T
om thức dậy vào tầm bảy giờ kém. Heloise đang ngủ say sưa. Anh nhẹ nhàng xuống giường, lấy áo choàng ngủ của mình đang được treo phòng vệ sinh của Heloise.
Bà Annette chắc đã dậy. Tom lặng lẽ đi xuống cầu thang. Anh muốn bỏ bộ âu phục của Bernard ra khỏi hầm trước khi bà Annette tìm được nó. Giờ Tom cũng để ý thấy vết rượu vang đổ và máu của ông Murchison không quá nghiêm trọng. Nếu có kỹ thuật viên pháp y xét nghiệm nó có phải máu không thì chắc chắn anh ta sẽ tìm được dấu vết để lại, nhưng Tom lạc quan tin rằng chuyện đó sẽ không xảy ra.
Anh cởi khuy áo khoác và khuy quần. Một mẩu giấy bay ra, lời nhắn của Bernard, viết bằng nét chữ cao nhọn của anh ta:
Tôi treo cổ hình nộm của mình trong nhà anh. Bernard Tufts là người tôi đã treo cổ chứ không phải Derwatt. Với D, tôi sẽ sám hối theo cách duy nhất có thể, đó là tự giết bản thân mình trong năm năm qua. Giờ tiếp tục và cố gắng sáng tạo ra các tác phẩm của mình một cách trung thực là những gì còn sót lại trong đời tôi.
B.T
Tom thôi thúc muốn vò nát tờ giấy và hủy nó đi. Rồi anh gấp nó lại và nhét vào túi áo choàng ngủ. Anh có thể sẽ cần đến nó. Ai mà biết được? Ai mà biết Bernard đang ở đâu và định làm gì? Anh rũ bộ âu phục nhàu nhĩ của anh ta và quẳng cái giẻ vào trong góc. Anh sẽ đưa bộ đồ này đi giặt. Không có hại gì hết. Tom định mang nó về phòng mình nhưng lại quyết định bỏ nó trên cái bàn trong hành lang nơi anh bỏ đồ để bà Annette mang tới hiệu giặt là.
“Chào buổi sáng, anh Tome!” Bà Annette nói từ bếp. “Một ngày nữa anh lại dậy sớm quá đấy! Cô Heloise cũng vậy à? Cô ấy có muốn uống trà không?”
Tom đi vào bếp. “Tôi nghĩ là cô ấy muốn ngủ hết sáng nay. Cô ấy thích ngủ muộn đến lúc nào thì tùy cô ấy. Nhưng giờ tôi cần ít cà phê đây.”
Bà Annette nói sẽ bê cà phê lên cho anh. Tom lên nhà và thay đồ. Anh muốn nhìn ngôi mộ trong khu rừng một chút. Nhỡ đâu Bernard lại làm cái gì kỳ quái thì sao – đào một phần mộ chẳng hạn, chỉ có Chúa mới biết – hoặc thậm chí là tự chôn mình trong đó.
Sau khi uống cà phê, anh đi xuống nhà. Mặt trời bị che và chưa lên hẳn, cỏ vẫn ướt sương sớm. Tom nhàn tản dạo quanh các bụi cây, không muốn xông thẳng tới chỗ ngôi mộ, phòng trường hợp Heloise hoặc bà Annette đang nhìn ra ngoài cửa sổ. Anh không nhìn về phía ngôi nhà vì tin rằng mắt của một người sẽ thu hút mắt của người khác.
Ngôi mộ vẫn giống y hệt lúc anh và Bernard bỏ nó lại.
Tận mười giờ hơn Heloise mới tỉnh giấc và bà Annette chuyển lời cho Tom, lúc ấy đang ở trong xưởng vẽ, là cô muốn gặp anh. Tom vào phòng ngủ của cô. Cô đang uống trà trên giường.
Cô vừa ăn nho vừa nói, “Em không thích trò đùa của các bạn anh đâu”.
“Sẽ không có trò đùa nào nữa. Anh đã lấy quần áo… ra khỏi hầm. Đừng nghĩ về nó nữa. Em có muốn tới một chỗ dễ thương nào đó để ăn trưa không? Một chỗ dọc sông Seine? Ăn bữa trưa muộn nhé?”
Cô thích ý tưởng đó.
Họ tìm ra một nhà hàng mới với họ trong một thị trấn nhỏ ở phía nam, tiếc là không nằm bên bờ sông Seine.
“Chúng ta có nên đi du lịch đâu đó không? Tới Ibiza nhé?” Heloise hỏi.
Tom lưỡng lự. Anh rất muốn đi tới một chỗ nào đó bằng thuyền, mang theo toàn bộ hành lý mà anh muốn, sách, máy nghe nhạc, màu, giấy vẽ. Nhưng anh cảm thấy nó rất giống một cuộc chạy trốn, với Bernard, với Jeff và Ed, và với cả cảnh sát nữa – dù họ biết nơi anh định đến. “Anh sẽ nghĩ thêm về chuyện đó. Cũng được đấy.”
“Hy Lạp để lại trong em hương vị không mấy dễ chịu. Như rượu ouzo vậy,” Heloise nói.
Tom muốn ngủ trưa một cách thoải mái sau bữa trưa. Heloise cũng vậy. Cô nói là họ nên ngủ trên giường cô cho tới khi tự tỉnh giấc, hoặc đến giờ ăn tối. Rút dây điện thoại trong phòng Tom để điện thoại chỉ reo dưới gác, và bà Annette sẽ nhấc máy. Chính những khoảnh khắc như thế, Tom nghĩ thầm khi lười biếng lái xe qua khu rừng trở về Villeperce, khiến anh thích cảnh vô công rồi nghề, thay vì khá giả, và có vợ.
Tom chắc chắn không chuẩn bị tinh thần cho cảnh anh chứng kiến khi dùng khóa mở cửa trước. Bernard đang ngồi trong một cái ghế lưng thẳng màu vàng, quay ra cửa.
Heloise chưa nhìn thấy Bernard ngay, và hỏi, “Tome, anh yêu, anh có thể mang cho em rượu Perrier và đá không? Ôi trời đất ơi, em buồn ngủ quá đi thôi!”. Heloise ngã vào vòng tay của Tom và ngạc nhiên khi thấy anh căng cứng cả người.
“Bernard đang ở đây. Em biết đấy, người Anh mà anh đã kể ấy.” Tom đi vào phòng khách. “Xin chào, Bernard. Anh thế nào?” Tom không thể chìa tay ra nổi nhưng vẫn gượng cười.
Bà Annette đi từ bếp ra. “A, anh Tome! Cô Heloise! Tôi không nghe thấy tiếng xe. Hẳn là tôi điếc rồi. Anh Bernard đã quay lại này.” Bà Annette có vẻ bối rối.
Tom bình tĩnh nói hết mức có thể, “Đúng thế. Mừng quá. Tôi đang chờ anh ấy đây,” dù anh nhớ mình đã nói với bà Annette là anh không chắc Bernard sẽ quay lại đây.
Bernard đứng dậy. Anh ta cần cạo râu. “Xin thứ lỗi cho tôi vì quay lại không thông báo.”
“Heloise, đây là Bernard Tufts – một họa sĩ ở Luân Đôn. Đây là vợ tôi, Heloise.”
“Chào cô,” Bernard nói.
Heloise vẫn đứng ì ra đó. “Chào anh,” cô đáp lại bằng tiếng Anh.
“Vợ tôi thấy hơi mệt.” Tom đi về phía cô. “Em muốn lên nhà… hay ở dưới này với bọn anh?”
Dùng đầu ra hiệu, Heloise bảo Tom đi theo mình. “Quay lại ngay đây, Bernard,” Tom nói và đi theo cô.
“Đó có phải cái người đã bày ra trò đùa hôm qua không?” Heloise hỏi khi họ đã vào phòng cô.
“Đúng thế, anh rất tiếc. Anh ta khá lập dị.”
“Anh ta đang làm gì ở đây thế? Em không thích anh ta. Anh ta là ai? Trước đây anh chưa từng kể về anh ta. Sao anh ta lại mặc quần áo của anh thế?”
Tom nhún vai. “Anh ta là bạn của vài người bạn của anh ở Luân Đôn. Anh chắc là mình có thể thuyết phục anh ta rời khỏi đây vào chiều nay. Có lẽ anh ta cần thêm ít tiền. Hoặc quần áo. Để anh hỏi anh ta.” Tom hôn má cô. “Về giường đi, em yêu. Anh sẽ gặp lại em sớm.”
Tom vào bếp và nhờ bà Annette mang Perrier của Heloise lên gác.
“Anh Bernard sẽ ở lại đây ăn tối chứ?” Bà Annette hỏi.
“Tôi không nghĩ vậy. Nhưng chúng ta cứ chuẩn bị thì hơn. Thứ gì đó đơn giản thôi. Chúng tôi đã ăn một bữa trưa khá no.” Tom quay về chỗ Bernard. “Anh đã đến Paris à?”
“Phải, Paris.” Bernard vẫn đứng đó.
Tom không biết phải dùng chiến lược nào nữa. “Tôi đã thấy hình nộm của anh dưới hầm. Nó khiến vợ tôi khá sốc. Anh không nên đùa như thế… khi có phụ nữ trong nhà.” Tom mỉm cười. “Tiện thể, quản gia của tôi đã mang đồ của anh đi giặt và tôi bảo đảm anh sẽ nhận được nó ở Luân Đôn – hoặc bất kể nơi nào anh định đến. Ngồi xuống đi.” Tom ngồi xuống sô-pha. “Kế hoạch của anh là gì?” Giống như hỏi một người điên xem anh ta cảm thấy thế nào vậy, Tom nghĩ thầm. Tom thấy bất an và anh càng cảm thấy tệ hơn khi nhận ra tim mình đang đập khá nhanh.
Bernard ngồi xuống. “À…” Im lặng một lúc lâu.
“Không quay lại Luân Đôn à?” Trong cảm giác tuyệt vọng, Tom lấy một điếu xì gà ra khỏi cái hộp trên bàn cà phê. Nó đủ để khóa miệng anh lại vào lúc này, nhưng điều đó có quan trọng không?
“Tôi tới đây để nói chuyện với anh.”
“Được rồi. Về chuyện gì?”
Lại im lặng và Tom sợ không dám phá vỡ sự im lặng này. Bernard chắc đang dò dẫm trong các đám mây, những đám mây bất tận trong suy nghĩ của anh ta mấy ngày qua. Tom cảm thấy anh ta như thể đang săn đuổi một con cừu mây bé nhỏ giữa một cuộn len xù khổng lồ vậy. “Tôi có rất nhiều thời gian dành cho anh. Anh là bạn tôi, Bernard.”
“Đơn giản thôi. Tôi phải khởi đầu lại cuộc đời của mình. Một cách sạch sẽ.”
“Phải, tôi biết. Anh có thể mà.”
“Vợ anh có biết về… việc giả tranh của tôi không?”
Tom hoan nghênh câu hỏi hợp lý này. “Không, tất nhiên là không rồi. Không ai biết cả. Không ai ở Pháp biết.”
“Còn về ông Murchison?”
“Tôi kể với cô ấy là ông Murchison đang mất tích. Và tôi đã thả ông ta xuống sân bay Orly.” Tom nói thật nhỏ, phòng trường hợp Heloise đang ở hành lang trên gác, nghe trộm. Nhưng anh biết rõ là tiếng nói trong phòng khách sẽ không vang xa đến tận đầu cầu thang.
Bernard nói có phần gắt gỏng, “Tôi thật sự không thể trò chuyện với những người khác trong căn nhà này. Như vợ anh. Hoặc bà quản gia”.
“Được rồi, chúng ta có thể đi chỗ khác.”
“Không.”
“Này, tôi làm sao yêu cầu bà Annette rời khỏi đây được. Bà ấy quản lý căn nhà này. Muốn đi dạo không? Có một quán cà phê yên tĩnh…”
“Không, cảm ơn.”
Tom cầm điếu xì gà và ngả lưng dựa vào sô-pha, giờ điếu xì gà có mùi như nhà cháy. Thường thì anh thích cái mùi này. “Tiện thể, tôi chưa nghe được tin tức gì từ viên thanh tra người Anh kể từ lần gặp anh đâu. Hoặc từ cảnh sát Pháp.”
Bernard không có phản ứng gì. Sau đó anh ta nói, “Được rồi, đi bộ đi”. Anh ta đứng dậy và nhìn ô cửa sổ kiểu Pháp. “Chắc là đi qua cửa sau đi.”
Họ đi ra bãi cỏ. Cả hai đều không mặc áo khoác ngoài dù trời lạnh. Tom để Bernard dẫn đường tùy ý đi đâu thì đi và Bernard tiến về phía khu rừng, về phía con đường mòn. Anh ta chậm rãi sải bước, có hơi loạng choạng. Anh ta cạn sức do chưa được ăn gì à, Tom tự hỏi? Lát sau họ đã đi qua chỗ từng chôn xác ông Murchison. Tom cảm thấy sợ hãi, nỗi sợ ấy khiến tóc ở cổ và sau tai anh dựng cả lên. Tom nhận ra anh không sợ chỗ này mà sợ Bernard. Anh buông lỏng hai tay và tránh xa anh ta một chút.
Rồi Bernard đi chậm dần và quay lại, họ bắt đầu đi bộ về nhà.
“Anh đang nghĩ gì trong đầu thế?” Tom hỏi.
“À, tôi… tôi không biết chuyện này sẽ kết thúc ở đâu. Chưa gì đã khiến một người phải chết rồi.”
“À thì… cũng đáng tiếc, đúng vậy. Nhưng thật sự thì đâu có liên quan gì tới anh phải không? Vì anh sẽ không vẽ thêm một bức Derwatt nào nữa, Bernard Tufts mới toanh có thể bắt đầu lại từ đầu… một cách trong sạch.”
Không có hồi đáp từ Bernard.
“Anh có gọi cho Jeff hay Ed khi anh ở Paris không?”
“ Không.”
Tom có thể dễ dàng mua bất kỳ một tờ báo Anh nào, và chắc Bernard cũng vậy. Nỗi lo lắng của anh ta đến từ chính bản thân. “Nếu muốn, anh có thể gọi cho Cynthia từ đây. Anh có thể gọi từ phòng tôi.”
“Tôi đã nói chuyện với cô ấy ở Paris. Cô ấy không muốn gặp tôi.”
“À.” Đó là vấn đề. Đó là cọng rơm cuối cùng, theo Tom đoán. “Vậy thì anh luôn có thể viết thư cho cô ấy mà. Biết đâu thế lại tốt hơn. Hoặc đến gặp cô ấy khi anh quay lại Luân Đôn. Tông thẳng vào cửa nhà cô ấy!” Tom cười.
“Cô ấy đã từ chối.”
Im lìm.
Tom đoán Cynthia muốn phủi sạch mối quan hệ. Không phải cô ta không tin ý định chấm dứt việc làm giả tranh của Bernard – không ai có thể hoài nghi Bernard một khi anh ta đã bắt đầu làm gì đó – nhưng cô ta đã chịu đựng đủ rồi. Nỗi đau của Bernard vượt quá sức hiểu của Tom, ở thời điểm này. Họ đang đứng trên hiên đá ngoài ô cửa sổ kiểu Pháp. “Tôi phải vào nhà đây, Bernard. Tôi lạnh cóng rồi. Vào thôi.” Tom mở cửa ra.
Bernard cũng vào theo.
Tom chạy lên gặp Heloise. Anh vẫn đang cứng cả người vì lạnh, hoặc vì sợ. Heloise đang ở trong phòng cô, ngồi trên giường, phân loại ảnh và bưu thiếp.
“Khi nào thì anh ta mới đi?”
“Em yêu… lại là do cô bạn gái của anh ta ở Luân Đôn. Anh ta đã gọi cho cô ta ở Paris. Cô ta không muốn gặp lại anh ta. Anh ta không vui và anh không thể bắt anh ta đi được. Anh không biết anh ta định làm gì nữa. Em yêu, em có muốn ghé thăm cha mẹ vài ngày không?”
“Không!”
“Anh ta muốn trò chuyện với anh. Anh chỉ hy vọng là anh ta sẽ sớm thông suốt.”
“Sao anh không thể đuổi anh ta đi chứ? Anh ta đâu phải bạn anh. Với cả anh ta cũng điên rồ nữa!”
Bernard vẫn ở lại.
Họ chưa ăn xong bữa tối thì chuông cửa reo. Bà Annette ra mở cửa và quay lại báo với Tom:
“Có hai sĩ quan cảnh sát, anh Tome. Họ muốn nói chuyện với anh.”
Heloise thở ra nóng nảy và quẳng khăn ăn xuống. Cô vốn đã không thích ngồi xuống bàn ăn và giờ cô đứng dậy. “Lại có người xâm phạm!” Cô nói bằng tiếng Pháp.
Tom cũng đứng dậy theo.
Chỉ có Bernard có vẻ bình thản.
Tom vào phòng khách. Vẫn là cặp sĩ quan cảnh sát đã tới nhà anh hôm thứ Hai.
“Thưa anh, rất tiếc phải làm phiền anh,” người lớn tuổi hơn nói, “nhưng điện thoại của anh không hoạt động. Chúng tôi đã báo cáo điều đó rồi”.
“Thật à?” Trên thực tế thì việc điện thoại trục trặc vẫn xảy ra khoảng sáu tuần một lần, không giải thích được, nhưng giờ Tom tự hỏi liệu có phải Bernard đã có giở trò kỳ quặc nào đó không, như cắt dây điện chẳng hạn. “Tôi không biết chuyện đó đấy. Cảm ơn các anh.”
“Chúng tôi vẫn liên hệ với điều tra viên bên Anh. Hay phải nói là anh ta vẫn liên hệ với chúng tôi.”
Heloise vào phòng khách, Tom nghĩ chắc là vừa vì hiếu kỳ vừa vì giận dữ. Anh giới thiệu cô và hai viên sĩ quan lại giới thiệu lại tên của họ, Ủy viên Delaunay, còn tên người còn lại thì Tom lỡ mất.
Delaunay nói, “Giờ không chỉ ông Murchison mà đến họa sĩ Derwatt cũng đang mất tích. Điều tra viên người Anh Webstair, đã cố gọi điện cho anh chiều hôm nay, muốn biết anh có nghe tin gì từ hai người họ không”.
Tom mỉm cười, thật ra thấy hơi thú vị. “Tôi chưa bao giờ gặp Derwatt và chắc chắn là anh ta cũng không biết tôi,” anh nói, đúng lúc Bernard bước vào phòng. “Và tôi không nhận được tin gì từ ông Murchison, rất tiếc phải nói vậy. Xin cho phép tôi giới thiệu Bernard Tufts, một người bạn Anh. Bernard, hai quý ông đây thuộc lực lượng cảnh sát.”
Bernard lầm bầm chào.
Tom để ý thấy tên của Bernard không có ý nghĩa gì với những cảnh sát Pháp.
“Đến cả những người sở hữu phòng triển lãm nơi Derwatt đang tổ chức triển lãm tranh cũng không biết anh ta ở đâu,” Delaunay nói. “Chuyện này thật quái lạ.”
Đúng là kỳ quặc thật, nhưng Tom chẳng thể giúp gì cho họ hết.
“Anh có tình cờ biết ông Murchison người Mỹ không?” Delaunay hỏi Bernard.
“Không,” Bernard nói.
“Thế còn cô?”
“Không,” Heloise nói.
Tom giải thích là vợ anh mới từ Hy Lạp về, nhưng anh đã kể cho cô nghe về chuyến viếng thăm và việc mất tích của ông Murchison.
Hai sĩ quan trông có vẻ không biết phải làm gì tiếp theo. Delaunay nói, “Anh Reeply, vì tình huống này nên chúng tôi đã được điều tra viên Webstair yêu cầu lục soát nhà anh. Chỉ là thủ tục thôi, mong anh hiểu, nhưng cần thiết. Biết đâu chúng tôi lại tìm thấy manh mối. Tất nhiên, tôi đang nói về ông Murchison. Chúng tôi phải hết sức hỗ trợ đồng nghiệp bên Anh của mình!”
“Chắc chắn là được rồi! Anh có muốn bắt đầu ngay bây giờ không?”
Trời khá tối, ngoài trời là thế, nhưng cảnh sát nói rằng họ sẽ bắt đầu ngay bây giờ và tiếp tục vào sáng mai. Cả hai viên sĩ quan đang đứng ngoài hiên đá và Tom cảm thấy họ đang tha thiết nhìn về phía khu vườn và khu rừng tối om đằng xa.
Họ khám xét khắp nhà, dưới sự hướng dẫn của Tom. Đầu tiên họ quan tâm đến phòng ngủ của ông Murchison, phòng mà sau đó đã được Chris sử dụng. Bà Annette đã dọn sạch thùng rác. Hai viên sĩ quan lục tìm các ngăn kéo tủ, tất cả đều trống không trừ hai ngăn dưới của một cái tủ nhiều ngăn, hay tủ com-mốt như người Pháp gọi, đựng ga trải giường và vài cái chăn. Không có dấu vết nào của ông Murchison hay Chris. Họ tìm sang phòng của Heloise. (Heloise đang giận âm ỉ ở dưới nhà, Tom biết.) Họ cũng tìm kiếm trong xưởng vẽ của Tom, thậm chí còn cầm một cái cưa của anh lên. Có một tầng gác mái. Đèn đã hỏng và Tom phải lấy bóng đèn mới và đèn pin ở dưới nhà lên. Tầng gác mái phủ đầy bụi. Ghế được phủ vải và có một chiếc sô-pha cũ từ chủ trước mà Tom và Heloise chưa vứt đi. Cảnh sát cũng dùng đèn pin của họ để nhìn phía sau các đồ vật. Họ đang tìm kiếm một thứ to lớn chứ không phải manh mối nữa, Tom nghĩ vậy, thấy thật ngớ ngẩn trước suy nghĩ anh lại có thể giấu một cái xác sau lưng ghế sô-pha.
Sau đó là đến tầng hầm. Tom vẫn giữ bộ dạng thoải mái dẫn họ xuống hầm, đứng ngay trên vết máu ố, và chiếu đèn pin của anh vào các góc nhà, dù đèn dưới đó vẫn sáng tốt. Tom hơi sợ máu của ông Murchison đã chảy xuống sàn xi măng sau thùng rượu vang. Anh đã không kiểm tra khu vực ấy kỹ càng. Nhưng nếu có máu thì hai viên sĩ quan cũng không nhìn thấy và chỉ liếc mắt qua sàn nhà. Điều này không có nghĩa là ngày mai họ sẽ không kiểm tra kỹ lưỡng hơn, Tom nghĩ.
Họ nói là sẽ quay lại lúc tám giờ sáng mai, nếu giờ đó không quá sớm với Tom. Anh đáp rằng tám giờ cũng được.
“Xin lỗi nhé,” Tom nói với Heloise và Bernard sau khi đóng cửa trước. Anh có cảm giác là suốt chừng ấy thời gian Heloise và Bernard vẫn ngồi im lìm với cốc cà phê của mình.
“Sao họ lại muốn lục soát nhà của mình thế?” Heloise gặng hỏi.
“Vì người đàn ông Mỹ đấy vẫn đang mất tích,” Tom nói. “Ông Murchison ấy.”
Heloise đứng dậy. “Em có thể nói chuyện với anh trên gác không, Tome?”
Tom xin Bernard thứ lỗi và đi theo cô.
Heloise về phòng mình. “Anh mà không giải quyết cho xong chuyện điên rồ này thì ngay tối nay em sẽ rời khỏi căn nhà này đấy!”
Một tình thế thật tiến thoái lưỡng nan. Anh muốn Heloise ở lại đây, nhưng nếu vậy thì Tom biết là anh cũng sẽ không giải quyết dứt điểm Bernard được. Và cũng giống Bernard, anh không thể nghĩ được gì khi đôi mắt căm phẫn của Heloise cứ trừng ra nhìn anh. “Anh sẽ cố gắng đuổi anh ta đi lần nữa vậy,” Tom nói. Anh hôn lên cổ Heloise. Ít nhất thì cô cho phép điều này.
Tom đi xuống nhà. “Bernard à… Heloise buồn bực lắm. Anh có ngại quay lại Paris ngay tối nay không? Tôi có thể lái xe chở anh tới… Sao không đến Fontainebleau nhỉ? Có vài khách sạn khá tốt ở đó đấy. Nếu anh muốn nói chuyện với tôi thì ngày mai tôi có thể đến Fontainebleau…”
“Không.”
Tom thở dài. “Vậy thì tối nay cô ấy sẽ rời khỏi nhà. Tôi sẽ đi nói chuyện với cô ấy vậy.” Tom quay lên gác và báo với Heloise.
“Chuyện gì thế này, một Dickie Greenleaf khác à? Anh không thể bảo anh ta cút khỏi nhà anh sao?”
“Anh chưa bao giờ… Dickie không hề ở trong nhà anh.” Tom ngừng lại, không biết nói gì. Heloise trông có vẻ giận dữ đến mức có thể tự mình xuống đuổi Bernard đi, nhưng cô sẽ không thể thành công được, Tom nghĩ thầm, vì thái độ cứng rắn của Bernard không dành chỗ cho sự thương thảo hay lễ phép.
Cô kéo một chiếc va-li da nhỏ từ nóc tủ xuống và bắt đầu xếp đồ. Nói rằng anh cảm thấy phải chịu trách nhiệm với Bernard chỉ vô dụng, vì Heloise sẽ lại hỏi vì sao, Tom cảm thấy như vậy.
“Heloise, em yêu, anh vô cùng xin lỗi. Em định lái xe hay muốn anh chở em tới nhà ga?”
“Em sẽ lái chiếc Alfa tới Chantilly. Tiện thể, không có gì không ổn với điện thoại hết. Em vừa thử chiếc ở trong phòng anh xong.”
“Có thể chính tin báo từ lực lượng cảnh sát đã giúp sửa điện thoại.”
“Em thì nghĩ có thể họ đã nói dối. Họ muốn làm chúng ta bất ngờ.” Cô khựng lại khi đang cất dở một cái áo vào va-li. “Anh đã làm gì thế, Tome? Anh có làm gì ông Murchison này không?”
“Không hề!” Tom nói, giật mình.
“Anh biết đấy, cha em sẽ không hỗ trợ giải quyết một vụ tai tiếng vớ vẩn nào nữa đâu đấy.”
Cô đang nhắc đến vụ Greenleaf. Tom đã chứng minh sự trong sạch của mình ở đó, chắc chắn là vậy rồi, nhưng vẫn luôn có những tin đồn hoài nghi. Người La-tinh luôn tung ra những chuyện đùa hoang đường, và theo một cách kỳ lạ nào đó mà chuyện đùa dần trở thành sự thực của họ. Tom có thể đã giết Dickie. Và tất cả mọi người đều biết rằng anh lấy được một ít tiền từ cái chết của Dickie, dù Tom đã cố hết sức che giấu chuyện này. Heloise biết là anh có một khoản thu nhập từ Dickie, cha của Heloise cũng biết, dù trong việc kinh doanh thì tay ông cũng không phải trong sạch gì, nhưng tay Tom thì đã dính máu, có thể nói vậy. Tiền không bẩn…
“Sẽ không có vụ tai tiếng nào nữa hết,” Tom nói. “Em không biết à, anh đang cố gắng hết sức để tránh tai tiếng đây. Đó là mục đích của anh.”
Cô đóng va-li lại. “Em chưa bao giờ biết anh đang làm gì.” Tom xách va-li lên. Rồi anh đặt nó xuống và họ ôm nhau.
“Anh muốn ở bên em tối nay.”
Heloise hẳn cũng muốn ở bên anh, và cô không cần phải nói điều đó thành lời. Đây là mặt trái của chiến dịch cút ra khỏi nhà của cô! Giờ cô chuẩn bị bỏ đi. Khi phụ nữ Pháp phải bỏ khỏi phòng, khỏi nhà, hoặc bắt người khác phải đổi phòng, hoặc cút xéo đi đâu đó, người kia càng thấy bất tiện thì họ càng thích, nhưng như thế vẫn làm sao khó chịu bằng tiếng la hét của họ. Tom gọi nó là “Luật Chuyển Chỗ Pháp”.
“Em đã gọi điện cho gia đình em chưa?” Tom hỏi. “Nếu họ không có ở đó thì vẫn có người hầu.”
Cô sẽ phải lái xe gần hai tiếng. “Em sẽ gọi cho anh khi tới đó chứ?”
“Tạm biệt, Bernard!” Heloise hét vọng lên từ cửa trước. Rồi quay sang nói với Tom, người tiễn cô ra ngoài, “Còn khuya!”
Tom cay đắng nhìn theo bóng đèn đỏ của chiếc Alfa Romeo rẽ trái ở cửa và biến mất.
Bernard đang ngồi hút thuốc lá. Từ bếp vọng ra tiếng nắp thùng rác loảng xoảng. Tom cầm đèn pin trên cái bàn ngoài sảnh và đi vào phòng vệ sinh thừa. Anh xuống tầng hầm và nhìn ra sau giá đựng thùng rượu nơi xác ông Murchison từng nằm lại. May mắn là không có vết máu ở đó. Tom đi lại lên nhà.
“Anh biết không, Bernard, anh được chào đón ở đây tối nay, nhưng sáng ngày mai cảnh sát sẽ tới để lục soát ngôi nhà kỹ càng hơn.” Anh đột nhiên nghĩ tới khu rừng. “Họ có thể sẽ thẩm vấn anh vài câu. Điều đó chỉ khiến anh bực dọc hơn thôi. Anh có muốn đi trước khi họ đến không – lúc tám giờ?”
“Có thể lắm, có thể lắm.”
Gần mười giờ tối bà Annette đi vào để hỏi xem họ có muốn uống thêm cà phê không. Tom và Bernard từ chối.
“Cô Heloise đã ra ngoài à?” Bà Annette hỏi.
“Cô ấy đã quyết định đến thăm cha mẹ,” Tom nói.
“Vào giờ này sao! Ôi, cô Heloise!” Bà ta thu dọn các tách cà phê.
Tom cảm giác là bà ta không thích Bernard, hoặc không tin tưởng anh ta, cũng hệt như Heloise vậy. Thật đáng tiếc, Tom nghĩ, khi họ không hiểu được tính cách của Bernard, tính cách bề ngoài của anh ta khiến phần lớn mọi người khó chịu. Tom nhận ra rằng cả Heloise lẫn bà Annette đều chẳng thể thích anh ta vì họ chẳng biết gì về anh ta hết, không hề biết về sự tận tụy của anh ta với Derwatt – mà chắc họ sẽ chỉ cho rằng đó là “lợi dụng Derwatt” mà thôi. Hơn tất cả, cả Heloise lẫn bà Annette, với gia cảnh tương đối khác biệt, sẽ chẳng bao giờ hiểu được quá trình phát triển của Bernard Tufts, từ tầng lớp lao động (theo lời Jeff và Ed) tới gần ranh giới là một người vĩ đại dựa vào tài năng của bản thân – dù anh ta ký một cái tên khác dưới các tác phẩm của mình. Bernard thậm chí còn chẳng quan tâm đến khía cạnh tiền bạc – một điều nữa cũng khiến bà Annette và Heloise không đời nào hiểu nổi. Bà Annette rời khỏi phòng khá vội vã, thể hiện sự giận dỗi hết mức mà bà ta dám thể hiện, theo Tom cảm nhận.
“Còn một chuyện nữa mà tôi muốn kể với anh,” Bernard nói. “Buổi tối sau hôm Derwatt chết. Chúng tôi đều được báo tin về sự ra đi của anh ấy hai mươi tư tiếng sau khi nó diễn ra ở Hy Lạp… tôi… tôi đã thấy Derwatt đứng trong phòng ngủ của mình. Có ánh trăng chiếu qua cửa sổ. Tôi nhớ đã hủy hẹn với Cynthia vì muốn ở một mình. Tôi có thể nhìn thấy Derwatt ở đó và cảm nhận được sự hiện diện của anh ấy. Anh ấy thậm chí còn đang mỉm cười. Anh ấy nói, ‘Đừng hoảng hốt nhé, Bernard, tôi ra đi không khổ sở đâu. Tôi còn chẳng cảm thấy đau đớn’. Anh có thể tưởng tượng nổi việc Derwatt nói ra một câu dễ đoán như thế không? Vậy mà tôi đã nghe thấy đấy.”
Bernard đã nghe thấy tiếng lòng của anh ta. Tom vẫn lắng nghe một cách tôn trọng.
“Tôi ngồi dậy trên giường nhìn anh ấy khoảng chừng một phút. Derwatt giống như đang trôi lơ lửng quanh phòng tôi, căn phòng mà thỉnh thoảng tôi vẫn ngồi vẽ… và ngủ.”
Ý anh ta là vẽ dưới tư cách là Tufts, chứ không phải Derwatt.
Bernard tiếp tục, “Anh ấy nói ‘Tiếp tục đi, Bernard, tôi không hối hận đâu’. Khi nói ‘hối hận’, tôi hiểu ý anh ấy là anh ấy không hối hận vì đã tự tử. Ý anh ấy là cứ sống tiếp đi. Đó là…” Bernard nhìn Tom lần đầu tiên kể từ khi anh ta bắt đầu nói “… đến chừng nào còn có thể sống. Nó đâu phải là một chuyện mà người ta có thể kiểm soát được, đúng không? Định mệnh quyết định chuyện đó giùm anh.”
Tom ngập ngừng. “Derwatt có vẻ có khiếu hài hước. Jeff nói rằng có khi anh ta lại tán thưởng việc anh giả mạo anh ta đầy thành công như thế.” Tạ ơn Chúa, chuyện này không diễn biến tồi tệ lắm.
“Đến một mức nào đó thôi. Đúng là về mặt nghề nghiệp thì việc giả mạo có thể là một trò đùa. Nhưng Derwatt sẽ không thích khía cạnh kinh doanh của nó đâu. Tiền có thể dễ dàng đẩy anh ấy tới bước đường cùng hệt như việc khánh kiệt vậy.”
Tom cảm giác dòng suy nghĩ của Bernard lại bắt đầu đảo chiều, chuyển sang thù địch và lộn xộn, thù địch anh. Anh có nên có động thái ngừng trò chuyện để về nghỉ không? Hay Bernard sẽ coi đó là một sự sỉ nhục? “Sáng mai đám cảnh sát ngớ ngẩn đó đến sớm quá, tôi nghĩ mình phải về giường đây.”
Bernard cúi người về phía trước. “Anh không hề hiểu điều tôi ám chỉ hôm nọ khi tôi nói mình đã thất bại. Với gã thanh tra đến từ Luân Đôn, khi tôi cố gắng giải thích con người Derwatt cho anh ta.”
“Vì anh không hề thất bại. Nghe này, Chris hiểu ý anh nói. Tôi vẫn nhớ Webster còn nói nó thật cảm động.”
“Webster vẫn đang cân nhắc khả năng tranh giả, khả năng Derwatt chấp nhận cho chuyện đó xảy ra. Tôi thậm chí không thể truyền tải hết tính cách của Derwatt. Tôi đã gắng hết sức và thất bại.”
Tom nói, cố gắng đưa Bernard về đúng hướng trong tuyệt vọng, “Webster đang tìm kiếm ông Murchison. Đó là công việc của anh ta. Không phải tìm Derwatt. Tôi lên gác đây”.
Tom về phòng và mặc pyjama vào. Anh mở hé cửa sổ phía trên và về giường – tối nay giường chưa được bà Annette chuẩn bị để anh đi ngủ – nhưng anh cảm thấy run run và có thôi thúc muốn ra khóa cửa lại. Thế có ngớ ngẩn không nhỉ? Hay là lý trí? Hành động ấy có vẻ hèn nhát. Anh không khóa cửa nữa. Anh đang đọc dở một tập Lịch sử xã hội Anh Quốc của Trevelyan và chuẩn bị cầm lên đọc tiếp, nhưng thay vào đó lại lấy quyển Từ điển Harrap. To forge. Từ forge trong tiếng Pháp có nghĩa là phân xưởng. Faber, công nhân. Forge trong tiếng Pháp chỉ có nghĩa là phân xưởng kim loại. Từ giả mạo trong tiếng Pháp là falsification hoặc contrefaire. Tom đã biết hai từ này rồi. Anh đóng từ điển lại.
Anh nằm suốt một tiếng đồng hồ mà không ngủ được. Cứ mỗi giây máu rần rần trong tai anh lại mạnh dần lên, đủ to để khiến anh giật mình, và anh vẫn giữ cảm giác như sắp rơi từ trên cao xuống.
Nhìn mặt đồng hồ đeo tay phát sáng, Tom thấy đã mười hai rưỡi. Anh có nên gọi cho Heloise không? Anh muốn gọi cho cô nhưng lại không muốn nhận thêm sự chê trách từ cha cô vì gọi điện lúc đêm muộn. Kệ thây người khác.
Sau đó Tom nhận thấy mình bị lật vai lại, có bàn tay bóp cổ anh. Tom vung chân gạt chăn ra. Anh đang kéo cánh tay của Bernard một cách vô vọng để gỡ tay anh ta ra khỏi cổ anh, cuối cùng Tom đạp chân vào người Bernard. Bàn tay rời khỏi cổ họng của anh. Bernard ngã phịch xuống sàn, thở hổn hển. Tom bật đèn lên, suýt làm nó rơi xuống, nhưng cũng đã làm đổ một cốc nước xuống tấm thảm phương đông màu xanh dương.
Bernard đang đau đớn hít thở.
Tom cũng vậy, theo một nghĩa nào đó.
“Chúa ơi, Bernard,” Tom nói.
Bernard không đáp lại, hoặc không thể. Anh ta ngồi trên sàn, chống một cánh tay, hệt như tư thế của bức tượng Dying Gaul. Tom tự hỏi liệu anh ta có tấn công anh tiếp ngay sau khi lấy lại được sức lực không? Anh đứng dậy rời khỏi giường và châm một điếu Gauloise.
“Thật tình, Bernard, một hành động thật ngu ngốc!” Tom phá ra cười và ho sặc sụa vì sặc khói. “Anh làm gì có cơ hội đắc thủ! Hay cố gắng tẩu thoát! Bà Annette biết rõ anh ở đây, cả cảnh sát cũng vậy.” Tom nhìn Bernard đứng dậy. Hiếm khi có cảnh một nạn nhân vừa thoát chết có thể hút thuốc lá và chân trần đi đi lại lại, cười với kẻ vừa cố gắng giết mình. “Anh không nên làm vậy nữa.” Tom biết lời mình nói ra thật ngớ ngẩn. Bernard không quan tâm chuyện gì sẽ xảy ra với anh ta. “Anh không định nói gì à?”
“Có đấy,” Bernard nói. “Tôi căm ghét anh – vì toàn bộ chuyện này là lỗi của anh. Tôi đáng nhẽ không bao giờ nên đồng ý làm theo nó… đúng thế. Nhưng anh là kẻ khởi xướng.”
Tom biết. Anh là kẻ khởi xướng thần bí, căn nguyên của tội lỗi. “Chúng ta đều cố gắng giải quyết cho xong vấn đề chứ không phải để nó tiếp diễn.”
“Và tôi đã xong đời. Cynthia…”
Tom rít thuốc lá. “Anh nói là thỉnh thoảng khi vẽ anh cảm thấy mình là Derwatt. Hãy nghĩ những gì anh đã mang đến cho danh tiếng của anh ta! Vì lúc chết anh ta hoàn toàn không nổi tiếng.”
“Nó đã bị nhiễm bẩn,” Bernard nói như giọng của sự phán quyết hoặc quan tòa hoặc chính địa ngục. Anh ta đi về phía cửa ngoài, mang theo vẻ quyết tâm hơn hẳn thường lệ.
Tom tự hỏi anh ta định đi đâu? Bernard vẫn ăn vận chỉnh tề, dù đã hơn ba giờ sáng. Anh ta định sẽ lang thang bên ngoài cả đêm sao? Hay xuống gác và thiêu rụi cả căn nhà này?
Tom xoay chìa khóa cửa phòng mình. Nếu Bernard quay lại thì anh ta sẽ phải đập cửa để vào và tất nhiên Tom sẽ cho anh ta vào thôi, nhưng để anh được nhận chút cảnh báo cũng công bằng mà.
Sáng mai Bernard sẽ chẳng thể giúp anh đối phó với cảnh sát được.