L
úc chín giờ mười lăm phút sáng ngày thứ Bảy, 26 tháng Mười, Tom đứng trước cửa sổ kiểu Pháp, nhìn về phía khu rừng, nơi cảnh sát đã bắt đầu đào ngôi mộ cũ của ông Murchison lên. Sau lưng Tom, Bernard đi qua đi lại trong phòng khách một cách lặng lẽ và bồn chồn. Trong tay Tom cầm một bức thư chính thức từ Jeffrey Constant đại diện cho Buckmaster Gallery hỏi rằng anh có biết nơi ông Thomas Murchison đang ở đâu không, vì họ không biết.
Sáng hôm đó có ba sĩ quan cảnh sát đến, hai người xa lạ với Tom, người còn lại là Ủy viên Delaunay, người mà Tom không nghĩ là sẽ động tay động chân đào đất. “Anh có biết chỗ nào trong rừng gần đây đã bị đào xới không?” Họ đã hỏi như vậy. Tom trả lời là anh không biết chỗ nào như vậy hết. Khu rừng không thuộc về anh. Viên sĩ quan đã băng qua bãi cỏ để nói chuyện với đồng nghiệp của mình. Họ lục soát ngôi nhà thêm một lần nữa.
Tom cũng nhận được một bức thư từ Chris Greenleaf mà anh chưa mở ra.
Đến giờ cảnh sát chắc đã đào xới được khoảng mười phút rồi.
Tom đọc lại bức thư của Jeff cẩn thận hơn. Anh ta đã viết thư hoặc với suy nghĩ là thư từ của Tom đang bị đọc trộm hoặc Jeff đang có tâm trạng muốn trêu đùa, nhưng Tom tin vế đầu hơn.
Buckmaster Gallery
Phố Bond W1
24 tháng Mười, 19…
Anh Thomas P. Ripley,
Belle Ombre
Villeperce 77
Anh Ripley thân mến,
Chúng tôi được thông báo rằng gần đây thanh tra điều tra Webster đã tới chỗ anh về vấn đề liên quan tới ông Thomas Murchison, người theo anh về Pháp hôm thứ Tư tuần trước. Bức thư này muốn thông báo cho anh biết rằng chúng tôi hoàn toàn không nghe tin gì từ ông Murchison kể từ thứ Năm ngày 15 tháng này, khi ông ấy tới phòng triển lãm của chúng tôi.
Chúng tôi biết rằng ông Murchison muốn gặp Derwatt trước khi ông ấy quay về Mỹ. Vào thời điểm này chúng tôi cũng không biết Derwatt đang ở đâu trong nước Anh, nhưng chúng tôi chờ anh ấy liên lạc lại trước khi trở về Mexico. Có thể Derwatt đã sắp xếp gặp mặt ông Murchison, nhưng chúng tôi không biết gì về cuộc hẹn đó hết. (Chắc là một cuộc hẹn ma, Tom nghĩ thầm.)
Cả chúng tôi cũng như cảnh sát đều quan tâm đến sự biến mất của một bức tranh do Derwatt vẽ có tên là “Đồng Hồ”.
Làm ơn gọi lại cho chúng tôi và tính phí cho chúng tôi nếu anh có thông tin gì.
Trân trọng,
Jeffrey Constant
Tom quay người lại, giờ anh đang mang tâm trạng phấn chấn kiêu ngạo – ít nhất là trong thời điểm này, với lại thái độ sưng sỉa của Bernard cũng khiến anh phát chán. Tom muốn hỏi, “Nghe này, đồ thừa, đồ khốn, đồ đần, anh cứ nấn ná lại đây làm cái quái gì thế hả?”. Nhưng Tom biết Bernard có ý định gì, chờ thêm một cơ hội nữa để tấn công anh. Vậy nên Tom chỉ phấn khởi đúng một giây, mỉm cười với Bernard, người thậm chí còn chẳng nhìn anh, và Tom nghe tiếng chim sẻ ngô xanh chiêm chiếp ăn một cục mỡ cừu mà bà Annette đã treo trên cây, tiếng đài phát thanh của bà Annette loáng thoáng phát ra từ trong bếp, và anh cũng nghe thấy cả tiếng thuổng đào đất của một sĩ quan cảnh sát ở phía xa xa trong rừng.
Tom nói bằng chính giọng điệu lạnh lùng vô cảm trong bức thư của Jeff: “Chà, họ sẽ không tìm được dấu vết nào của ông Murchison ngoài đó hết”.
“Vậy hãy để họ đào sông đi,” Bernard nói.
“Anh định báo cho họ biết điều đó à?”
“ Không.”
“Mà sông nào mới được? Tôi thậm chí còn chẳng nhớ nổi là sông nào.” Tom chắc chắn là Bernard không biết.
Tom đang chờ cảnh sát quay lại từ khu rừng và thông báo là họ chẳng tìm được cái gì hết. Cũng có thể họ sẽ không thèm mất công nói vậy, có thể họ sẽ không nói gì hết. Hoặc họ sẽ đi sâu vào trong rừng, tìm kiếm. Có thể mất cả ngày trời. Hôm nay trời đẹp nên đó cũng không phải là một cách giết thời gian nhàm chán với cảnh sát cho lắm. Ăn trưa trong làng này hoặc một ngôi làng nào đó quanh đây, hoặc nhiều khả năng là ăn ở nhà họ trong hạt rồi lại quay về rừng.
Tom mở bức thư của Chris ra.
Ngày 24 tháng Mười 19…
Tom thân mến,
Một lần nữa cảm ơn anh vì những ngày tháng tao nhã mà tôi đã được ở cùng anh. Nó khá đối lập với nơi ở bẩn thỉu của tôi ở đây, nhưng tôi cũng khá thích nơi tôi đang ở. Tối qua tôi đã có một chuyến phiêu lưu. Tôi đã gặp một cô gái tên là Valerie ở một quán cà phê ở St. Germain-des-Prés. Tôi đã mời cô ấy về khách sạn của mình uống rượu vang. (E hèm!) Cô ấy đã ưng thuận. Tôi sống cùng Gerald nhưng cậu ấy đã khéo léo biến mất tăm như một quý ông đích thực mà thỉnh thoảng cậu ấy lại thể hiện. Valerie lên gác sau tôi vài phút, ý tưởng của cô ấy đấy, dù tôi không nghĩ tiếp tân dưới nhà sẽ có ý kiến. Cô ấy hỏi tôi là cô ấy có thể rửa ráy không. Tôi đáp là tôi không có phòng tắm mà chỉ có một cái bồn rửa nhỏ, nên tôi đã chủ động nói sẽ ra khỏi phòng trong khi cô ấy rửa ráy. Khi tôi gõ cửa lại thì cô ấy hỏi có phòng tắm có bồn không. Tôi trả lời là tất nhiên là có, nhưng tôi sẽ phải đi lấy chìa khóa. Tôi đã làm vậy. Chà, cô ấy đã chui vào phòng tắm trong ít nhất mười lăm phút. Rồi cô ấy quay lại và một lần nữa muốn tôi rời khỏi phòng trong khi cô ấy rửa ráy. Được thôi, tôi chiều theo, nhưng đến lúc này thì tôi bắt đầu tự hỏi cô ấy có thể rửa cái quái gì được nữa cơ chứ. Tôi chờ ở vỉa hè dưới gác. Khi tôi lên phòng, cô ấy đã biến mất, căn phòng trống không. Tôi tìm kiếm ngoài hành lang, tìm khắp mọi nơi. Đã biến mất tiêu! Tôi nghĩ là, có một cô gái đã tắm rửa và biến mất khỏi cuộc đời tôi. Có thể tôi đã không cư xử phù hợp. Chúc may mắn vào lần sau nhé, Chris!
Sau đó có thể tôi sẽ đến Rome cùng Gerald…
Tom nhìn ra ngoài cửa sổ. “Tôi tự hỏi khi nào họ mới xong? À, họ về rồi đây! Nhìn kìa! Vung vẩy hai cái thuổng trống không.”
Bernard không nhìn.
Tom thoải mái ngồi xuống sô-pha vàng.
Hai gã người Pháp gõ cửa sổ sau nhà và Tom ra hiệu cho họ đi vào, rồi nhảy bật dậy để ra mở cửa sổ giúp họ.
“Trong hố chẳng có gì ngoài thứ này,” Ủy viên Delaunay nói, giơ một đồng xu nhỏ lên. Nó là một đồng hai mươi xu, màu vàng. “Có từ năm 1965.” Ông ta mỉm cười.
Tom cũng cười theo. “Thật buồn cười khi anh lại tìm được nó.”
“Kho báu của chúng tôi ngày hôm nay,” Delaunay nói, đút đồng xu vào túi. “Đúng là cái hố mới được đào gần đây. Rất kỳ lạ. Đủ chỗ cho một cái xác, nhưng không có cái xác nào hết. Gần đây anh không nhìn thấy ai đào bới gì à?”
“Tôi hoàn toàn không nhìn thấy gì. Nhưng… người ta không nhìn được chỗ đó từ đây. Nó bị cây cối che khuất cả rồi.”
Tom vào nói chuyện với bà Annette trong bếp nhưng bà ta không có ở đó. Có lẽ bà ta đã đi ra ngoài mua đồ, một chuyến đi sẽ kéo dài hơn thường lệ vì bà ta còn phải kể chuyện cho ba đến bốn người quen là nhà họ có cảnh sát đến lục soát để tìm ông Murchison, người được đăng ảnh trên báo. Tom chuẩn bị một khay bia lạnh cùng một chai rượu vang và mang nó vào phòng khách. Sĩ quan Pháp đang tán gẫu với Bernard. Nói về hội họa.
“Ai sử dụng gỗ trong rừng?” Delaunay hỏi.
“À, thỉnh thoảng có vài người nông dân, tôi nghĩ vậy,” Tom trả lời, “họ kiếm củi. Tôi hiếm khi thấy có người đi vào đường mòn đó”.
“Gần đây thì sao?”
“Tôi không nhớ có ai.”
Ba sĩ quan ra về. Họ đã kiểm tra lại vài vấn đề: điện thoại của anh vẫn hoạt động, bà quản gia của anh đang ra ngoài mua đồ (Tom nói là họ có thể tìm được bà ta trong làng nếu muốn hỏi chuyện); Heloise đã đến thăm cha mẹ cô ở Chantilly. Delaunay còn không thèm hỏi địa chỉ nhà cô.
“Tôi muốn mở cửa ra,” Tom nói khi họ đã ra về. Anh làm vậy, mở cửa trước và ô cửa sổ kiểu Pháp.
Giá lạnh không khiến Bernard bận tâm.
“Tôi sẽ ra xem xem họ làm gì ở đó,” Tom nói và băng qua bãi cỏ đi về phía khu rừng. Thật nhẹ nhõm khi đội quân thi hành luật đã rời khỏi nhà anh!
Họ đã đổ đầy đất xuống hố. Gò đất gồ cao trên mặt đất, màu nâu đỏ, nhưng họ đã đắp nó khá gọn gàng. Tom quay về nhà. Chúa lòng lành, anh nghĩ thầm, mình còn có thể chịu thêm bao nhiêu lần thẩm vấn, tra hỏi lặp đi lặp lại nữa? Có lẽ anh nên thấy biết ơn một chuyện, là Bernard không tự căm ghét bản thân. Anh ta đổ lỗi cho anh. Ít nhất thì đó cũng là thái độ chủ động, lạc quan và kiên định.
“À,” Tom nói, bước vào phòng khách, “họ đã dọn dẹp gọn gàng lắm. Và chỉ nhận được đồng hai mươi xu cho nỗ lực ấy. Sao chúng ta không đi khỏi nhà trước khi…”
Đúng lúc ấy, bà Annette mở cửa bếp ra – Tom nghe thấy tiếng động chứ không nhìn thấy – và anh tiến lên để nói chuyện với bà ta.
“Bà Annette này, cảnh sát đã đi rồi. Tiếc là họ cũng không tìm được manh mối gì.” Anh sẽ không đề cập đến ngôi mộ trong rừng.
“Lạ thật, không phải sao?” Bà ta nói một cách vội vã, ở Pháp thì thường đó là cách nói ngoại giao để chuyển sang một vấn đề khác quan trọng hơn. “Đó là một bí ẩn ở đây, không phải sao?”
“Nó là chuyện bí ẩn ở sân bay Orly hoặc Paris,” Tom trả lời bà ta. “Chứ không phải ở đây.”
“Anh và anh Bernard có ở đây ăn trưa không?”
“Hôm nay thì không,” Tom nói. “Chúng tôi sẽ đi đâu đó. Và bà cũng không cần bận tâm đến bữa tối nay đâu. Nếu Heloise gọi điện thì bà nhắn giùm tôi là tối nay tôi sẽ gọi cho cô ấy được chứ? Thực ra thì…” Tom ngập ngừng. “Tôi nhất định sẽ gọi lại cho cô ấy trước năm giờ chiều nay. Dẫu sao đi nữa, sao bà không nghỉ hết ngày hôm nay đi nhỉ?”
“Tôi đã mua cốt-lết phòng hờ. Đúng là tôi cũng có hẹn với bà Yvonne lúc…”
“Phải thế chứ!” Tom ngắt lời. Anh quay sang Bernard. “Chúng ta có nên đi đâu đó không?”
Nhưng họ không thể rời khỏi nhà ngay lập tức. Bernard muốn làm gì đó trong phòng mình, theo lời anh ta. Bà Annette (Tom nghĩ) đã rời khỏi nhà, chắc là để ăn trưa cùng người bạn ở Villeperce. Cuối cùng Tom đành gõ cánh cửa phòng đóng chặt của Bernard.
Trong phòng Bernard đang ngồi viết ở trước bàn.
“Nếu anh muốn ở một mình…”
“Thực ra thì tôi không muốn vậy,” anh ta nói, đã chuẩn bị tương đối sẵn sàng.
Tom hoang mang. Anh muốn nói chuyện gì? Tom muốn hỏi vậy. Vì sao anh lại ở đây? Tom không thể khiến bản thân bật ra những câu hỏi ấy được. “Đi xuống nhà thôi.”
Bernard đi theo anh.
Tom muốn gọi cho Heloise. Giờ đã là mười hai rưỡi rồi. Anh có thể gặp được cô trước bữa trưa. Ở nhà cô, gia đình họ ăn vào đúng một giờ chiều. Điện thoại reo đúng lúc Tom và Bernard bước chân vào phòng khách. “Có thể là Heloise,” anh nói và nhấc điện thoại lên.
“Vous êtes... blur-r-p... Ne quittez pas. Londres vous appelle...”
Sau đó giọng Jeff vang lên. “Chào Tom. Tôi đang gọi từ một bưu điện. Liệu có khả năng… anh qua đây lần nữa không?”
Tom biết ý anh ta là anh đóng giả Derwatt sang đó. “Bernard đang ở đây.”
“Chúng tôi cũng cho là vậy. Anh ấy thế nào rồi?”
“Anh ấy… đang dần thả lỏng,” Tom nói. Anh không nghĩ là Bernard – đang đờ đẫn nhìn ra ngoài ô cửa sổ kiểu Pháp – thèm nghe trộm, nhưng Tom không chắc lắm. “Hiện giờ thì không thể,” anh nói. Chẳng lẽ họ vẫn chưa nhận ra là chính anh đã giết ông Murchison à?
“Anh có thể cân nhắc thêm không… xin anh đấy?”
“ Nhưng tôi cũng có các nghĩa vụ phải thực hiện ở đây, anh biết đấy. Có chuyện gì vậy?”
“Viên thanh tra đó đã tới đây. Anh ta muốn biết Derwatt đang ở đâu. Anh ta muốn kiểm tra sổ sách của chúng tôi.” Jeff thở dốc, giọng anh ta vô thức trở nên nhỏ xuống để giữ bí mật, nhưng đồng thời anh ta cũng mang vẻ tuyệt vọng đến mức chẳng thèm quan tâm xem có ai nghe thấy hay hiểu anh ta đang nói chuyện gì hay không. “Ed và tôi… gần đây chúng tôi đã lập vài danh sách. Chúng tôi nói là chúng tôi luôn có những thỏa thuận không chính thức, chưa từng bị mất một bức tranh nào hết. Tôi nghĩ nó cũng trót lọt. Nhưng họ lại tò mò về bản thân Derwatt, và nếu anh có thể xử lý chuyện đó lần nữa…”
“Tôi không nghĩ đó là hành động khôn ngoan đâu,” Tom nói, ngắt lời.
“Nếu anh có thể xác nhận sổ sách của chúng tôi…”
Quỷ tha ma bắt sổ sách của họ, Tom nghĩ thầm. Quỷ tha ma bắt cả thu nhập của họ nữa. Thế còn việc ông Murchison bị giết thì sao, đó là trách nhiệm của riêng anh chắc? Thế còn Bernard và cuộc đời anh ta nữa? Trong một giây phút kỳ quái, dù chẳng hề nghĩ ngợi, Tom chợt nhận ra rằng Bernard định tự tử, định tự sát ở đâu đó. Còn cả Jeff lẫn Ed vẫn mải lo lắng về thu nhập của họ, danh tiếng của họ, và sợ phải đi tù! “Tôi có nhiều trách nhiệm ở đây. Tôi không thể tới Luân Đôn được.” Trong sự im lặng thất vọng đến từ phía Jeff, Tom hỏi, “Anh có biết liệu bà Murchison có bay qua đây không không?”.
“Chúng tôi chưa nghe tin gì về chuyện đó hết.”
“Cứ để Derwatt ở nguyên nơi anh ta đang ở, bất kể đó là đâu đi nữa. Biết đâu anh ta lại có một người bạn có một chiếc máy bay tư nhân, ai mà biết được?” Tom cười.
“Tiện thể,” Jeff nói, vui vẻ hơn đôi chút, “chuyện gì đã xảy ra với bức ‘Đồng Hồ’ vậy? Nó bị trộm thật à?”.
“Đúng thế. Phi thường thật, không phải sao? Tôi tự hỏi ai đang thưởng thức kho báu ấy.”
Lời nhắn nhủ cuối cùng của Jeff trước khi gác máy vẫn ngập tràn thất vọng: sao Tom lại không ghé qua cơ chứ.
“Đi dạo thôi,” Bernard nói.
Muốn gọi cho Heloise thôi cũng không được, Tom nghĩ thầm. Tom định hỏi xem mình có thể về phòng mười phút để gọi điện cho cô không nhưng lại nghĩ tốt nhất nên chiều ý Bernard. “Tôi đi lấy áo khoác đã.”
Họ đi dạo quanh làng. Bernard không muốn uống cà phê, hay rượu vang, hay ăn trưa. Họ đi được gần một cây số trên hai con đường dẫn ra khỏi Villeperce, rồi quay lại, thỉnh thoảng bước sang một bên để tránh những chiếc xe tải to của nông dân, hoặc các xe ngựa kéo. Bernard tán gẫu về Van Gogh và Arles, nơi anh ta từng đến thăm hai lần.
“… Vincent cũng giống như mọi người khác đều có một khoảng thời gian sống nhất định và không nhiều hơn. Ai có thể hình dung ra cảnh Mozart sống đến tám mươi tuổi hay không? Tôi muốn ghé thăm Salzburg lần nữa. Có một quán cà phê ở đó, tên là Tomaselli. Cà phê hảo hạng… Anh có thể hình dung ra cảnh Bach chết năm hai mươi sáu tuổi không? Điều đó chứng tỏ một người đàn ông được công nhận qua các tác phẩm của anh ta, không hơn không kém. Chúng ta không nói về con người đó mà nói về tác phẩm của anh ta…”
Trời muốn mưa. Tom đã dựng cổ áo khoác lên từ lâu.
“… Derwatt cũng có một quãng đời phù hợp rồi đấy, anh hiểu không. Việc tôi kéo dài nó ra thật ngớ ngẩn. Nhưng tất nhiên là tôi không đủ khả năng. Tất cả những điều đó có thể được điều chỉnh lại,” Bernard nói như một vị quan tòa ra phán quyết, một phán quyết khôn ngoan – theo quan điểm của người đấy.
Tom bỏ tay ra khỏi túi áo và thổi phù phù vào hai tay, rồi lại đút chúng vào trong túi.
Về nhà, anh pha trà và mang whiskey cùng brandy ra. Rượu hoặc sẽ khiến Bernard bình tĩnh lại hoặc sẽ đẩy khủng hoảng này lên cao trào bằng cách khiến Bernard giận dữ rồi sẽ có chuyện tồi tệ xảy ra.
“Tôi phải gọi điện cho vợ tôi đã,” Tom nói. “Cứ tự nhiên nhé.” Anh lao lên cầu thang. Heloise, dù vẫn còn giận dữ, vẫn sáng suốt chán.
Tom báo số điện thoại của nhà Chantilly với tổng đài viên. Mưa bắt đầu rơi. Mưa đập nhẹ vào kính cửa sổ. Lúc này chưa có gió. Tom thở dài.
“Chào, Heloise!” Cô đã nghe máy. “Phải, anh vẫn ổn. Tối qua anh đã muốn gọi cho em rồi nhưng trễ quá… Anh vừa ra ngoài tản bộ thôi.” (Cô vừa cố gọi cho anh.) “Với Bernard… Đúng, anh ta vẫn còn ở đây nhưng anh nghĩ chiều nay anh ta sẽ đi, có thể là tối nay. Khi nào thì em về nhà?”
“Khi anh đã tống cổ gã điên đó đi!”
“Heloise, anh yêu em. Có thể anh sẽ đến Paris. Cùng Bernard, vì anh nghĩ làm vậy sẽ giúp anh ta rời khỏi nhà chúng ta.”
“Sao anh lại lo lắng thế? Chuyện gì đang xảy ra vậy?”
“ Không có gì hết!”
“Anh sẽ báo cho em khi tới Paris chứ?”
Tom quay xuống nhà và bật nhạc lên. Anh chọn nhạc jazz. Đĩa nhạc không hay mà cũng chẳng dở, như anh đã để ý thấy trong vài khoảnh khắc định mệnh của đời mình, nhạc jazz chẳng giúp ích được gì cho anh. Chỉ âm nhạc cổ điển mới có đôi phần hữu dụng – nó xoa dịu hoặc làm anh buồn chán, trao tự tin hoặc cướp đi sự tự tin, vì nó có trật tự, và người ta hoặc chấp nhận hoặc từ chối trật tự ấy. Tom đổ thật nhiều đường vào cốc trà của anh, giờ đã lạnh tanh, và uống cạn. Có vẻ đã hai ngay nay Bernard không hề cạo râu. Anh ta định để râu giống Derwatt chắc?
Vài phút sau, họ lại đi dạo trên bãi cỏ sau nhà. Một bên dây giày của Bernard bị tuột. Anh ta đi bốt cổ ngắn, đã bẹp rúm vì lâu năm, đế giày bám vào mũi giày như mỏ chim non mới sinh, trông cũ kỹ một cách kỳ lạ. Bernard có định buộc lại dây giày hay không đây?
“Đêm hôm nọ,” Tom nói, “tôi đã thử sáng tác một bài thơ hài hước có năm câu.
Từng có một que diêm cạnh máy tính.
Số không kết hôn với vô tính,
Vô tính nói với số không,
‘Tôi không phải như tôi thể hiện,
Nhưng con của chúng ta còn đáng tranh cãi hơn.
Vấn đề là, nó chẳng buồn cười gì cả. Nhưng biết đâu anh có thể nghĩ ra dòng cuối hay hơn.” Tom có hai phiên bản dòng giữa và dòng cuối, nhưng Bernard có thèm nghe không không biết?
Giờ họ đang đi trên con đường mòn dẫn vào rừng. Trời chỉ lất phất mưa.
“Nhìn con ếch nhỏ kia đi!” Tom nói, cúi xuống để nhấc nó lên vì anh suýt nữa đã dẫm vào nó, một con vật bé xíu chẳng to hơn ngón cái.
Tom nhận một cú đánh mạnh vào sau đầu, hẳn là nắm đấm của Bernard. Anh nghe thấy anh ta nói gì đó, nhận thức được mặt cỏ ẩm ướt, đá đập vào mặt anh, rồi anh bất tỉnh – cực kỳ thích đáng, dù anh vẫn cảm nhận thêm được một cú đánh nữa ở bên đầu. Quá đáng quá rồi đấy, Tom nghĩ thầm. Anh tưởng tượng đôi bàn tay trống không của mình quờ quạng trên mặt đất một cách ngu ngốc, nhưng cũng biết là mình chẳng hề nhúc nhích.
Rồi anh bị lăn lông lốc. Tất cả mọi thứ đều im lìm, trừ tiếng ong ong trong tai anh. Tom cố cử động nhưng bất lực. Anh đang nằm úp mặt xuống hay ngửa mặt lên? Anh vẫn đang nghĩ ngợi nhưng không thể nhìn thấy gì. Anh chớp chớp mắt và chúng đầy sạn. Anh bắt đầu nhận ra, tin chắc rằng, có một thứ gì đó nặng nề đang hạ xuống trên xương sống và chân của mình. Xuyên qua màn ong ong trong tai anh là tiếng xẻng xới đất lạo xạo. Bernard đang chôn anh. Tom chắc chắn là hiện giờ mắt mình đã mở ra. Cái hố sâu bao nhiêu nhỉ? Tom chắc chắn đây chính là ngôi mộ của ông Murchison. Đã bao nhiêu thời gian trôi qua rồi?
Chúa lòng lành, Tom nghĩ thầm, anh không thể để Bernard chôn anh sâu thêm vài chục phân nữa, không thì anh sẽ chẳng bao giờ thoát nổi. Mơ màng, dù vẫn thấy lơ mơ buồn cười, Tom thầm nghĩ việc xoa dịu Bernard cũng chỉ có giới hạn thôi, và giới hạn đó chính là tính mạng của anh. Nghe này! Được rồi! Tom tưởng tượng ra, tin chắc là mình đã hét lên như vậy, nhưng thực tế là không.
“… không phải người đầu tiên,” Bernard nói, giọng khàn đặc và bị chặn lại bởi đống đất bao quanh Tom.
Điều đó có nghĩa là gì? Có thật anh vừa nghe thấy anh ta nói không? Tom có thể xoay đầu một chút và nhận ra anh đang nằm úp mặt xuống. Anh chỉ có thể xoay đầu ở biên độ rất nhỏ.
Và đất đã ngừng rơi xuống. Tom tập trung hít thở, chủ yếu là qua miệng. Miệng anh khô khốc và anh nhổ đất ra. Nếu anh không cử động thì Bernard sẽ bỏ đi. Giờ Tom đã đủ tỉnh táo để nhận ra Bernard hẳn đã lấy cái xẻng trong nhà kho trong khi anh bất tỉnh nhân sự. Tom cảm thấy gáy mình nóng lên, ngưa ngứa. Chắc là máu rồi.
Áng chừng phải hai, có khi năm phút trôi qua, và Tom muốn nhúc nhích toàn thân, hoặc ít nhất là cố gắng làm vậy, nhưng liệu Bernard có còn đứng đó nhìn anh không?
Không thể nghe nổi một âm thanh nào, chẳng hạn tiếng bước chân. Có khi Bernard đã bỏ đi từ mấy phút trước rồi. Dẫu sao đi nữa, liệu Bernard có tiếp tục tấn công nếu thấy anh vật lộn bò ra khỏi mộ không? Cũng hơi buồn cười đấy chứ. Sau này, nếu còn có sau này, Tom sẽ cười, anh nghĩ.
Tom mạo hiểm. Anh cử động đầu gối. Anh để tay vào tư thế để đẩy người lên rồi phát hiện ra mình chẳng có chút sức lực nào. Vậy nên anh bắt đầu dùng ngón tay đào lên trên như chuột chũi. Anh dọn được một chỗ để thò mặt lên và xoay người lên hít không khí nhưng vẫn không tìm được chút không khí nào. Mặt đất ẩm và tơi nhưng rất dính. Trọng lượng đè lên xương sống của anh thật kinh khủng. Anh bắt đầu dùng chân đẩy lên và dùng cánh tay và tay để bò lên, như một người cố gắng bơi trong xi măng chưa cứng. Chắc trên đầu anh có không hơn một trăm phân đất. Tom lạc quan nghĩ là biết đâu còn chưa đến từng ấy ý chứ. Để xúc ra được một trăm phân đất, dù là đất mềm như thế này, cũng tốn rất nhiều thời gian và chắc chắn là Bernard không hoạt động lâu cho lắm. Tom cảm thấy chắc chắn là giờ mình đang xới nóc nhà tù của mình lên và nếu Bernard đứng đó không phản ứng gì, không phủ thêm đất hoặc đào anh ra để đập vào đầu anh một lần nữa thì anh có thể mạo hiểm tông mạnh lên và thư giãn vài giây. Tom làm vậy. Nó giúp anh có thêm không gian để thở. Anh hít vào khoảng hai mươi lần không khí ẩm ướt như trong hầm mộ rồi lại tiếp tục đào lên.
Hai phút sau, anh lảo đảo đứng như một thằng say, cạnh mộ của ông Murchison – giờ là mộ anh, từ đầu đến chân đầy bùn đất.
Trời ngày một tối dần. Không có đèn bật trong nhà, Tom thấy vậy khi loạng choạng đi ra đường mòn. Một cách tự động, anh nghĩ tới ngôi mộ, liệu có nên lấp nó lại không, tự hỏi cái xẻng mà Bernard đã dùng đâu rồi, rồi nghĩ thôi kệ cha nó đấy. Anh vẫn còn đang phủi đất khỏi mắt và tai mình.
Có thể anh sẽ tìm thấy Bernard đang ngồi trong căn phòng khách đang tối dần, trong trường hợp đó anh sẽ nói, “Lêu lêu!” Bernard không hiểu những câu nói đùa cho lắm. Tom cởi giày ra trên hiên và bỏ chúng lại đó. Ô cửa sổ kiểu Pháp vẫn mở hé. “Bernard!” Tom hét lên. Anh thật sự không thể chống chọi được một đòn tấn công nữa.
Không ai trả lời.
Tom đi vào phòng khách, rồi quay lại và đờ đẫn đi ra ngoài, vứt cái áo khoác đầy bùn của anh xuống hiên, theo sau là quần dài. Giờ chỉ mặc đúng quần đùi, anh bật đèn lên và lên phòng tắm của mình ở trên gác. Tắm táp giúp anh tỉnh táo lại. Anh quấn khăn tắm quanh cổ. Vết thương trên đầu anh đang chảy máu. Tom chỉ dám dùng khăn chạm vào nó đúng một lần để lau bùn đất rồi cố gắng quên nó đi, vì anh chẳng thể làm gì với nó hết. Anh mặc áo choàng vào và xuống bếp, làm một cái sandwich thịt nguội và rót một cốc sữa to ra, ngồi ăn ở bàn bếp. Rồi anh treo áo khoác và quần trong phòng tắm. Cọ chúng trước rồi đưa chúng tới tiệm giặt là, bà Annette ghê gớm sẽ nói vậy, mừng thay bà ta không có mặt ở đây lúc này, nhưng bà ta sẽ quay về lúc mười giờ tối, Tom nghĩ thầm, có thể là mười một rưỡi tối nếu bà ta đi xem phim ở Fontainebleau hoặc Melun, nhưng anh không nên đặt cược vào chuyện đó. Giờ là tám giờ kém mười.
Tom tự hỏi giờ Bernard sẽ làm gì đây? Trôi dạt tới Paris à? Không hiểu sao anh không nghĩ là Bernard sẽ quay lại Luân Đôn, nên anh gạt ý tưởng đó đi. Nhưng vào thời điểm này Bernard loạn trí và cực kỳ khó lường, dẫu là theo tiêu chuẩn nào đi nữa. Liệu có thể có chuyện Bernard thông báo cho Jeff và Ed biết là anh ta đã giết Tom Ripley rồi không? Có khi hiện giờ Bernard đang đứng la hét trên mái nhà ấy chứ. Trên thực tế, anh ta chắc sẽ tự sát, và Tom cảm nhận được chuyện này rõ ràng như là anh có thể cảm nhận được một vụ giết người sắp đến, vì tự sát sau rốt cũng là một hình thức giết người. Và để Bernard hoàn thành, hoặc thực hiện những gì anh ta đã định thì Tom biết là anh phải tiếp tục chết.
Và chuyện đó mới chán chường làm sao, vì bà Annette, Heloise, hàng xóm của anh, và cảnh sát. Làm sao anh có thể khiến tất cả bọn họ tin rằng anh đã chết đây?
Tom mặc quần Levi’s vào và quay ra đường mòn với chiếc đèn lồng lấy từ phòng vệ sinh thừa. Không sai, cái xẻng nằm trên mặt đất, giữa ngôi mộ đã được sử dụng quá nhiều lần và con đường mòn. Tom lấp mộ lại. Một lúc nào đó sẽ có một cái cây xinh đẹp mọc lên từ đó, Tom nghĩ, vì mặt đất đã quá tơi xốp rồi. Tom thậm chí còn phủ vài nhánh cây và lá mà lúc trước anh dùng để che giấu mộ ông Murchison lên.
Tạm biệt Tom Ripley, anh nghĩ thầm.
Thêm một cuốn hộ chiếu nữa chắc sẽ hữu ích, nhưng anh biết gọi ai nhờ vả ngoài Reeves Minot đây? Đã đến thời điểm thích hợp để anh nhờ Reeves giúp một việc nhỏ rồi.
Tom dùng máy đánh chữ viết thư cho Reeves và đính kèm hai bức ảnh chụp hộ chiếu hiện thời của anh, chỉ để phòng ngừa. Tối nay anh sẽ gọi cho Reeves từ Paris. Tom đã quyết định tới Paris, nơi anh có thể lẩn trốn vài giờ đồng hồ và suy nghĩ. Vậy nên giờ Tom mang đôi giày và bộ quần áo đầy bùn đất của anh lên gác mái, nơi mà bà Annette hẳn sẽ không lên. Tom thay đồ và lái ô-tô tới ga tàu Melun.
Anh đến Paris lúc mười giờ bốn lăm phút tối, và gửi tin nhắn cho Reeves vào hòm thư của ga Lyon. Sau đó anh tới khách sạn Ritz, nơi anh thuê một phòng dưới cái tên Daniel Stevens, ghi số hộ chiếu Mỹ giả, nói anh không mang theo hộ chiếu. Địa chỉ: số 14 đường Docteur Cavet, Rouen, một con phố không có thật, theo Tom biết.