T
rong cơn bốc đồng vào chiều thứ Năm, Tom mua một chiếc áo mưa màu xanh lục ở Athens, nó theo phong cách mà anh sẽ chẳng bao giờ chọn cho mình – tức là muốn nói, Tom Ripley sẽ không đời nào chạm vào. Nó có rất nhiều vạt và dây dợ, có vài cái dây còn được thắt bằng hai khuyên vòng, vài cái có khóa nhỏ, như thể cái áo mưa được làm với ý định mang theo đồ để di chuyển khẩn cấp, bình đựng nước quân đội, băng đạn, cà mèn, lưỡi lê, một đến hai cái dùi cui. Nó có phong cách dở tệ và Tom nghĩ nó sẽ giúp anh vào lại Luân Đôn – chỉ đề phòng trường hợp một trong các giám sát viên nhập cảnh nhớ Thomas Ripley trông như thế nào. Tom cũng đổi ngôi tóc từ trái sang phải, dù việc này cũng không thể hiện ra trên bức ảnh chụp chính diện. May thay, va-li của anh không gắn tên viết tắt. Hiện giờ tiền bạc mới là vấn đề, vì Tom chỉ có séc du lịch mang tên Ripley, thứ đó anh không thể dùng ở Luân Đôn như đã đưa cho người hoa tiêu Hy Lạp, nhưng Tom có đủ tiền drachma (đổi cho Heloise bằng franc Pháp) để mua vé một chiều tới Luân Đôn và đến lúc đó thì Jeff và Ed có thể hỗ trợ tài chính cho anh. Tom bỏ thẻ và tất cả mọi thứ có thể nhận dạng ra khỏi ví và nhét chúng vào một cái túi quần sau được cài khuy lại. Nhưng thật sự thì anh không nghĩ mình sẽ bị lục soát.
Anh sống sót qua bàn Kiểm soát Nhập cảnh ở Heathrow. “Anh ở đây bao lâu?”
“ Tôi nghĩ là không quá bốn ngày.”
“ Đi công tác à?”
“ Đúng thế.”
“ Anh sẽ ở đâu?”
“ Khách sạn Người Luân Đôn, phố Welbeck.”
Một lần nữa, xe buýt đi tới điểm dừng cuối cùng của tàu điện ngầm Luân Đôn và Tom bước tới một bốt điện thoại và gọi cho studio của Jeff. Lúc đó là mười giờ mười lăm tối.
Một người phụ nữ nghe máy.
“Có anh Constant ở đó không?” Tom hỏi. “Hoặc anh Banbury cũng được?”
“Hiện giờ cả hai người họ đều ra ngoài rồi. Xin hỏi ai gọi đấy?”
“Robert – Robert Mackay.” Không có phản ứng vì Tom chưa báo tên mới của anh cho Jeff. Tom biết rằng Jeff và Ed hẳn phải để lại ai đó đợi trong studio chờ Tom Ripley, một người là đồng minh của họ. “Có phải Cynthia đấy không?”
“Đúng… thế,” giọng khá cao đáp lại.
Tom quyết định mạo hiểm. “Tom đây,” anh nói. “Khi nào thì Jeff quay lại?”
“Ôi, Tom! Tôi đã không dám chắc đó là anh. Họ hẹn sẽ quay lại sau nửa tiếng nữa. Anh có thể đến đây không?”
Tom bắt tắc-xi tới studio Wood ở St. John. Cynthia Gradnor mở cửa. “Tom à… xin chào.”
Tom gần như đã quên cô ta trông như thế nào: chiều cao trung bình, mái tóc nâu suôn thẳng dài tới vai, đôi mắt xám khá to. Giờ cô ta có vẻ gày hơn anh nhớ. Và cô ta đã gần ba mươi. Cô ta trông có vẻ bồn chồn.
“Anh đã gặp Bernard à?”
“Phải, nhưng tôi không biết anh ta đi đâu.” Tom mỉm cười. Anh cho rằng Jeff (và cả Ed) đã nghe lời anh và không kể cho ai nghe về nỗ lực kết liễu tính mạng anh của Bernard. “Chắc anh ta vẫn ở Paris.”
“Ngồi xuống đi nào, Tom! Tôi có thể lấy đồ uống gì cho anh đây?”
Tom mỉm cười và giơ ra món mà anh đã mua được ở sân bay Athens. Rượu scotch White Horse. Cynthia khá thân thiện – bề ngoài là vậy. Tom thấy mừng.
“Bernard lúc nào cũng rầu rĩ khi triển lãm diễn ra,” Cynthia nói, pha đồ uống. “Đấy là tôi nghe nói vậy. Dạo này tôi không thường gặp anh ấy nữa. Như anh chắc cũng biết.”
Tom nhất định sẽ không đề cập tới chuyện Bernard từng kể với anh là Cynthia đã từ chối anh ta – không muốn gặp anh ta nữa. Biết đâu Cynthia không thật sự nghĩ vậy. Tom không đoán nổi.
“À thì,” Tom vui vẻ nói, “anh ta nói rằng sẽ không vẽ nữa – dưới tên Derwatt. Tôi chắc chắn chuyện đó tốt cho anh ta. Anh ta nói là anh ta ghét nó”.
Cynthia đưa đồ uống cho Tom. “Đó là một công việc kinh tởm. Kinh tởm!”
Đúng là thế, Tom biết. Kinh tởm. Vẻ rùng mình thấy rõ của Cynthia khiến anh cũng ý thức được điều đó. Giết người, dối trá, lừa đảo – đúng, đó đúng là một công việc đáng ghê tởm. “Thì… không may là nó đã đi xa đến nước này,” Tom nói, “nhưng nó sẽ không đi xa hơn nữa đâu. Đây là lần xuất hiện cuối cùng của Derwatt, cô có thể nói thế. Trừ phi Jeff và Ed quyết định rằng họ… họ không muốn tôi đóng vai anh ta nữa. Ý tôi là kể cả lần cuối này”.
Cynthia có vẻ không để ý đến chuyện đó. Lạ lùng thật. Tom đã ngồi xuống nhưng Cynthia vẫn chậm chạp đi lại trên sàn, có vẻ đang dỏng tai lên nghe tiếng bước chân của Jeff và Ed trên cầu thang. “Chuyện gì đã xảy ra với người đàn ông tên Murchison vậy? Ngày mai vợ ông ta sẽ tới đây, tôi nghĩ vậy. Jeff và Ed bảo vậy.”
“Tôi không biết. Tôi cũng không thể giúp gì cho cô,” Tom nói một cách khá bình thản. Anh không thể cho phép câu hỏi của Cynthia khiến mình bồn chồn. Anh còn việc phải làm.
Chúa lòng lành, ngày mai bà vợ sẽ đến. “Ông Murchison biết rằng các bức tranh bị làm giả. Chính xác thì ông ta dựa vào cái gì?"
“Ý kiến của riêng ông ta,” Tom nói và nhún vai. “À thì, ông ta nói đến linh hồn của một bức tranh, cá tính… Tôi không nghĩ là ông ta có thể thuyết phục một chuyên gia ở Luân Đôn tin những điều đó đâu. Nói thẳng ra thì đến giờ này làm gì có ai phân rõ ranh giới giữa Derwatt và Bernard được nữa? Mấy gã phê bình nghệ thuật tự phong đấy đều là những tên khốn nhàm chán. Nghe mấy gã đó nói cũng thú vị như đọc mấy bài phê bình nghệ thuật vậy – các khái niệm không gian, các giá trị tạo hình, mấy câu chuyện lố bịch kiểu đó.” Tom cười, rũ ống tay áo và lần này chúng thẳng xuống. “Ông Murchison đã nhìn thấy hai bức tranh ở nhà tôi, một là tranh thật và một là tranh của Bernard. Theo lẽ tự nhiên, tôi cố gắng phủ định ý kiến của ông ta và tôi dám nói là mình đã thành công. Tôi không nghĩ là ông ta sẽ giữ hẹn với… với người ở Tate Gallery đâu.”
“Nhưng ông ta biến đi đâu cơ chứ?”
Tom ngập ngừng. “Đó là một bí ẩn. Bernard đã biến đi đâu? Tôi không biết. Ông Murchison có khi lại có ý tưởng riêng. Có lý do riêng để biến mất. Không thì đó sẽ là một bí ẩn mãi treo ở sân bay Orly!” Tom thấy lo lắng và ghét chủ đề này.
“Nó không khiến cho mọi chuyện ở đây đơn giản đi. Trông thì có vẻ ông Murchison đã bị trừ khử hoặc sao đó vì ông ta biết về phi vụ làm giả.”
“Đó là chuyện mà tôi đang cố gắng sửa đổi. Rồi rút lui.
Việc làm giả chưa được chứng minh. À phải rồi, Cynthia, đây là một trò chơi kinh tởm, nhưng đã đi xa đến nước này rồi thì chúng ta phải đi cho trót – tới một mức độ nào đó.”
“Bernard từng nói rằng anh ấy muốn thú nhận tất cả – với cảnh sát. Có thể anh ấy đang thực hiện điều đó.”
Đó là một khả năng kinh khủng, và Tom hơi rùng mình trước suy nghĩ ấy, hẳn Cynthia cũng vậy. Anh uống cạn cốc rượu của mình. Phải rồi, nếu ngày mai cảnh sát Anh ập vào với nụ cười thích thú trong khi anh đang diễn vai Derwatt lần thứ hai thì đúng là một thảm họa. “Tôi không nghĩ Bernard sẽ làm vậy đâu,” Tom nói nhưng chính anh cũng không dám chắc vào những gì mình vừa nói ra.
Cynthia nhìn anh. “Anh cũng đã cố thuyết phục Bernard đấy à?”
Tom đột nhiên thấy đau nhói trước sự thù địch của cô ta, sự thù địch đã tích lũy nhiều năm trời, Tom biết. Chính anh đã vẽ ra toàn bộ mớ bòng bong này. “Đúng thế,” Tom nói, “vì hai lý do. Một là nó sẽ kết thúc sự nghiệp của chính Bernard, và hai…”
“Tôi nghĩ là sự nghiệp của Bernard đã kết thúc rồi, nếu anh muốn nói đến họa sĩ Bernard Tufts.”
“Thứ hai,” Tom vẫn cố nói giọng nhẹ nhàng hết mức có thể, “Bernard không phải là người duy nhất liên đới, không may thay. Nó cũng sẽ hủy hoại cả Jeff lẫn Ed, cả… những người đang chế tạo dụng cụ vẽ, trừ phi họ chối việc biết về vụ làm giả, một điều mà tôi không nghĩ là họ có thể thực hiện một cách thành công. Trường nghệ thuật ở Ý…”
Cynthia căng thẳng thở dài. Cô ta có vẻ không biết nói gì. Có thể là cô ta cũng chẳng muốn nói gì nữa. Cô ta lại đi vòng vòng trong studio vuông vức, nhìn tấm ảnh chụp một con kangaroo được phóng to mà Jeff đặt dựa vào tường. “Đã hai năm rồi tôi mới vào căn phòng này. Jeff ngày một trở nên thời thượng nhỉ.”
Tom im lặng. Anh nhẹ nhõm khi loáng thoáng nghe thấy tiếng bước chân và giọng nam.
Có người gõ cửa. “Cynthia à? Chúng tôi đây!” Ed gọi vọng vào.
Cynthia mở cửa.
“Chà chà, Tom!” Ed hét lên và lao tới bắt tay anh. “Tom! Xin chào!” Jeff nói, cũng hân hoan hệt như Ed.
Jeff mang theo một chiếc va-li đen đựng đồ hóa trang, Tom biết.
“Phải tới chỗ người bạn của tôi ở khu Soho để mượn đồ hóa trang,” Jeff nói. “Anh khỏe không, Tom? Athens thế nào?”
“U ám,” Tom nói. “Uống rượu đi các anh. Các viên đại tá ở đấy, các anh biết mà. Không nghe được một bản nhạc bouzouki31 nào hết. Xem này, tôi hy vọng tối nay không có màn trình diễn nào cả.” Jeff đang mở va-li ra.
31 Một loại nhạc cụ phổ biến ở Hy Lạp.
“Không có đâu. Chỉ kiểm tra xem mọi thứ có đầy đủ không thôi. Anh có nhận được tin gì từ Bernard không?”
“Một câu hỏi hay làm sao,” Tom nói. “Không.” Anh lo lắng liếc nhìn Cynthia, cô ta đang khoanh tay dựa vào một cái tủ ở bên kia phòng. Cô ta có biết là anh đã đặc biệt đi tới Hy Lạp để tìm Bernard không? Có cần thiết phải kể chuyện đó cho cô ta không? Không cần.
“Hay ông Murchison?” Ed hỏi qua vai. Anh ta đang tự rót đồ uống cho mình.
“Không,” Tom nói. “Tôi được biết ngày mai bà Murchison sẽ đến đây?”
“Có thể thế,” Jeff đáp lại. “Hôm nay Webster gọi điện cho bọn tôi và nói vậy. Anh biết đấy, thanh tra Webster ấy.”
Tom đơn giản là không thể bàn chuyện khi Cynthia vẫn ở trong phòng. Anh không nói gì. Anh muốn nói gì đó tự nhiên thôi, chẳng hạn như, “Ai đã mua bức ‘Bồn Tắm’ vậy?” nhưng anh thậm chí còn chẳng thể làm vậy được. Cynthia giữ thái độ thù địch. Cô ta có thể sẽ không phản bội họ nhưng cũng không về phe họ.
“Tiện thể, Tom,” Ed nói, mang cho Jeff một cốc rượu (Cynthia vẫn cầm cốc rượu của mình), “anh có thể ở lại đây tối nay. Chúng tôi mong là như vậy.”
“Rất hân hạnh,” Tom nói.
“Và ngày mai – vào buổi sáng, Jeff và tôi đã nghĩ sẽ gọi cho Webster vào tầm mười rưỡi, và nếu không thể liên lạc được với anh ta thì chúng tôi sẽ để lại tin nhắn, nói rằng sáng hôm đó anh đã đến Luân Đôn bằng tàu hỏa – tức là sáng mai, và gọi cho chúng tôi. Anh đã ở cùng bạn bè gần Bury St. Edmunds, kiểu vậy, và anh chưa... ừm... ”
“Anh không cảm thấy cuộc tìm kiếm anh nghiêm trọng đến mức phải thông báo cho cảnh sát về nơi ở của mình,” Jeff nói xen vào, như thể đang trích dẫn lời hát ru của mẹ Ngỗng32. “Thực tế là họ không lục tung khắp phố phường để tìm anh. Họ chỉ hỏi chúng tôi Derwatt đang ở đâu đôi ba lần gì đấy, và chúng tôi đã trả lời rằng chắc anh ở cùng bạn bè trong nước thôi.”
“D’accord33,” Tom nói.
32 Mẹ Ngỗng là tác giả tưởng tượng của tập truyện cổ tích Pháp.
33 (Tiếng Pháp): Đồng ý.
“Tôi nghĩ tôi phải đi đây,” Cynthia nói.
“Ôi, Cynthia… không muốn uống nốt chỗ rượu còn lại à?” Jeff hỏi.
“Không.” Cô ta mặc áo vào và Ed tiến tới giúp. “Tôi thật sự chỉ muốn biết có tin tức gì của Bernard không thôi, các anh biết đấy.”
“Cảm ơn, Cynthia, vì đã canh pháo đài hộ chúng tôi ở đây,” Jeff nói.
Một phép ẩn dụ không phù hợp, Tom nghĩ thầm. Anh đứng dậy. “Tôi bảo đảm nếu mình nhận được tin gì thì cũng sẽ báo lại cho cô, Cynthia. Tôi sẽ sớm quay về Paris – có khi là vào ngày mai luôn.”
Hội Cynthia, Jeff và Ed lầm bầm chào tạm biệt nhau. Jeff và Ed quay vào.
“Cô ta thật sự yêu Bernard à?” Tom hỏi. “Tôi không nghĩ vậy. Anh ta nói…”
Cả Jeff và Ed đều thoáng mang vẻ đau đớn. “Bernard đã nói gì?” Jeff hỏi.
“Anh ta kể rằng tuần trước đã gọi cho cô ta từ Paris và cô ta nói rằng không muốn gặp anh ta. Cũng có thể Bernard đã phóng đại, tôi không rõ lắm.”
“Cả chúng tôi cũng không,” Ed nói, và gạt mái tóc vàng rủ xuống của anh ta ra sau. Anh ta lấy một cốc rượu nữa.
“Tôi tưởng Cynthia đã có bạn trai mới rồi,” Tom nói.
“À, vẫn người cũ,” Ed nói bằng giọng chán chường từ trong bếp.
“Stephen gì đó,” Jeff nói. “Anh ta vẫn chưa khiến cô ấy cháy lên đâu.”
“Anh ta không phải tuýp người có thể bùng nổ đâu!” Ed nói, bật cười.
“Cô ấy vẫn làm công việc cũ,” Jeff tiếp tục. “Cô ấy được trả công hậu hĩnh và là ứng cử viên hàng đầu cho một vị trí quan trọng nào đó.”
“Cô ấy đã ổn định,” Ed xen vào, để chấm dứt câu chuyện. “Còn bây giờ thì Bernard đâu rồi không biết, và ý anh là gì khi nói anh ta nghĩ anh đã chết?”
Tom giải thích, ngắn gọn thôi. Anh cũng kể về vụ chôn người, dù nó được anh diễn tả lại hài hước đến mức cả Jeff lẫn Ed đều bị lôi cuốn, thậm chí còn mê mẩn một cách bệnh hoạn, và cùng lúc ấy cười ha hả. “Chỉ có một cái băng gạc nhỏ trên đầu thôi,” Tom nói. Anh đã trộm kéo của Heloise và cắt băng dính trong phòng vệ sinh trên máy bay bay đi Athens.
“Để tôi chạm vào anh xem nào!” Ed nói, túm lấy vai Tom. “Đây là người đã trèo ra khỏi mộ đấy, Jeff!”
“Vượt quá khả năng của chúng tôi. Vượt quá khả năng của tôi,” Jeff nói.
Tom cởi áo khoác và thoải mái ngồi xuống chiếc tràng kỷ màu rỉ sắt của Jeff. “Tôi nghĩ các anh hẳn đoán được là,” anh nói, “ông Murchison đã chết phải không?”.
“Chúng tôi đúng là đã nghĩ vậy,” Jeff nghiêm túc nói. “Chuyện gì đã xảy ra?”
“Tôi đã giết ông ta. Dưới tầng hầm của tôi – bằng một chai rượu vang.” Trong khoảnh khắc kỳ cục này, Tom chợt nảy ra ý nghĩ là anh có thể, à, anh phải gửi hoa cho Cynthia. Cô ta có thể ném nó vào sọt rác hoặc lò sưởi tùy ý. Tom tự chấn chỉnh lại bản thân vì đã tỏ ra thiếu ga-lăng với Cynthia.
Jeff và Ed vẫn đang ngơ ngác hồi phục sau khi nghe tin anh vừa nói.
“Xác đâu?” Jeff hỏi.
“Ở dưới đáy một dòng sông nào đó. Gần chỗ tôi. Tôi nghĩ là sông Loing,” Tom nói. Anh có nên kể cho họ biết là Bernard đã giúp đỡ mình không nhỉ? Thôi. Sao phải phiền phức thế làm gì? Tom xoa trán. Anh mệt mỏi và gục người xuống, chỉ dựa vào đúng một khuỷu tay.
“Chúa tôi,” Ed nói. “Sau đó anh mang đồ đạc của ông ta tới sân bay Orly à?”
“Đồ đạc của ông ta, đúng vậy.”
“Không phải anh có một bà quản gia à?” Jeff hỏi.
“Phải. Tôi đã phải tiến hành tất cả chuyện này một cách bí mật. Tránh bà ta,” Tom nói. “Sáng sớm, kiểu thế.”
“Nhưng anh vừa nhắc tới chỗ chôn trong rừng – mà Bernard đã sử dụng.” Ed hỏi câu này.
“Đúng thế, tôi… đầu tiên đã chôn ông Murchison trong rừng, sau đó cảnh sát đến điều tra, nên trước khi họ vào rừng, tôi đã nghĩ là mình nên đưa ông ta… ra khỏi rừng, vậy nên tôi…” Tom dùng tay ra hiệu, động tác vứt xác mơ hồ. Không, tốt nhất là đừng đề cập tới việc Bernard đã giúp anh. Nếu Bernard muốn – anh ta muốn làm gì nhỉ, chuộc lỗi cho bản thân à? – thì Bernard càng ít đồng lõa càng tốt.
“Chúa ơi,” Ed nói. “Trời ơi. Anh có thể đối diện với vợ ông ấy không?”
“Suỵt,” Jeff vội vã nói, cười lo lắng.
“Tất nhiên rồi,” Tom nói. “Tôi buộc phải làm vậy vì ông Murchison đã buộc tội tôi – ở dưới hầm, chuyện là vậy đấy. Ông ta nhận ra tôi đã đóng giả Derwatt ở Luân Đôn. Vậy nên tất cả sẽ vỡ lở nếu tôi không trừ khử ông ta. Các anh hiểu chứ?” Tom đi lòng vòng, cố gắng giảm cảm giác buồn ngủ đi.
Họ hiểu và thấy ấn tượng. Đồng thời Tom có thể cảm giác được là não bộ của họ bắt đầu hoạt động: Tom Ripley trước đây từng giết người. Dickie Greenleaf à? Và có thể cả gã tên Freddie gì đó nữa. Đó chỉ là một hoài nghi thôi, nhưng không phải nó là sự thật sao? Tom xem trọng việc giết người này đến mức nào, và trên thực tế thì anh ta mong đợi gì từ công ty Derwatt? Lòng biết ơn, sự trung thành, tiền bạc? Không phải tất cả đều như một thôi sao? Tom vẫn đủ tỉnh táo để nghĩ là không phải vậy, hy vọng là không phải vậy. Tom mong đợi Jeff Constant và Ed Banbury có năng lực hơn thế. Sau rốt thì, họ từng là bạn của Derwatt vĩ đại, thậm chí còn là bạn thân nữa. Derwatt vĩ đại đến mức nào? À, khá vĩ đại dưới tư cách một họa sĩ, nói thật lòng là vậy. Tom đứng thẳng lưng hơn vì Bernard (người đã lẩn tránh Jeff và Ed nhiều năm trời dưới góc độ tình bạn), và nói, “Nào, các bạn của tôi… sao không nói sơ cho tôi vụ ngày mai nhỉ? Còn ai đến nữa? Tôi thừa nhận là tôi rất mệt và không ngại lên giường sớm đâu”.
Ed đang đứng đối mặt với anh. “Có bằng chứng nào chống lại anh trong vụ ông Murchison không, Tom?”
“Theo tôi biết là không.” Tom mỉm cười. “Chẳng có gì ngoài các sự kiện thực tế.”
“Bức ‘Đồng Hồ’ thật sự bị đánh cắp à?”
“Bức tranh nằm cùng với va-li của ông Murchison – được bọc riêng – ở sân bay Orly. Có kẻ đã cuỗm nó đi mất, chỉ có thế,” Tom nói. “Tôi băn khoăn không biết giờ ai đang treo nó? Họ có biết họ đã lấy được cái gì không nhỉ? Trong trường hợp đó thì chắc nó không được treo lên đâu. Chúng ta có nên bắt đầu với việc tóm tắt không nhỉ? Chúng ta bật chút nhạc lên được không?”
Để tăng hiệu quả của đài radio Luxembourg, Tom chịu thử qua đồ. Râu và lưới vẫn dính chặt vào nhau và họ thử râu nhưng không dán keo lên. Bernard đã không nhận lại bộ âu phục màu xanh dương sậm của Derwatt và Tom mặc áo khoác vào.
“Các anh có biết gì về bà Murchison không?” Tom hỏi.
Họ không biết gì nhiều, dù họ nhiệt tình cung cấp vài mẩu thông tin rời rạc cho thấy bà ta, theo ý Tom, chẳng hung hăng mà cũng không nhút nhát, không thông minh cũng chẳng ngu ngốc. Các dữ liệu đều rất chung chung. Jeff đã nói chuyện với bà ta qua điện thoại ở Buckmaster Gallery, bà ta gọi sau khi hẹn trước bằng điện tín.
“Đúng là một phép màu vì bà ta đã không gọi cho tôi,” Tom nói.
“À, chúng tôi bảo là không biết số điện thoại của anh,” Ed nói, “và tôi nghĩ việc anh ở Pháp khiến bà ta chùn chân”.
“Có phiền nếu tối nay tôi gọi về nhà không?” Tom hỏi, dùng giọng của Derwatt. “Tiện thể, ở đây tôi khánh kiệt rồi.”
Jeff và Ed không thể ngoan ngoãn hơn. Họ có vô khối tiền mặt trong tay. Jeff gọi điện tới Belle Ombre ngay lập tức. Ed pha một cốc cà phê nhỏ nhưng đặc cho Tom theo yêu cầu của anh. Tom tắm rửa và mặc pyjama vào. Tốt hơn nhiều rồi – đi cả dép đi trong nhà của Jeff nữa. Anh chuẩn bị ngủ trên tràng kỷ trong studio.
“Tôi hy vọng là mình đã nói rõ,” Tom nói, “Bernard muốn chấm dứt. Derwatt sẽ nghỉ hưu vĩnh viễn và – có thể bị kiến ở Mexico ăn thịt hoặc bị lửa nuốt, và kèm theo đó là những bức tranh mà anh ta vẽ trong tương lai”.
Jeff gật đầu, bắt đầu gặm móng tay, và rồi bỏ nó ra khỏi miệng. “Anh đã bảo gì với vợ mình?”
“Không gì cả,” Tom nói. “Thật sự không có chuyện gì quan trọng cả đâu.”
Điện thoại reo.
Jeff ra hiệu cho Ed theo anh ta vào phòng ngủ.
“Chào em yêu, anh đây!” Tom nói. “Không, anh ở Luân Đôn… À thì, anh đã đổi ý thôi…”
Khi nào anh mới về nhà?... Với cả cái răng bà Annette lại đau rồi.
“Cho bà ấy biết tên của gã nha sĩ ở Fontainebleau đi!” Tom nói.
Ngạc nhiên làm sao khi một cuộc điện thoại có thể khiến anh cảm thấy được an ủi đến mức nào trong tình trạng hiện thời. Nó gần khiến Tom yêu mến chiếc điện thoại.