công ty trách nhiệm hữu hạn Derwatt. “Thế mọi chuyện bên anh thế nào rồi?”
“Ông Murchison còn ở chỗ anh không?”
“Chiều hôm qua ông ta đã về Luân Đôn rồi. Nhưng… tôi không nghĩ là ông ta sẽ đến nói chuyện với… anh biết đấy, người ở Tate Gallery đâu. Tôi chắc chắn về điều đó.”
“Anh đã thuyết phục được ông ta rồi à?”
“ Đúng thế,” Tom nói.
Tiếng thở dốc, hoặc thở dài nhẹ nhõm của Jeff, vang vọng qua Kênh Đào. “Siêu quá, Tom. Anh đúng là thiên tài.”
“Bảo mấy người ở đó hãy bình tĩnh lại nhé. Đặc biệt là Bernard.”
“À… đó là vấn đề của chúng ta đấy. Chắc chắn là tôi sẽ báo lại cho anh ta, một cách sung sướng. Anh ta… anh ta trầm cảm lắm rồi. Chúng tôi đang cố gắng dỗ anh ta đi đây đi đó, Malta, bất kỳ chỗ quái quỷ nào cũng được cho tới khi buổi triển lãm kết thúc. Cứ lúc nào có triển lãm là anh ta lại như thế, nhưng lần này còn tệ hơn vì… anh biết rồi đấy.”
“Anh ta đang làm gì?”
“Rầu rĩ, nói thẳng ra là thế. Chúng tôi thậm chí còn gọi cho Cynthia – cô ta có vẻ vẫn còn mến anh ta, tôi nghĩ vậy. Dù chúng tôi không hề kể cho cô ta nghe về… về nỗi lo sợ lần này,” Jeff vội nói thêm. “Chúng tôi chỉ hỏi xem cô ta có thể dành chút thời gian với Bernard không mà thôi.”
“Tôi đoán là cô ta từ chối.”
“ Đúng thế.”
“Bernard có biết anh đã nói chuyện với cô ta không?”
“Ed đã kể cho anh ta nghe. Tôi biết, Tom, có khi đó là một sai lầm.”
Tom nóng nảy. “Các anh có thể bịt mồm Bernard vài ngày được không?”
“Chúng tôi đang cho anh ta uống thuốc an thần, loại nhẹ thôi. Chiều nay tôi mới thả một ít vào trà của anh ta.”
“Các anh sẽ báo cho anh ta biết là ông Murchison đã… dịu lại chứ?”
Jeff bật cười. “Có chứ, Tom. Vậy ông ta định làm gì ở Luân Đôn?”
“Ông ta bảo có vài việc phải làm ở đó. Sau đó ông ta sẽ quay lại Mỹ. Nghe này, Jeff, trong vài ngày tới đừng có gọi cho tôi nữa, được chứ? Đằng nào thì tôi cũng không chắc liệu mình có ở nhà hay không.”
Tom nghĩ là mình có thể giải thích lý do anh gọi vài cuộc điện thoại cho Jeff, hoặc nhận điện từ anh ta, nếu cảnh sát chịu bỏ công sức tìm hiểu: anh đã cân nhắc xem có nên mua bức “Bồn Tắm” hay không và đã hỏi chuyện Buckmaster Gallery về điều đó.
Tối hôm đó Tom ra nhà kho, mang theo một tấm vải dầu và sợi dây thừng. Trong khi bà Annnette dọn dẹp trong bếp thì Tom bọc xác ông Murchison lại và buộc dây thừng xung quanh để có thể cầm dây kéo đi. Cái xác cồng kềnh, trông như một khúc cây nhưng nặng hơn thế nhiều, Tom nghĩ. Anh kéo xác lên thềm tầng hầm. Việc cái xác được bọc kín khiến anh cảm thấy đỡ hơn đôi chút, nhưng ngày một tiến lại gần cửa, bậc cầu thang, cửa trước, các dây thần kinh của anh lại ngày một điên rồ. Anh có thể nói gì nếu bà Annette nhìn thấy anh đây, nếu mấy người thường xuyên bấm chuông cửa xuất hiện – một người gypsy bán đồ, Michel người sửa chữa trong làng hỏi xem có việc gì cho anh ta làm hay không, một thằng nhóc bán sách Công giáo – anh biết nói gì về thứ đồ vật kì quái, khổng lồ mà anh sắp chất lên xe cút kít? Mọi người có thể sẽ không hỏi anh gì cả nhưng sẽ nhìn chằm chằm vào nó rồi đưa ra một bình luận tiêu cực đúng chất Pháp:
“Không nhẹ lắm nhỉ?” Rồi họ sẽ nhớ mãi.
Tom ngủ không ngon giấc và kỳ lạ thay nhận thức rõ là mình đang ngáy. Anh chẳng ngủ sâu một chút nào nên dễ dàng thức dậy lúc năm giờ sáng.
Xuống dưới nhà, anh đẩy tấm thảm chùi chân trước cửa trước sang một bên rồi đi xuống hầm. Xác ông Murchison đi được một nửa cầu thang một cách gọn lẹ, nhưng Tom đã phí rất nhiều năng lượng vào đó và phải dừng lại. Dây thừng nghiến nhẹ vào tay anh và anh quá sốt ruột nên không chạy ra nhà kho lấy đôi găng tay làm vườn. Anh lại kéo mạnh cái xác và đưa nó lên được đầu cầu thang. Kéo lê nó qua sàn đá hoa cương dễ hơn. Anh đổi công việc một chút bằng cách đẩy xe cút kít vòng ra đằng trước và nghiêng nó xuống. Anh muốn đưa xác ông Murchison qua ô cửa sổ kiểu Pháp hơn nhưng không thể băng qua phòng khách mà không làm hỏng thảm trải sàn. Giờ Tom đang kéo cái xác dài xuống bốn, năm bậc thềm ngoài cửa. Anh cố gắng đặt thứ đó vào xe cút kít một cách gọn gàng để nếu anh nhấc một bên xe lên thì có thể làm nó nằm thẳng ra. Ý tưởng là vậy nhưng khi anh thực hiện, cái xe cút kít lại lật hẳn sang bên còn lại và làm đổ xác ông Murchison xuống mặt đất bên kia. Cũng hơi buồn cười một chút.
Nếu phải lôi cái xác xuống tầng hầm thì thật khủng khiếp. Không thể nghĩ tiếp. Tom bỏ ra vài giây, ba mươi giây, cố gắng lấy lại năng lượng, nhìn chằm chằm vào cái thứ chết tiệt đang nằm trên mặt đất. Rồi anh dồn toàn bộ sức lực tấn công nó như thể nó là một vật sống, một con rồng đang gào thét, hoặc một thế lực siêu nhiên nào đó mà anh phải giết trước khi bị nó giết, và nhấc bổng nó lên cái xe cút kít đang đứng thẳng.
Bánh trước của xe cút kít lún xuống mặt sỏi. Tom ngay lập tức biết rằng mang nó qua bãi cỏ là công việc vô vọng vì đất ở đó đã hơi mềm xuống sau trận mưa hôm qua. Tom chạy ra mở cánh cổng lớn nhà anh. Có vài phiến đá lát đường không đều chạy từ thềm nhà ra cổng và mọi chuyện diễn ra khá êm thấm, sau đó cái xe cút kít đã ra đến mặt đường trải cát được lèn cứng. Một con đường mòn nằm bên tay phải của Tom dẫn ra khu rừng sau nhà anh, một con đường nhỏ hẹp dành cho người đi bộ hoặc xe kéo hơn là dành cho ô-tô, dù nó vừa đủ rộng để xe đi qua. Tom hướng chiếc xe cút kít qua những ổ gà và vũng nước nhỏ trên đường, cuối cùng cũng tới được khu rừng của mình – à thì chắc chắn không phải rừng của anh nhưng lúc này đây anh cảm thấy đúng là như vậy đấy, quá đỗi vui mừng khi tới được khu vực kín đáo này.
Tom đẩy xe cút kít đi một đoạn rồi dừng lại tìm chỗ mà anh đã đào hôm qua. Anh tìm ra nó ngay tức thì. Có một con dốc dẫn từ đường mòn vào rừng mà Tom đã không tính đến nên anh phải hất cái xác xuống đường và lôi nó lên. Sau đó Tom đẩy xe cút kít vào trong rừng đề phòng trường hợp có người đi vào đường mòn thì cũng sẽ không nhìn thấy cái xe. Đến giờ này trời đã sáng hơn. Tom chạy nước kiệu về nhà kho để lấy cái chĩa. Anh còn cầm theo một cái xẻng – rỉ sét, bị ai đó bỏ lại khi anh và Heloise mua căn nhà này. Cái xẻng thậm chí còn bị thủng một lỗ, nhưng vẫn hữu ích. Tom quay lại và tiếp tục đào. Anh đào phải rễ cây. Sau mười lăm phút, anh nhận ra rõ rành rành là không thể đào xong cái hố trong buổi sáng hôm đó. Đến tám rưỡi, bà Annette sẽ lên gác, mang theo cà phê vào phòng ngủ của anh, đấy là một vấn đề.
Tom cúi người xuống khi một người đàn ông mặc áo xanh da trời bạc màu đi dạo tới trên đường mòn, đẩy một cái xe cút kít tự chế bằng gỗ chất đầy củi. Ông ta không hề liếc về phía Tom. Ông ta đang đi ra con đường chạy trước nhà anh. Ông ta đi từ đâu đến vậy nhỉ? Có thể ông ta đã ăn cắp gỗ rừng và thấy mừng khi tránh được Tom cũng như Tom tránh được ông ta.
Tom mải miết đào cho tới khi cái hố sâu gần mét hai, vắt ngang là những cái rễ cây cần đến cưa mới cắt được. Rồi anh trèo ra ngoài và tìm một con dốc hoặc bất kỳ chỗ đất thấp nào để tạm giấu xác ông Murchison. Tom tìm được một chỗ cách đó khoảng năm mét và lại dùng dây thừng kéo cái xác đi. Anh phủ cành cây và lá rụng lên tấm vải dầu màu xám. Ít nhất thì nó sẽ không thu hút ánh mắt của người đi trên đường mòn, anh nghĩ thầm.
Rồi anh lại đẩy cái xe cút kít giờ nhẹ bẫng lên đường mòn và cất công trả xe vào trong nhà kho, để bà Annette không hỏi han gì anh nếu thấy nó ở ngoài.
Anh phải vào nhà bằng cửa chính vì cửa sổ kiểu Pháp đã khóa. Trán anh ướt đẫm mồ hôi.
Lên gác, anh lau người bằng một chiếc khăn ướt nóng, mặc pyjama vào và lên giường. Lúc đó là tám giờ kém hai mươi. Anh đã hy sinh quá nhiều vì công ty trách nhiệm hữu hạn Derwatt, anh nghĩ thầm. Có đáng không? Kỳ lạ, nhưng Bernard xứng đáng. Nếu họ có thể giúp anh ta vượt qua cơn khủng hoảng này.
Nhưng nhìn nhận sự việc như thế là không đúng. Anh sẽ không giết người chỉ để cứu công ty Derwatt hay thậm chí là Bernard, Tom thấy vậy. Anh giết ông Murchison vì trong hầm, ông ta đã nhận ra chính anh giả mạo Derwatt. Tom đã giết ông Murchison để cứu chính mình. Vậy nhưng Tom vẫn cố tự hỏi, liệu có phải anh đã nhen nhóm ý định giết ông Murchison từ khi họ cùng nhau xuống hầm hay không? Hay là anh vốn không hề có ý định giết ông ta? Tom đơn giản không thể trả lời câu hỏi đó. Vậy nhưng giờ điều đó có quan trọng không?
Bernard là người duy nhất trong bộ ba mà anh không thể thấu hiểu, vậy nhưng Tom quý anh ta nhất. Động cơ của Ed và Jeff quá đơn giản, kiếm tiền. Tom không nghĩ Cynthia đã chia tay Bernard. Anh sẽ không lấy làm ngạc nhiên nếu chính Bernard (người ở một thời điểm nào đó cũng đã yêu Cynthia) mới là người nói lời chia tay, vì thấy nhục nhã với hành vi giả mạo của mình. Chắc sẽ thú vị lắm nếu có ngày anh tìm hiểu được chuyện này từ chỗ anh ta. Phải, Bernard mang trong mình sự bí ẩn, chính đó là thứ khiến người ta trở nên hấp dẫn, Tom nghĩ, khiến người ta rơi vào tình yêu. Bất chấp cái xác bọc vải dầu xấu xí trong khu rừng sau nhà, Tom cảm thấy suy nghĩ của mình cuốn anh đi như thể anh đang ở trên mây. Lạ lùng, và cũng hết sức dễ chịu, khi mơ màng giữa ban ngày về động cơ, nỗi sợ, nỗi hổ thẹn, và cả tình yêu của Bernard. Anh ta giống như Derwatt thật, có phần thánh thiện.
Vài con ruồi bay điên cuồng như thường ngày, quấy nhiễu Tom. Anh kéo một con ra khỏi tóc mình. Chúng đang bay lượn quanh bàn của anh. Sao giờ này mà chúng vẫn còn ở đây nhỉ, anh đã chán ngấy chúng cả mùa hè này rồi. Vùng nông thôn Pháp có tiếng là có đủ thứ ruồi, còn nhiều hơn cả số loại pho mát, Tom đã đọc thấy điều này ở đâu đó. Một con ruồi nhảy lên lưng con còn lại. Ngay trước mặt anh! Tom nhanh chóng châm một que diêm và dúi vào con vật khốn nạn đó. Cánh cháy xèo xèo. Vo vo. Chân quờ quạng trên không trung lần cuối. À, Liebestod20, đến chết vẫn sánh đôi!
20 (Tiếng Đức): Tình yêu và cái chết, tên một bản nhạc kịch tính trong vở opera Tristan và Isolde.
Nếu chuyện đó có thể xảy ra ở Pompeii thì sao lại không thể ở Belle Ombre cơ chứ, Tom nghĩ.