"X
in hỏi thanh tra điều tra Webster có ở đó không?” Jeff hỏi. “Đây là Jeffrey Constant ở Buckmaster Gallery… Anh có thể báo với thanh tra là sáng nay tôi mới nhận được điện thoại của Derwatt và chúng tôi sẽ gặp anh ấy ở phòng triển lãm vào sáng nay… tôi không rõ thời gian chính xác. Trước mười hai giờ.”
Lúc này là mười giờ kém mười lăm.
Tom lại đứng trước chiếc gương dài, đánh giá bộ râu và hàng lông mày được chải chuốt của mình. Ed đang nhìn mặt anh dưới một trong những bóng đèn sáng nhất của Jeff, nó rọi thẳng vào mắt Tom. Tóc anh nhạt hơn màu râu, nhưng sẫm hơn màu tóc thật, giống hệt lần trước. Ed đã cẩn thận xử lý vết thương sau đầu anh và mừng vì nó không còn chảy máu nữa. “Jeff, anh bạn già,” Tom nói bằng giọng căng thẳng của Derwatt. “Anh có thể tắt thứ nhạc đó đi và bật bài khác lên không?”
“Anh muốn nghe gì?”
“Bài Giấc Mộng Đêm Hè đi. Anh có đĩa đó không?”
“ Không,” Jeff nói.
“Anh kiếm nó được không? Tôi đang có tâm trạng muốn nghe bài đó. Nó truyền cảm hứng cho tôi và tôi cần cảm hứng.” Sáng nay việc chỉ tưởng tượng ra âm nhạc thôi là chưa đủ.
Jeff thậm chí cũng không biết ai mà anh ta chắc chắn là có nó.
“Anh không thể ra ngoài mua được sao, Jeff? Không phải có một cửa hàng bán đĩa nhạc trên đường từ đây tới phố St. John’s Wood à?”
Jeff chạy ra ngoài.
“Tôi đoán là anh chưa nói chuyện với bà Murchison,” Tom nói, tạm thư giãn với điếu Gauloise. “Tôi phải mua ít thuốc lá Anh mới được. Tôi không muốn mạo hiểm quá mức với mấy điếu Gauloise này.”
“Lấy cái này đi. Nếu anh hết thì mọi người sẽ mời anh hút thuốc lá,” Ed nói vội vàng, đẩy một gói gì đó vào trong túi của Tom. “Không, tôi chưa hề nói chuyện với bà ta. Ít nhất thì bà ta không cử một tay thám tử người Mỹ tới đây. Bà ta mà làm vậy thật thì khá là gay go đấy.”
Có thể bà ta sẽ đưa một người bay qua đây, Tom nghĩ. Anh cởi hai chiếc nhẫn của mình ra. Tất nhiên hiện giờ anh không mang theo chiếc nhẫn Mexico. Tom cầm một cái bút bi lên và cố gắng mô phỏng lại chữ ký rắn rỏi của Derwatt được đóng dấu trên một cái tẩy màu xanh dương trên bàn của Jeff. Tom ký thử ba lần rồi vò tờ giấy mà anh vừa dùng và thả nó vào sọt rác.
Jeff quay về, thở hổn hển như vừa chạy hết tốc lực. “Bật to vào… nếu anh có thể,” Tom nói.
Âm nhạc bắt đầu cất lên – khá to. Tom mỉm cười. Đây mới là nhạc của anh. Một suy nghĩ càn rỡ, nhưng đây là thời điểm cần càn rỡ. Giờ Tom cảm thấy rạng rỡ, đứng cao hơn, rồi mới nhớ ra Derwatt không đứng thẳng. “Jeff, tôi nhờ anh một việc nữa được không? Hãy gọi tới một cửa hàng hoa và gửi hoa tới cho Cynthia. Tính vào hóa đơn của tôi nhé.”
“Sao anh lại nói chuyện tiền nong ở đây làm gì? Hoa… gửi cho Cynthia. Được rồi. Loại nào đây?”
“À, hoa lay-ơn, nếu họ có. Không thì hai tá hoa hồng.”
“ Hoa, hoa, hàng hoa…” Jeff đang tìm trong danh bạ điện thoại của mình. “Từ ai đây? Cứ ký tên là ‘Tom’ thôi à?”
“Gửi tình yêu từ Tom,” anh nói, và đứng im trong khi Ed tô son môi màu hồng nhạt lên môi trên của anh một lần nữa. Môi trên của Derwatt đầy đặn hơn.
Họ rời khỏi studio của Jeff khi mặt đĩa đầu tiên vẫn đang bật. Jeff bảo nó sẽ tự động tắt. Anh ta nhảy lên chiếc tắc-xi đầu tiên một mình. Tom cảm thấy đủ tự tin để tự đi, nhưng anh cảm giác là Ed không muốn mạo hiểm như thế, hoặc không muốn rời khỏi anh. Họ cùng vào tắc-xi và xuống xe trên một con phố cách phố Bond một con đường.
“Nếu có người hỏi chuyện thì cứ nói là tôi vô tình gặp anh đang đi bộ tới Buckmaster nhé,” Ed nói.
“Thả lỏng đi. Chúng ta sẽ thắng lợi.”
Một lần nữa, Tom đi vào qua cánh cửa sau sơn đỏ của phòng triển lãm. Văn phòng trống không, chỉ trừ Jeff đang nói chuyện điện thoại. Anh ta ra dấu cho họ ngồi xuống.
“Anh chuyển máy nhanh hết cỡ giùm tôi được không?” Jeff nói. Anh ta dập máy xuống. “Tôi vừa lịch sự gọi điện tới Pháp. Cảnh sát ở Melun. Báo cho họ biết là Derwatt vừa xuất hiện trở lại. Anh biết đấy… Derwatt, họ đã gọi cho chúng tôi và tôi hứa là sẽ báo tin nếu anh liên lạc lại.”
“Tôi hiểu rồi,” Tom nói. “Chắc anh chưa nói chuyện này cho báo chí đâu nhỉ?”
“Không, và tôi cũng không nghĩ mình nên làm thế, anh thấy sao?”
“Không, cho qua đi.”
Leonard, linh hồn vô tư lự là quản lý phòng triển lãm, thò đầu vào cửa. “Xin chào! Tôi vào được không?”
“Không-ng!” Jeff thì thào nói, không nghiêm túc.
Leonard đi vào trong và đóng cửa lại, cười toét miệng khi Derwatt lần thứ hai hồi sinh. “Tôi không tin nổi vào mắt mình nữa! Sáng nay chúng ta chờ ai vậy?”
“Khởi động là thanh tra Webster của đội cảnh sát thủ đô,” Ed nói.
“Tôi cứ để cho bất kỳ ai…”
“Không, không phải bất kỳ ai,” Jeff nói. “Đầu tiên hãy gõ cửa, và tôi sẽ mở cửa ra, nhưng hôm nay tôi sẽ không khóa cửa lại. Giờ thì ra đi!”
Leonard ra ngoài.
Tom đang ngồi sụp người trong chiếc ghế bành khi thanh tra Webster đến.
Anh ta mỉm cười như một chú thỏ vui vẻ có cặp răng cửa to đùng ố vàng. “Xin chào, anh Derwatt. Chà chà! Tôi chẳng bao giờ lường được có một ngày lại được vinh hạnh gặp anh!”
“Chào anh, thanh tra.” Tom không ngồi thẳng dậy. Hãy nhớ, anh thầm nhủ, mày già hơn, nặng nề hơn, chậm chạp hơn, người khom hơn so với Tom Ripley. “Tôi xin lỗi,” Tom nói một cách thản nhiên, như thể anh không hề thấy có lỗi và chắc chắn cũng chẳng mảy may xao động, “vì anh phải bận tâm xem tôi đang ở đâu. Tôi đã ở cùng vài người bạn ở Suffolk”.
“Tôi cũng vừa được báo như vậy,” viên thanh tra nói, ngồi xuống một chiếc ghế lưng thẳng cách chỗ Tom khoảng hai mét.
Tom để ý thấy rèm chớp ở cửa sổ được thả xuống ba phần tư, gần như đóng kín. Ánh đèn vừa đủ, dù là để viết thư, nhưng không quá sáng rọi.
“À, nơi anh ở chỉ là phụ so với nơi ông Murchison đang ở thôi,” Webster nói, mỉm cười. “Việc của tôi là tìm ra ông ta.”
“Tôi đã đọc tin hoặc… nghe Jeff kể vài chuyện về việc ông ta mất tích ở Pháp.”
“Phải, và một trong các bức tranh của anh cũng đã biến mất theo ông ta. Bức ‘Đồng Hồ’.”
“Đúng thế. Chắc không phải là… vụ trộm đầu tiên,” Tom bình thản nói. “Theo tôi biết thì vợ ông ta có thể sẽ đến Luân Đôn à?”
“Đúng thực là bà ấy sẽ đến.” Webster nhìn đồng hồ. “Bà ấy sẽ hạ cánh lúc mười một giờ sáng. Sau một chuyến bay đêm, tôi chắc là bà ấy sẽ muốn nghỉ ngơi vài tiếng. Chiều nay anh còn ở đây không, anh Derwatt? Anh có thể ở đây chứ?”
Tom biết anh phải đồng ý để tỏ ra lịch sự. Anh nói, chỉ chêm vào một chút miễn cưỡng nhỏ, là tất nhiên anh có thể. “Tầm giờ nào? Chiều nay tôi phải xử lý vài việc vặt.”
Webster đứng dậy, như một người bận rộn. “Chúng ta cứ hẹn lúc ba rưỡi đi được không? Nếu có thay đổi thì chúng tôi sẽ báo cho anh biết qua phòng triển lãm.” Anh ta quay về phía Jeff và Ed. “Cảm ơn hai vị rất nhiều vì đã thông báo cho tôi về anh Derwatt. Tạm biệt các vị.”
“Tạm biệt, thanh tra.” Jeff mở cửa ra cho anh ta.
Ed nhìn Tom và nở một nụ cười thỏa mãn, môi vẫn mím chặt. “Chiều nay nhớ hăng hái hơn một chút nhé. Derwatt hơi… mạnh mẽ hơn một chút. Do lo lắng.”
“Tôi có lý do riêng,” Tom nói. Anh chụm các ngón tay lại và nhìn chằm chằm vào khoảng không, điệu bộ hệt như Sherlock Holmes đang suy tư, hẳn chỉ là một động tác vô thức vì anh cũng đang nghĩ đến một câu chuyện trong Sherlock Holmes tương tự với tình huống này. Tom hy vọng màn cải trang của mình sẽ không dễ bị lật tẩy. Dẫu thế nào thì nó vẫn khá hơn một kẻ từng bị ngài Arthur34 lật tẩy – khi một quý ông quên tháo nhẫn kim cương của ông ta ra.
34 Tức Sir Arthur Conan Doyle, tác giả của Sherlock Holmes.
“Lý do của anh là gì?” Jeff hỏi.
Tom nhảy bật dậy. “Sẽ kể cho anh sau. Giờ tôi cần một cốc scotch.”
Họ ăn trưa ở Norughe, một nhà hàng Ý trên đường Edgware. Tom đói ngấu và nhà hàng này cực kỳ hợp khẩu vị của anh – yên tĩnh, dễ chịu, món mỳ ngon tuyệt vời. Tom ăn gnocchi với sốt phô mai tuyệt hảo và họ uống hai chai Verdicchio. Ở bàn kế bên có vài nhân sĩ của đoàn Ballet Hoàng gia, họ ngay lập tức nhận ra Derwatt, cũng như Tom nhận ra họ, nhưng đúng phong cách Anh, những ánh mắt trao đổi sớm chấm dứt.
“Chiều nay tôi muốn đến phòng triển lãm một mình và đi qua cửa trước,” Tom nói.
Bọn họ đã hút xì gà và uống brandy. Tom cảm thấy sẵn sàng đương đầu với bất kỳ thứ gì, kể cả bà Murchison.
“Thả tôi xuống đây đi,” Tom nói trong tắc-xi. “Tôi thấy muốn đi bộ.” Anh nói bằng giọng Derwatt mà anh vẫn dùng xuyên suốt bữa trưa. “Tôi biết đường đi cũng hơi dài, nhưng ít nhất thì ở đây không nhiều đồi núi như Mexico. À há.”
Phố Oxford trông vừa đông đúc lại vừa chào mời. Tom nhận ra là mình chưa hỏi Jeff hay Ed xem họ đã bịa thêm hóa đơn nhận tranh chưa. Có thể Webster sẽ không đòi họ nữa. Có thể bà Murchison lại đòi. Ai mà biết được? Vài người trong đám đông trên đường Oxford liếc nhìn anh hai lần, chắc đã nhận ra anh – dù Tom không thật sự nghĩ vậy – có thể mắt họ bị thu hút bởi bộ râu và đôi mắt quyết liệt của anh. Tom nghĩ mắt mình trông quyết liệt vì hàng lông mày, và vì Derwatt luôn cau mày, dù biểu cảm này không có nghĩa là anh ta khó chịu, Ed đã cam đoan với anh như vậy.
Chiều nay hoặc thành công hoặc thất bại thôi, Tom nghĩ thầm. Nhất định, nhất định phải thành công. Anh bắt đầu tưởng tượng những gì sẽ xảy ra nếu chiều nay thất bại, và đầu óc anh ngừng lại khi nghĩ đến Heloise – và gia đình cô. Nó sẽ chấm dứt tất cả, kết thúc của Belle Ombre. Chấm dứt dịch vụ tận tâm của bà Annette. Nói trắng ra, anh sẽ vào tù, vì quá rõ ràng là chính anh đã trừ khử ông Murchison. Chôn vùi cái suy nghĩ ngồi tù đi.
Tom đi thẳng về phía ông già đeo bảng quảng cáo chụp ảnh hộ chiếu lấy nhanh. Như bị mù, ông ta không hề tránh ra.
Tom tránh ông ta. Anh lại chạy ra trước mặt ông ta. “Có nhớ tôi không? Xin chào!”
“Ờ? Ừm ừm?” Nửa điếu thuốc lá chưa châm ngậm trong môi ông ta.
“Lấy may này!” Tom nói và nhét bao thuốc lá còn lại của mình vào túi áo khoác bằng vải tweed cũ mèm. Anh vội vã bước tiếp, nhớ phải đi lòng khòng.
Tom lặng lẽ tiến vào Buckmaster Gallery, nơi tất cả những bức tranh của Derwatt, chỉ trừ những bức mượn về, được trang hoàng với một ngôi sao nhỏ màu đỏ. Leonard cười với anh và gật đầu như thể đang cúi chào. Có năm người khác ở trong phòng, một cặp đôi trẻ tuổi (cô gái đi chân trần trên thảm be), một quý ông lớn tuổi và hai người đàn ông. Khi Tom tiến về phía cảnh cửa đỏ ở cuối phòng trưng bày, anh có thể cảm thấy toàn bộ ánh mắt xoay về phía mình và dõi theo anh – cho tới khi anh khuất khỏi tầm mắt.
Jeff mở cửa ra. “Derwatt, xin chào. Vào đi. Đây là phu nhân Murchison – đây là Philip Derwatt.”
Tom khẽ cúi chào người phụ nữ ngồi trong ghế bành. “Xin chào, bà Murchison.” Anh cũng gật đầu chào thanh tra Webster, anh ta đang ngồi trong một chiếc ghế lưng thẳng.
Bà Murchison trông tầm năm mươi tuổi, mái tóc ngắn tỉa lỉa chỉa màu đỏ vàng, đôi mắt xanh dương sáng rực rỡ, miệng khá rộng – một khuôn mặt mà, Tom thầm nghĩ, trong hoàn cảnh khác thì chắc sẽ vui tươi lắm. Bà ta mặc một bộ âu phục bằng vải tweed chất lượng tốt được cắt may thanh lịch, đeo vòng cổ ngọc bích, áo len màu xanh lục nhạt.
Jeff đã đi ra phía sau chỗ bàn làm việc nhưng không ngồi xuống.
“Anh đã gặp chồng tôi ở Luân Đôn. Ở đây,” bà Murchison nói với Tom.
“Đúng, trong vài phút thôi. Phải rồi. Chắc là cỡ mười phút.” Tom đi về phía ghế lưng thẳng mà Ed đang mời anh ngồi xuống. Anh cảm thấy bà Murchison nhìn theo đôi giày của anh, đôi giày sắp hỏng từng thuộc về Derwatt. Tom cẩn thận ngồi xuống như thể bị thấp khớp, hoặc còn nghiêm trọng hơn. Giờ anh chỉ cách bà Murchison tầm mét rưỡi, bà ta phải quay đầu sang phải một chút để nhìn anh.
“Ông ấy định tới chỗ một anh tên là Ripley ở Pháp. Ông ấy đã viết thư kể với tôi như thế,” bà Murchison nói. “Sau đó ông ấy không hẹn gặp anh à?”
“Không,” Tom nói.
“Anh có tình cờ quen anh Ripley không? Tôi được biết là anh ta có vài bức tranh của anh.”
“Tôi từng nghe nhắc đến anh ta nhưng chưa gặp bao giờ,” Tom nói.
“Tôi sẽ cố gắng gặp anh ta. Sau rốt thì… có thể chồng tôi vẫn ở Pháp. Điều tôi muốn biết là, anh Derwatt, anh có nghĩ rằng có kẻ nào đó làm giả tranh của anh không… Tôi khó mà diễn tả thành lời được. Có kẻ nào nghĩ rằng họ cần phải trừ khử chồng tôi để ngăn ông ấy lật tẩy một vụ làm giả không? Hoặc là vài vụ làm giả?”
Tom chậm rãi lắc đầu. “Theo tôi biết là không.”
“ Nhưng anh vẫn ở Mexico.”
“Tôi đã nói chuyện với…” Tom ngẩng lên nhìn Jeff, rồi nhìn sang Ed đang đứng dựa vào bàn. “Phòng triển lãm này không hề biết có vụ lừa đảo hay giả mạo nào cả. Tôi đã xem bức tranh mà chồng bà mua, bà biết đấy. ‘Đồng Hồ.’”
“Và nó đã bị trộm.”
“Phải, tôi cũng nghe nói vậy. Nhưng trọng điểm là nó là tranh của tôi.”
“Chồng tôi đã định cho anh Ripley xem bức tranh đó.”
“ Đúng thế,” Webster xen vào. “Anh Ripley đã kể cho tôi nghe về cuộc đối thoại của họ…”
“Tôi biết, tôi biết. Chồng tôi có giả thuyết của ông ấy,” bà Murchison nói đầy vẻ tự hào hoặc can đảm. “Có thể ông ấy nhầm. Tôi thừa nhận mình không phải là chuyên gia hội họa như chồng tôi. Nhưng giả sử ông ấy đúng.” Bà ta chờ một câu trả lời, từ bất kỳ ai.
Tom hy vọng bà ta không biết gì về giả thuyết của chồng mình, hoặc là cũng không hiểu.
“Giả thuyết của ông ấy là gì thế, bà Murchison?” Webster hỏi với vẻ háo hức.
“Có gì đó về màu tím trong các bức tranh gần đây của anh Derwatt – vài bức thôi. Chắc chắn là ông ấy đã thảo luận về điều đó với anh rồi chứ, anh Derwatt?”
“Có,” Tom nói. “Ông ấy nói màu tím trong các bức tranh cũ của tôi sậm hơn. Có thể là như vậy.” Tom cười nhẹ. “Tôi không để ý đến. Nếu giờ tranh của tôi có màu tím sáng hơn thì tôi nghĩ còn nhiều bức như vậy. Cứ xem bức ‘Bồn Tắm’ ngoài kia đi.” Tom không nghĩ ngợi gì mà nhắc đến một bức tranh được ông Murchison đánh giá là làm giả khá lộ liễu hệt như bức “Đồng Hồ” – màu tím trong cả hai bức tranh đều là màu tím cô-ban thuần, theo phong cách cũ.
Không ai có phản ứng.
“Tiện thể,” Tom hỏi Jeff, “sáng nay anh đã cố gọi cho cảnh sát Pháp để báo tôi đã trở lại Luân Đôn còn gì. Anh có gọi được không?”.
Jeff nói. “Không. Không, trời ạ, không gọi được.”
Bà Murchison hỏi, “Chồng tôi có nhắc đến ai khác ngoài anh Ripley mà ông ấy định gặp ở Pháp không, anh Derwatt?”.
Tom cân nhắc. Có nên bắt đầu đánh lạc hướng không nhỉ? Hoặc cứ thành thật. Tom chọn cách sau, “Theo tôi nhớ là không. Mà ông ấy cũng không hề nhắc đến anh Ripley với tôi”.
“Tôi có thể mời bà dùng trà chứ, bà Murchison?” Ed hòa nhã hỏi.
“À, không cần đâu, cảm ơn anh.”
“Có ai muốn uống trà không? Hay uống rượu sherry?” Ed hỏi.
Không ai muốn hay dám nhận lời uống bất kỳ thứ gì.
Trên thực tế, điều đó có vẻ là dấu hiệu để bà Murchison ra về. Bà ta muốn gọi cho Ripley – bà ta đã lấy được số của anh ta từ thanh tra – và hẹn gặp anh ta.
Jeff, với vẻ lạnh lùng rất hợp ý Tom, hỏi, “Bà Murchison, bà có muốn gọi cho anh ta từ đây không?” ra hiệu về chiếc điện thoại trên bàn làm việc của mình.
“Không, cảm ơn nhiều, nhưng tôi sẽ gọi từ khách sạn của tôi.”
Tom đứng dậy khi bà Murchison ra về.
“Anh đang ở đâu tại Luân Đôn vậy, anh Derwatt?” Thanh tra Webster hỏi.
“Tôi đang ở lại studio của Constant.”
“Tôi có thể hỏi anh đến nước Anh bằng cách nào không?” Một nụ cười rạng rỡ. “Bộ phận Kiểm soát Nhập cảnh không có dữ liệu vào đây của anh.”
Tom cố tình ra vẻ mơ hồ và trầm ngâm. “Giờ tôi đã có hộ chiếu Mexico rồi.” Tom đã lường trước sẽ phải nhận câu hỏi này. “Với cả tôi cũng có một cái tên khác ở Mexico.”
“Anh bay tới đây à?”
“Tôi đi thuyền,” Tom nói. “Tôi không thích máy bay lắm.”
Anh chờ Webster hỏi xem anh đã cập cảng ở Southampton hay nơi nào, nhưng anh ta chỉ nói:
“Cảm ơn, anh Derwatt. Tạm biệt.”
Nếu tìm kiếm thì anh ta sẽ thu được gì nhỉ, Tom nghĩ thầm? Có bao nhiêu người từ Mexico đã đến Luân Đôn trong vòng hai tuần vừa qua? Chắc là không nhiều.
Jeff lại đóng cửa lại. Họ im lặng vài giây trong lúc các vị khách rời xa tầm nghe. Jeff và Ed đã nghe thấy những điều anh vừa nói.
“Nếu anh ta muốn tìm kiếm,” Tom nói, “tôi sẽ phải chế tạo vài thứ”.
“Thứ gì cơ?” Ed hỏi.
“À thì… một quyển hộ chiếu Mexico chẳng hạn,” Tom đáp. “Tôi biết… là tôi phải quay lại Pháp ngay lập tức.” Anh nói chuyện bằng giọng Derwatt nhưng giọng nhỏ như tiếng thì thầm.
“Tối nay thì thôi đi, anh nghĩ sao?” Ed nói. “Chắc chắn không phải tối nay rồi.”
“Không. Vì tôi đã nói là sẽ đến chỗ Jeff. Hai người không nghe chuyện đó à?”
“Chúa lòng lành,” Jeff nhẹ nhõm nói, nhưng anh ta dùng khăn tay lau gáy.
“Chúng ta đã thành công,” Ed nói, ra vẻ nghiêm túc nhạo báng, vuốt tay xuống mặt.
“Chúa ơi, ước gì chúng ta có thể ăn mừng!” Tom đột nhiên nói. “Làm sao tôi có thể ăn mừng với bộ râu chết dẫm này đây? Mới trưa nay thôi tôi còn phải tránh phô-mai rớt vào nó đấy. Tôi phải đeo bộ râu này cả tối nay!”
“Và ngủ cùng nó!” Ed hét lên, loạng quạng vì cười.
“Các quý ông…” Tom đứng thẳng dậy và ngay lập tức lại sụp người xuống. “Tôi cần thiết phải mạo hiểm gọi điện cho Heloise. Tôi có thể không, Jeff? Sử dụng hệ thống điện thoại đường dài không qua tổng đài, hy vọng nó không quá nổi bật trên hóa đơn của anh. Nếu thế thì quá tệ vì tôi cảm thấy cuộc gọi này rất cần thiết.” Tom nhấc điện thoại lên.
Jeff pha trà và đặt thêm một chai rượu whiskey lên khay cho hấp dẫn.
Bà Annette nghe máy, dù Tom đã hy vọng không phải. Anh dùng giọng nữ và hỏi bằng thứ tiếng Pháp tệ hơn tiếng Pháp của mình rằng bà Ripley có nhà không. “Suỵt!” Tom nói với Jeff và Ed, hai người vẫn đang cười. “Xin chào, Heloise.” Anh nói bằng tiếng Pháp. “Anh phải nói ngắn gọn, em yêu của anh. Nếu có người gọi điện đòi nói chuyện với anh thì em nhớ là anh đang ở Paris với bạn… Anh nghĩ sẽ có một người phụ nữ gọi cho em, một người chỉ nói tiếng Anh, anh cũng không chắc. Em phải báo số giả của anh ở Paris… cứ bịa ra… Cảm ơn em yêu… anh nghĩ là chiều mai, nhưng em không được phép cho vị phu nhân người Mỹ đó biết chuyện này nhé… và cũng đừng kể cho bà Annette là anh đang ở Luân Đôn…”
Khi dập máy, Tom hỏi Jeff là anh có thể xem qua chỗ sổ sách mà anh ta nói là họ đã làm giả không, và Jeff mang chúng ra. Đó là hai quyển sổ cái, một quyển hơi cũ, quyển còn lại mới hơn. Tom cúi người đọc chúng vài phút, đọc tiêu đề tranh cùng ngày tháng. Jeff viết rất thoáng, và các bức tranh của Derwatt cũng không chiếm ưu thế do Buckmaster Gallery còn giao dịch với các họa sĩ khác nữa. Jeff đã viết thêm tiêu đề bằng các màu mực khác sau vài mốc ngày tháng vì không phải lúc nào Derwatt cũng đặt tên cho các bức tranh của mình.
“Tôi thích cái trang có vết ố trà,” Tom nói.
Jeff cười toe toét. “Đóng góp của Ed đấy. Hai ngày tuổi.”
“ Nói đến việc ăn mừng,” Ed nói, vỗ nhẹ tay, “sao không đến bữa tiệc của Michael tối nay nhỉ? Mười rưỡi, anh ta bảo vậy. Đường Holland Park”.
“Chúng tôi sẽ cân nhắc chuyện đó,” Jeff nói.
“Chỉ hai mươi phút thôi?” Ed tràn trề hy vọng hỏi.
Bức “Bồn Tắm” được liệt kê trong danh sách các bức tranh mới nhất một cách chính xác, Tom thấy, hẳn không thể trốn tránh điều đó. Quyển sổ chủ yếu chứa thông tin về tên và địa chỉ của người mua hàng, mức giá mà họ đã trả, số liệu bán hàng là thật, ngày nhận hàng thỉnh thoảng là giả mạo, Tom đoán vậy, nhưng nhìn tổng thể thì anh nghĩ Jeff và Ed đã làm khá tốt. “Và viên thanh tra đã xem sổ sách này chứ gì?”
“Đúng thế,” Jeff nói.
“Anh ta không hỏi han gì chứ Jeff?” Ed hỏi.
“Không.”
Vera Cruz… Vera Cruz… Southampton…Vera Cruz…
Nếu nó đã được chấp thuận thì nhất định là êm thấm rồi, Tom nghĩ vậy.
Họ chào tạm biệt Leonard – đằng nào thì cũng gần đến giờ đóng cửa rồi – và lên tắc-xi tới studio của Jeff. Tom cảm thấy cả hai người họ nhìn anh như thể anh là một người có phép thuật vậy: nó khiến Tom thấy thích thú nhưng theo một cách nào đó thì anh cũng không thích như vậy. Chắc họ nghĩ anh là một vị thánh, có khả năng cứu chữa cây chết chỉ bằng cách chạm vào nó, có thể chữa chứng đau đầu chỉ bằng một cái phẩy tay, có thể đi trên mặt nước. Nhưng Derwatt thì không thể làm vậy được, hoặc có thể là không muốn. Vậy nhưng giờ Tom là Derwatt.
“Tôi muốn gọi cho Cynthia,” Tom nói.
“Cô ấy làm việc đến bảy giờ. Văn phòng đấy kỳ cục lắm,” Jeff nói.
Tom gọi điện cho Air France trước và đặt chuyến bay về lúc một giờ chiều mai. Anh có thể lấy vé ở sân bay. Tom quyết định ở lại Luân Đôn vào sáng mai, phòng trường hợp có chuyện khó khăn phát sinh. Không thể để Derwatt trông như lại đang vội vã chạy trốn được.
Tom uống trà thêm đường và ngả người trên tràng kỷ của Jeff, đã bỏ áo khoác và cà vạt, nhưng vẫn đeo bộ râu phiền phức. “Ước gì tôi có thể khiến Cynthia đón nhận Bernard trở lại,” Tom đăm chiêu nói, như thể anh chính là Chúa trong một phút yếu đuối.
“Vì sao?” Ed hỏi.
“Tôi e là Bernard có thể hủy hoại chính mình. Tôi ước gì biết được anh ta đang ở đâu.”
“Ý anh là hủy hoại về mặt thể xác? Tự sát à?” Jeff hỏi. “Phải,” Tom nói. “Tôi đã bảo với các anh… tôi nghĩ vậy. Tôi không kể chuyện này cho Cynthia. Tôi nghĩ như thế không công bằng. Có khác gì tống tiền đâu – để bắt cô ấy chấp nhận anh ta trở lại. Và tôi chắc chắn là Bernard không thích như vậy.”
“Ý anh là anh ta sẽ tự sát ở đâu đó sao?” Jeff nói.
“Đúng, ý tôi là thế đấy.” Tom vốn không định kể về hình nộm trong nhà anh, nhưng giờ anh nghĩ sao lại không? Thỉnh thoảng sự thật, dù nguy hiểm đến đâu, cũng có thể chuyển thành lợi thế để tiết lộ một chuyện mới, quan trọng hơn. “Anh ta đã treo cổ bản thân trong hầm rượu nhà tôi – dùng hình nộm. Tôi nói anh ta treo cổ bản thân vì anh ta chỉ là một đống quần áo mà thôi. Anh ta đặt tên cho nó là ‘Bernard Tufts’. Bernard ngày xưa, kẻ vẽ tranh giả, các anh hiểu không. Mà cũng có thể là người thật. Trong đầu Bernard thì chúng loạn hết cả lên.”
“Trời! Anh ta loạn trí thật rồi nhỉ?” Ed nói, nhìn sang Jeff.
Cả Jeff và Ed đều trợn trừng mắt, Jeff thì có vẻ tính toán hơn. Chẳng lẽ phải đến giờ họ mới nhận ra rằng Bernard Tufts sẽ không vẽ thêm một bức Derwatt nào nữa à?
Tom nói, “Tôi đang phỏng đoán thôi. Không cần thiết phải rối lên trước khi chuyện đó xảy ra. Nhưng các anh thấy đấy…” Tom đứng dậy. Anh dợm nói, chuyện quan trọng là Bernard nghĩ anh ta đã giết chết tôi. Nhưng Tom lại băn khoăn liệu nó có quan trọng thật không? Nếu có thì quan trọng như thế nào? Tom nhận ra là anh thấy mừng vì không có nhà báo nào ở hiện trường để đăng tin ngày mai là “Derwatt đã trở lại”, vì nếu Bernard đọc được tin đấy trên báo, anh ta sẽ biết là Tom bằng cách nào đó đã thoát ra khỏi mộ, vẫn còn sống. Điều ấy, theo một nghĩa nào đó, có thể lại tốt cho Bernard, vì anh ta sẽ giảm khả năng tự sát nếu nghĩ là mình chưa giết được Tom Ripley. Mà thật sự thì nó có quan trọng trong trạng thái suy nghĩ rối bời của Bernard hiện giờ không? Cái gì là đúng mà cái gì là sai?
Sau bảy giờ, Tom gọi cho Cynthia theo số công ty Bayswater. “Cynthia – trước khi đi, tôi muốn nói – trong trường hợp tôi gặp lại Bernard, ở bất kỳ đâu đi nữa, tôi có thể nói cho anh ấy biết một chuyện nhỏ, đó là…”
“Đó là gì?” Cynthia hỏi, ngắn gọn, đầy vẻ phòng thủ, hoặc ít nhất là tự vệ, trước Tom.
“Là cô sẽ đồng ý gặp lại anh ấy. Ở Luân Đôn. Cô biết đấy, nếu tôi có thể nói một tin tích cực như thế cho anh ấy nghe thì tuyệt lắm. Anh ấy đang rất trầm cảm.”
“Nhưng tôi thấy việc gặp lại anh ấy không có nghĩa lý gì cả,” Cynthia nói.
Qua giọng cô ta, Tom nghe thấy tường thành bảo vệ các lâu đài, nhà thờ, tầng lớp trung lưu. Những tảng đá màu xám và be, không thể lay chuyển. Tác phong đứng đắn. “Trong bất kỳ hoàn cảnh nào cô cũng không muốn gặp lại anh ấy sao?”
“Tôi e là không. Tôi càng không dây dưa thì càng dễ dàng hơn. Đối với Bernard cũng vậy.”
Chấm hết. Lạnh lùng. Nhưng hành vi đó cũng thật nhỏ mọn, cực kỳ nhỏ mọn. Ít nhất thì Tom cũng hiểu tình thế hiện giờ. Một cô gái đã bị từ chối, phụ tình, vứt bỏ, chia tay – cách đây ba năm. Chính Bernard là người đã chủ động chia tay. Cứ để Bernard, trong trạng thái tốt nhất, cố gắng cứu vãn điều đó. “Được rồi, Cynthia.”
Tom tự hỏi liệu lòng kiêu hãnh của cô ta có sung sướng không khi biết Bernard sẽ lại tự treo cổ vì mình?
Jeff và Ed đã vào phòng ngủ của Jeff bàn chuyện và không hề nghe thấy cuộc đối thoại của anh, nhưng họ hỏi Tom Cynthia đã nói gì.
“Cô ta không muốn gặp lại Bernard nữa,” Tom nói.
Có vẻ cả Jeff và Ed đều không lường được hậu quả của chuyện này.
Tom nói, để chấm dứt vấn đề, “Tất nhiên, bản thân tôi chắc cũng sẽ không bao giờ gặp lại Bernard nữa”.