Đ
ã đến Pháp và khi máy bay hạ cánh, các chóp cây bắt đầu trông như những chấm màu xanh sẫm và nâu được thêu trên thảm, hoặc như những con ếch trang trí lộng lẫy trên áo choàng ngủ của Tom ở nhà. Anh ngồi trong chiếc áo mưa mới xấu xí của mình. Ở sân bay Orly, đội kiểm soát hộ chiếu liếc nhìn anh rồi nhìn tấm ảnh trong hộ chiếu Mackay của anh, nhưng không đóng dấu gì hết – họ cũng không hề đóng dấu khi anh rời khỏi sân bay Orly tới Luân Đôn trước đó. Có vẻ chỉ có giám sát viên ở Luân Đôn đóng dấu mà thôi. Tom đi qua hàng “không có gì cần khai báo” và nhảy lên một chiếc tắc-xi về nhà.
Anh về đến Belle Ombre trước ba giờ chiều. Trong tắc-xi, anh đổi ngôi lại bình thường và vắt áo mưa trên tay.
Heloise có ở nhà. Lò sưởi đang chạy. Đồ gỗ và sàn nhà sáng loáng lên với sáp. Bà Annette mang túi của anh lên gác. Sau đó Tom và Heloise hôn nhau.
“Anh đã làm gì ở Hy Lạp thế?” Cô hỏi có phần lo lắng. “Rồi lại sang cả Luân Đôn nữa?”
“Anh đi tìm tòi thôi,” Tom nói, mỉm cười.
“Tìm gã điên đó. Anh có gặp anh ta không? Đầu anh thế nào rồi?” Cô xoay vai anh lại.
Nó chỉ còn hơi đau. Tom thấy hết sức nhẹ nhõm khi Bernard không xuất hiện và khiến Heloise hoảng hốt. “Người phụ nữ Mỹ ấy có gọi điện không?”
“À, có. Bà Murchison. Bà ta biết một ít tiếng Pháp, nhưng buồn cười lắm. Sáng nay bà ta đã gọi điện từ Luân Đôn. Bà ta sẽ đến sân bay Orly lúc ba giờ chiều nay và muốn gặp anh. Chậc, chết tiệt thật, mấy người này là ai?”
Tom nhìn đồng hồ đeo tay của mình. Máy bay của bà Murchison chắc sẽ hạ cánh trong vòng mười phút nữa.
“Anh yêu, anh có muốn uống trà không?” Heloise dẫn anh tới chỗ sô-pha vàng. “Anh có gặp lại cái gã Bernard đó ở đâu không?”
“Không. Anh muốn rửa tay. Chờ một phút nhé.” Tom đi vào phòng vệ sinh tầng một và rửa tay cùng mặt. Anh hy vọng bà Murchison sẽ không muốn đến Belle Ombre mà chỉ cần gặp anh ở Paris là được rồi, mặc dù Tom ghét ý nghĩ phải tới Paris hôm nay.
Khi Tom vào phòng khách thì bà Annette cũng đang đi xuống nhà. “Cái răng nổi tiếng của bà thế nào rồi? Tôi hy vọng là đã đỡ hơn rồi?”
“Đỡ rồi thưa anh Tome. Sáng nay tôi đã tới khám chỗ vị nha sĩ ở Fontainebleau và ông ấy đã lấy tủy ra. Ông ấy thật sự lấy tủy ra đấy. Tôi phải quay lại vào thứ Hai.”
“Ước gì tất cả chúng ta đều có thể lấy tủy ra! Lấy toàn bộ ra! Giờ bà có thể tin chắc là sẽ không còn đau đớn nữa!” Tom hầu như không ý thức được mình đang nói gì. Anh có nên gọi cho Webster không nhỉ? Tom đã cảm giác là tốt hơn không nên gọi cho anh ta trước khi đi vì như thế có vẻ anh đang quá nghe lệnh cảnh sát. Một người vô tội chẳng thèm gọi điện làm gì, đó là lập luận của Tom.
Anh và Heloise uống trà.
“Noelle muốn biết chúng ta có thể tới dự một bữa tiệc vào tối thứ Ba không,” Heloise nói. “Hôm đó là sinh nhật của cậu ấy.”
Noelle Hassler, bạn thân của Heloise ở Paris, tổ chức những bữa tiệc vui nhộn. Nhưng Tom đang nghĩ đến Salzburg, nghĩ đến chuyện tới đó ngay lập tức vì anh đã quyết định là Bernard có thể chọn Salzburg làm điểm đến. Nhà của Mozart, một nghệ sĩ đã chết trẻ khác. “Em yêu, em phải đi chứ. Anh thì không chắc mình sẽ ở đây.”
“Vì sao?”
“Vì… giờ có thể anh phải tới Salzburg.”
“Ở Áo à? Không phải lại đi tìm gã điên đó chứ! Chẳng mấy nữa anh sẽ chạy tới tận Trung Quốc mất!”
Tom lo lắng liếc nhìn điện thoại. Bà Murchison chuẩn bị gọi tới. Khi nào? “Em đã cho bà Murchison một số điện thoại ở Paris để bà ta có thể gọi cho anh à?”
“Đúng thế,” Heloise nói. “Một số tự bịa.” Cô vẫn đang dùng tiếng Pháp và dần cáu kỉnh hơn với anh.
Tom tự hỏi anh dám giải thích bao nhiêu cho Heloise đây? “Và em bảo bà ta là anh sẽ về nhà – khi nào?”
“Em nói là em không biết.”
Điện thoại reo. Nếu là bà Murchison thì bà ta đang gọi từ sân bay Orly.
Tom đứng dậy. “Chuyện quan trọng phải nhớ,” anh vội vã nói bằng tiếng Anh vì bà Annette đang tiến vào, “là anh không hề đến Luân Đôn. Cực kỳ quan trọng đấy, em yêu. Anh chỉ ở Paris thôi. Nếu chúng ta phải gặp bà Murchison thì đừng nhắc gì đến Luân Đôn nhé”.
“Bà ta sẽ tới đây à?”
“Anh hy vọng là không.” Tom nhấc điện thoại lên. “Xin chào… Vâng… Chào bà, bà Murchison.” Bà ta muốn đến gặp anh. “Tất nhiên, như vậy được chứ, nhưng tôi đến Paris thì có tiện cho bà hơn không?... Phải, cũng khá xa, xa hơn từ sân bay Orly đến Paris…” Anh chẳng may mắn chút nào. Anh có thể khiến bà ta chùn bước bằng cách chỉ đường thật rắc rối, nhưng anh cũng không muốn khiến người đàn bà bất hạnh ấy gặp thêm bất tiện nào. “Vậy cách dễ nhất là đi tắc-xi.” Tom chỉ đường cho bà ta tới nhà anh.
Tom cố giải thích cho Heloise hiểu. Bà Murchison sẽ đến đây sau một tiếng nữa và muốn nói chuyện với anh về chồng bà ta. Bà Annette đã rời khỏi phòng nên Tom có thể nói chuyện với Heloise bằng tiếng Pháp, dù bà Annette có nghe lỏm đi nữa thì anh cũng không quan tâm. Trước khi bà Murchison gọi điện, Tom đã chợt nghĩ hay là kể cho Heloise lý do anh tới Luân Đôn, giải thích cho cô biết là anh đã hai lần đóng giả làm Derwatt, người họa sĩ đã chết. Nhưng thời điểm này không phải là lúc thích hợp để nhồi từng ấy thông tin vào đầu cô. Nếu họ thành công vượt qua chuyến thăm của bà Murchison thì Tom cũng chẳng dám đòi hỏi nhiều hơn từ Heloise.
“Nhưng có chuyện gì đã xảy ra với chồng bà ta thế?” Heloise hỏi.
“Anh cũng chịu, em yêu. Nhưng bà ta đã tới Pháp và theo lẽ tự nhiên bà ta muốn nói chuyện với…” Tom không muốn nói là người cuối cùng đã gặp chồng bà ta. “Bà ta muốn xem nhà chúng ta vì đây là nơi cuối cùng chồng bà ta đến. Anh đã đưa ông ta đến sân bay Orly từ đây.”
Heloise đứng dậy và cơ thể cô thể hiện sự nóng nảy. Nhưng cô không ngu ngốc đến mức làm loạn lên. Cô sẽ không tỏ ra không thể kiểm soát hay vô lý. Chuyện đó sẽ đến sau.
“Anh biết em định nói gì. Em không muốn bà ta ở lại đây đến tối. Được thôi. Bà ta sẽ không được mời ăn tối. Chúng ta có thể nói là chúng ta có hẹn. Nhưng anh buộc phải mời bà ta uống trà hay rượu hoặc cả hai. Anh tính – bà ta sẽ không ở đây quá một tiếng đồng hồ và anh sẽ xử sự lịch sự. Và biết điều.”
Heloise nhượng bộ.
Tom về phòng mình trên gác. Bà Annette đã dọn hết đồ trong va-li của anh ra và cất va-li đi, nhưng có vài thứ không ở đúng chỗ thường ngày của chúng, nên Tom trả chúng về vị trí vốn có khi anh ở Belle Ombre vài tuần liên tục. Anh tắm táp rồi mặc quần flannel màu xám, áo sơ mi và áo len, và anh lấy một chiếc áo khoác bằng vải tweed ra khỏi tủ đồ, phòng trường hợp bà Murchison có ý muốn đi dạo trên bãi cỏ.
Bà Murchison đến nhà.
Tom đi ra cửa trước để đón bà ta và bảo đảm tắc-xi thu tiền thích đáng. Bà Murchison có tiền Pháp và típ quá tay cho tài xế nhưng Tom mặc kệ.
“Đây là vợ tôi, Heloise,” Tom nói. “Đây là bà Murchison – đến từ Mỹ.”
“ Chào cô.”
“Chào bà.” Heloise nói.
Bà Murchison nhận lời uống một tách trà. “Tôi mong hai người lượng thứ vì đã tự ý tới đây đột ngột như vậy,” bà ta nói với Tom và Heloise, “nhưng đây là một vấn đề quan trọng… và tôi muốn gặp hai người ngay khi có thể”.
Giờ tất cả đã ngồi xuống, bà Murchison ngồi trên sô-pha vàng, Tom ngồi trên một cái ghế lưng thẳng, Heloise cũng vậy. Cô ra cái vẻ không mấy hứng thú với chuyện này nhưng vì lịch sự nên mới ở lại, rất xuất sắc. Nhưng Tom biết là cô khá hứng thú.
“Chồng tôi…”
“Tom, ông ấy đã bảo tôi hãy gọi ông ấy như vậy,” Tom nói, mỉm cười. Anh đứng dậy. “Ông ấy đã xem hai bức tranh này. Ở bên phải tôi là bức ‘Người Ngồi Trong Ghế’. Sau lưng bà là bức ‘Đôi Ghế Đỏ’. Đó là bức tranh cũ.” Tom mạnh dạn nói. Kệ cha sự đúng mực, đạo đức, tử tế, sự thật, luật pháp, hay thậm chí là số mệnh, việc thành hay bại quyết định tương lai của anh. Hoặc anh thành công ngay bây giờ, hoặc không. Nếu bà Murchison muốn đi tham quan nhà anh thì bà ta có thể xuống cả tầng hầm nếu muốn, Tom cũng chẳng quan tâm. Anh chờ bà Murchison đặt câu hỏi, có thể là chồng bà ta nghĩ gì về tính xác thực của các bức tranh này.
“Anh đã mua chúng từ Buckmaster à?” Bà ta hỏi.
“Phải, cả hai bức.” Tom liếc nhìn Heloise, cô đang hút một điếu thuốc loại Gitane Mais mà rất hiếm khi cô hút. “Vợ tôi hiểu tiếng Anh,” Tom nói.
“Cô có ở đây khi chồng tôi đến chơi không?”
“Không, lúc đó tôi ở Hy Lạp,” Heloise đáp lại. “Tôi không hề gặp chồng bà.”
Bà Murchison đứng dậy và nhìn hai bức tranh, Tom bật thêm hai cây đèn ngoài những bóng đèn sẵn có để bà ta có thể nhìn rõ chúng hơn.
“Tôi thích nhất bức ‘Người Ngồi Trong Ghế’,” anh nói. “Đó là lý do nó được treo trên lò sưởi.”
Bà Murchison có vẻ cũng thích nó.
Tom chờ bà ta nói vài chuyện liên quan đến lý thuyết của chồng bà ta về việc Derwatt bị giả mạo tranh. Bà ta không nói gì. Bà ta cũng không bình luận gì về màu oải hương hay màu tím ở cả hai bức tranh. Bà Murchison cũng chỉ hỏi những câu tương tự thanh tra Webster, như là chồng bà ta có khỏe khi ra về không, ông ta có hẹn với ai nữa không.
“Ông ấy có vẻ rất phấn khởi,” Tom nói, “và ông ấy cũng không đề cập đến một cuộc hẹn nào, như tôi đã nói với thanh tra Webster. Điều kỳ lạ là bức tranh của chồng bà bị trộm mất. Ông ấy đã mang nó đến sân bay Orly, được bọc cẩn thận”.
“Phải, tôi biết.” Bà Murchison đang hút một điếu Chesterfield của mình. “Bức tranh vẫn chưa được tìm thấy. Cả chồng tôi lẫn hộ chiếu của ông ấy cũng chung tình trạng.” Bà ta mỉm cười. Bà ta có một khuôn mặt dễ chịu, tử tế, hơi đầy đặn, giúp đẩy lùi các nếp nhăn tuổi tác.
Tom rót thêm một tách trà cho bà ta. Bà Murchison đang nhìn Heloise. Đánh giá? Tự hỏi cô nghĩ sao về toàn bộ chuyện này? Tự hỏi cô biết bao nhiêu? Tự hỏi liệu ở đây có gì đáng để biết không? Hay cô sẽ về phe nào nếu chồng mình có tội?
“Thanh tra Webster bảo tôi rằng anh là bạn của Dickie Greenleaf, người đã bị giết ở Ý,” bà Murchison nói.
“Đúng thế,” Tom nói. “Nhưng anh ấy không bị giết, đó là một vụ tự tử. Lúc ấy tôi đã quen anh ấy được khoảng năm tháng – chắc phải sáu tháng.”
“Nếu anh ta không tự tử – tôi nghĩ thanh tra Webster có vẻ hoài nghi điều đó – vậy ai có thể giết anh ta? Và vì lí do gì?” Bà Murchison hỏi. “Anh có suy nghĩ gì về chuyện này không?”
Tom đứng dậy và anh đứng vững hai chân trên sàn, nhấp trà. “Tôi chẳng có suy nghĩ gì về vấn đề đó hết. Dickie đã tự tử. Tôi không nghĩ là anh ấy tìm được lối đi của mình – với tư cách họa sĩ, và chắc chắn là không thuộc về công ty của cha anh ấy. Đóng tàu hay đóng thuyền cũng thế. Dickie có vô số bạn bè, nhưng không có người bạn nào ác độc cả.” Tom dừng lại, và tất cả mọi người ngừng theo anh. “Dickie chẳng có lý do gì để có kẻ thù hết,” anh nói thêm.
“Chồng tôi cũng không – trừ phi có khả năng tranh của Derwatt thật sự đang bị làm giả.”
“Chuyện đó thì tôi chịu không biết, khi sống ở đây như thế này.”
“Hẳn là có một phi vụ lừa đảo nào đó.” Bà ta nhìn sang Heloise. “Tôi hy vọng cô hiểu những gì chúng tôi đang bàn, phu nhân Ripley.”
Tom chuyển ngữ cho Heloise bằng tiếng Pháp, “Bà Murchison băn khoăn không biết có băng lừa đảo nào… liên quan đến tranh vẽ của Derwatt không”.
“Em hiểu,” Heloise nói.
Cô thấy hồ nghi vụ Dickie, Tom biết. Nhưng anh cũng biết là mình có thể dựa vào cô. Kỳ cục thay bản thân Heloise cũng có hơi hướm lừa đảo. Dẫu sao đi nữa, trước mặt một người lạ, cô sẽ không tỏ ra hoài nghi những gì anh nói.
“Bà có muốn tham quan tầng trên không?” Tom hỏi bà Murchison. “Hoặc khu đất trước khi trời tối?”
Bà ta nhận lời.
Bà ta và Tom đi lên tầng. Bà Murchison mặc một chiếc váy len màu xám nhạt. Bà ta rắn rỏi – có thể bà ta cưỡi ngựa hoặc chơi golf – dù không ai dám nói bà ta béo. Người ta không bao giờ bảo những người phụ nữ chơi thể thao vạm vỡ là béo, dù không béo thì họ còn là gì được nữa?
Heloise đã từ chối đi cùng họ. Tom dẫn bà Murchison vào phòng ngủ dành cho khách của anh, mở cửa thật rộng và bật đèn lên. Rồi với phong thái thoải mái và cởi mở, anh chỉ cho bà ta xem nốt các phòng trên gác, vào cả phòng của Heloise, cửa phòng được anh mở ra nhưng không bật đèn vì có vẻ bà Murchison không mấy hứng thú xem.
“Cảm ơn anh,” bà Murchison nói, và họ đi xuống nhà.
Tom thấy thương tiếc bà ta. Anh thấy có lỗi vì đã giết chồng bà ta. Nhưng, anh tự nhủ, anh không được phép trách bản thân vì chuyện đó vào lúc này: nếu làm vậy thì anh chẳng khác gì Bernard, người muốn thú nhận tất cả mọi chuyện dù ảnh hưởng đến nhiều người khác. “Bà có gặp Derwatt ở Luân Đôn không?”
“Có, tôi đã gặp anh ta,” bà Murchison nói, lại ngồi xuống sô-pha, nhưng giờ chỉ ngồi ở phía mép.
“Anh ta thế nào? Tôi suýt nữa đã được gặp anh ta hôm khai mạc triển lãm.”
“À, anh ta có râu… Cũng dễ chịu nhưng không nói nhiều,” bà ta kết thúc, không có hứng thú với Derwatt. “Anh ta nói rằng không nghĩ tranh của mình đang bị làm giả… và anh ta cũng đã nói vậy với Tommy.”
“Phải, tôi nhớ chồng bà cũng đã kể với tôi như vậy. Bà tin lời Derwatt chứ?”
“Tôi nghĩ vậy. Derwatt có vẻ thành thật. Người ta còn có thể nói gì được nữa?” Bà ta ngả người dựa vào sô-pha.
Tom tiến lên một bước. “Thêm trà? Hay là scotch?”
“ Tôi nghĩ mình muốn uống scotch, cảm ơn anh.”
Tom đi vào bếp lấy đá. Heloise vào cùng và giúp anh. “Vụ Dickie là sao?” Cô hỏi.
“Không có gì đâu,” anh nói. “Anh sẽ kể cho em nếu có chuyện gì đó. Bà ta biết anh là bạn của Dickie thôi. Em có muốn uống vang trắng không?”
“Có.”
Họ mang đá và cốc vào. Bà Murchison muốn gọi tắc-xi. Tới Melun. Bà ta xin lỗi vì đến giờ mới nhờ gọi tắc-xi nhưng bà ta không biết cuộc gặp sẽ kéo dài bao lâu.
“Tôi có thể chở bà tới Melun,” Tom nói, “nếu bà muốn đi tàu tới Paris”.
“Không, tôi muốn tới Melun để hỏi chuyện cảnh sát ở đó. Tôi đã gọi cho họ từ sân bay Orly.”
“Vậy tôi sẽ đưa bà đi,” Tom nói. “Tiếng Pháp của bà thế nào? Tiếng của tôi không hoàn hảo, nhưng…”
“À, tôi nghĩ mình có thể xoay xở được. Cảm ơn anh nhiều.” Bà ta khẽ cười.
Tom đoán là bà ta muốn nói chuyện với cảnh sát mà không có mặt anh.
“Còn ai ở nhà này khi chồng tôi ở đây nữa không?” Bà Murchison hỏi.
“Chỉ có quản gia của tôi, bà Annette thôi. Bà ấy đâu rồi nhỉ, Heloise?”
Có thể bà ta đang ở trong phòng, mà cũng có thể đã ra ngoài mua nốt đồ vào phút chót, Heloise nghĩ vậy và Tom tới trước phòng bà Annette và gõ cửa. Bà ta đang khâu vá thứ gì đó. Tom hỏi bà ta có thể ra ngoài một lát để gặp bà Murchison không.
Gần như ngay lập tức, bà Annette vào phòng khách và mặt bà ta đầy vẻ hứng thú vì bà Murchison là vợ của người đàn ông đang mất tích. “Lần cuối cùng tôi nhìn thấy ông ấy,” bà Annette nói, “quý ngài ấy đã ăn trưa xong rồi đi cùng anh Tome”.
Hiển nhiên là bà Annette đã quên, Tom thầm nghĩ, việc bà ta không tận mắt nhìn thấy ông Murchison bước ra khỏi nhà.
“Anh có muốn gì không, anh Tome?” Bà Annette hỏi.
Nhưng họ không cần gì hết và rõ ràng là bà Murchison cũng không còn câu hỏi nào nữa. Bà Annette có vẻ miễn cưỡng rời khỏi phòng.
“Các vị nghĩ chuyện gì đã xảy ra với chồng tôi?” Bà Murchison hỏi, nhìn Heloise rồi nhìn sang Tom.
“Nếu để tôi đoán,” Tom nói, “thì hẳn là có người biết ông ấy mang theo một bức tranh giá trị. Nó cũng không quá giá trị, nhưng vẫn là một bức Derwatt. Tôi đoán chắc ông ấy đã nói chuyện với vài người ở Luân Đôn về nó. Nếu có người cố gắng bắt cóc ông ấy cùng bức tranh thì rất có khả năng họ đã đi quá xa và giết ông ấy. Rồi họ sẽ phải giấu xác ông ấy ở đâu đó. Hoặc không thì… ông ấy vẫn còn sống và đang bị giam giữ ở đâu đó”.
“Nhưng như thế thì rất có khả năng chồng tôi đã nghĩ đúng về chuyện bức ‘Đồng Hồ’ là tranh giả. Như anh nói, bức tranh đó không giá trị lắm, có thể bởi vì nó không quá lớn. Nhưng có thể họ chỉ đang cố chôn vùi ý tưởng tranh của Derwatt đang bị làm giả.”
“Nhưng tôi không tin tranh của chồng bà là tranh giả. Và ông ấy đã bắt đầu hoài nghi khi ra về. Như tôi đã nói với Webster, tôi không nghĩ Tommy vẫn còn ý định cho một chuyên gia ở Luân Đôn xem bức ‘Đồng Hồ’ nữa. Như tôi nhớ thì tôi không hỏi ông ấy. Nhưng tôi nghĩ là ông ấy đã xem xét lại sau khi thấy hai bức tranh của tôi. Có thể tôi đã sai.”
Im lặng. Bà Murchison đang cân nhắc xem tiếp theo nên nói hay hỏi gì. Điều duy nhất quan trọng là những người xung quanh Buckmaster Gallery, Tom đoán vậy. Và làm sao bà ta có thể hỏi anh về họ chứ?
Tắc-xi đến.
“Cảm ơn anh, anh Ripley,” bà Murchison nói. “Cả cô nữa. Có thể tôi phải gặp lại hai vị nếu…”
“Lúc nào cũng được,” Tom nói. Anh tiễn bà ta ra tắc-xi. Khi quay vào phòng khách, Tom chậm chạp tiến về phía sô-pha và ngồi phịch xuống. Cảnh sát Melun cũng không thể cho bà Murchison biết thêm tin gì, không thì chắc chắn đến giờ họ đã báo với anh rồi, Tom nghĩ. Heloise nói rằng họ không hề gọi điện trong lúc anh đi vắng. Nếu cảnh sát tìm thấy xác ông Murchison trong sông Loing hoặc bất kể nơi nào…
“Anh yêu, anh lo lắng quá đấy,” Heloise nói. “Uống một cốc rượu đi.”
“Có thể,” Tom nói, rót rượu ra. Không có bài báo nào trên báo Luân Đôn mà Tom đọc trên máy bay viết về việc Derwatt lại xuất hiện ở Luân Đôn. Rõ ràng người Anh không thấy chuyện đó quan trọng. Tom mừng vì anh không muốn Bernard, bất kể anh ta đang ở đâu, biết chuyện bằng cách nào đó anh đã trèo được ra khỏi mộ. Vì sao Tom lại không muốn Bernard biết chuyện này thì chính anh cũng còn mông lung. Nhưng hẳn là nó có liên quan đến cảm giác của Tom về số mệnh của Bernard.
“Anh biết không, Tome, nhà Berthelin muốn chúng ta đến thưởng rượu tối nay lúc bảy giờ đấy. Nó sẽ có ích cho anh. Em đã bảo là có thể anh có nhà tối nay.”
Nhà Berthelin sống ở một thị trấn cách đây bảy cây số. “Anh có thể…” Điện thoại ngắt lời Tom. Anh ra hiệu cho Heloise nghe máy.
“Em có nên báo cho ai việc anh đang ở đây không?”
Anh mỉm cười, hài lòng trước sự quan tâm của cô. “Có. Và biết đâu lại là Noelle gọi hỏi ý kiến của em xem nên mặc gì hôm thứ Ba.”
“Đúng vậy. Có khi thế. Xin chào.” Cô mỉm cười với Tom. “Chờ chút.” Cô đưa điện thoại cho anh. “Một người Anh cố nói tiếng Pháp.”
“Xin chào, Tom, Jeff đây. Anh khỏe không?”
“ Vẫn khỏe.”
Jeff thì không được như vậy. Thói lắp bắp của anh ta đã quay trở lại, anh ta nói nhỏ và hấp tấp. Tom phải yêu cầu anh ta nói to lên.
“Tôi vừa nói là Webster lại hỏi thăm Derwatt, xem anh ta đang ở đâu, anh ta đã đi chưa.”
“ Anh đã nói gì với anh ta?”
“Tôi bảo chúng tôi không biết anh ta đã đi hay chưa.”
“Anh có thể trả lời Webster là… anh ta có vẻ trầm cảm và có thể muốn ở riêng một mình một thời gian.”
“Tôi nghĩ có thể Webster muốn gặp lại anh đấy. Anh ta đang bay qua đó để gặp bà Murchison. Đó là lý do tôi gọi điện.”
Tom thở dài. “Khi nào?”
“Có thể là hôm nay. Tôi không rõ anh ta định làm gì…” Khi họ dập máy, Tom cảm thấy chết sững, và cả giận dữ nữa, hoặc bực bội. Lại phải đối mặt Webster vì cái gì chứ? Tom thà ra khỏi nhà còn hơn.
“Anh yêu, chuyện gì thế?”
“Anh không thể tới nhà Berthelin được rồi,” Tom nói và cười lớn. Nhà Berthelin là rắc rối bé nhỏ nhất của anh. “Em yêu, tối nay anh phải tới Paris rồi mai bay tới Salzburg. Có thể là đến Salzburg ngay tối nay nếu có chuyến bay. Vị thanh tra người Anh Webster có thể gọi điện tới chiều nay. Em phải trả lời anh ta là anh lên Paris công tác, nói chuyện với kế toán của anh chẳng hạn, gì cũng được. Em không biết anh sẽ ở đâu. Một khách sạn nào đó nhưng em cũng không rõ là khách sạn nào.”
“Nhưng anh đang chạy trốn cái gì vậy, Tome?”
Tom thở dốc. Chạy trốn sao? Chạy trốn cái gì? Chạy trốn đi đâu? “Anh không biết.” Anh đã bắt đầu đổ mồ hôi. Anh muốn tắm thêm một lần nữa nhưng lại sợ phí thời gian. “Bảo với bà Annette là anh phải phóng tới Paris nhé.”
Tom lên gác và lấy va-li ra khỏi tủ. Anh sẽ lại mặc chiếc áo mưa mới xấu xí, chải lại ngôi tóc, và trở thành Robert Mackay một lần nữa. Heloise vào phòng để giúp anh.
“Anh muốn tắm,” Tom nói và cùng lúc ấy nghe tiếng Heloise bật vòi nước trong phòng tắm của anh. Tom lột đồ ra và bước vào dưới vòi hoa sen, nước âm ấm, vừa vặn.
“Em có thể đi theo anh không?”
Anh ước gì cô có thể đi cùng! “Em yêu, vấn đề này liên quan tới hộ chiếu. Anh không thể để bà Ripley vượt qua biên giới Pháp-Đức hoặc Áo với Robert Mackay được. Mackay, con heo đó!” Tom ra khỏi vòi sen.
“Thanh tra Anh đến đây vì ông Murchison à? Anh đã giết ông ta à, Tome?” Heloise nhìn anh, cau mày, lo lắng, nhưng còn lâu mới gọi là kích động, Tom thấy vậy.
Tom nhận ra cô đã biết về Dickie. Heloise chưa bao giờ nói nhiều về nó nhưng cô biết. Anh có thể kể tất tần tật cho cô, Tom nghĩ, vì biết đâu cô lại có ích, và dẫu sao đi nữa thì tình thế hiện thời cũng đã rơi vào trạng thái tuyệt vọng đến mức nếu anh thất bại, hoặc vấp ngã ở bất kỳ đâu, mọi chuyện sẽ tiêu tùng hết cả, kể cả cuộc hôn nhân của anh. Anh chợt nhận ra là sao anh lại không thể đi tới Salzburg dưới tư cách Tom Ripley chứ? Đưa Heloise theo? Dù rất muốn làm vậy, anh chưa biết mình phải làm gì ở Salzburg, hay từ đó dấu vết sẽ dẫn tới đâu. Dẫu vậy, anh nên mang theo cả hai quyển hộ chiếu, của anh lẫn của Mackay.
“Anh đã giết ông ta phải không, Tome? Ở đây à?”
“ Anh phải giết ông ta để cứu rất nhiều người khác.”
“ Nhóm người của Derwatt à? Vì sao?” Cô bắt đầu dùng tiếng Pháp. “Sao những người đó lại quan trọng đến thế?”
“Derwatt đã chết… nhiều năm rồi,” Tom nói. “Ông Murchison định… định lật tẩy chuyện đó.”
“ Anh ta chết rồi à?”
“Phải, và anh đã đóng vai anh ta hai lần ở Luân Đôn,” Tom nói. Tiếng Pháp nghe thật trong sáng và vui vẻ: anh đã “đóng vai” Derwatt hai lần ở Luân Đôn. “Giờ họ đang tìm Derwatt – chắc hiện giờ thì chưa tìm kiếm đến mức tuyệt vọng. Nhưng chưa có gì ổn định cả.”
“Không phải anh cũng giả tranh của anh ta đấy chứ?”
Tom cười. “Heloise, em đánh giá anh cao thế. Chính Bernard là kẻ điên đã vẽ tranh giả đấy. Anh ta muốn ngừng lại. Ôi, chuyện này quá phức tạp để giải thích.”
“Sao anh lại phải tìm kiếm gã Bernard điên đó chứ? Ôi Tome, hãy tránh xa chuyện này ra…”
Tom không còn nghe được những gì cô nói. Đột nhiên anh hiểu vì sao mình phải tìm bằng được Bernard. Đột nhiên trong đầu anh nảy ra một viễn cảnh. Tom cầm va-li lên. “Chào tạm biệt, thiên thần của anh. Em có thể lái xe chở anh tới Melun không? Và tránh đồn cảnh sát ra nhé?”
Xuống dưới nhà, bà Annette đang ở trong bếp và Tom vội vàng chào tạm biệt bà ta từ sảnh trước, nghiêng đầu để bà ta khó lòng nhận ra mái tóc rẽ ngôi khác lạ của anh. Chiếc áo mưa xấu xí, nhưng có lẽ lại đem đến vận may, vắt trên tay anh.
Tom hứa sẽ giữ liên lạc với Heloise, dù anh nói sẽ ký bằng một cái tên khác trong mọi bức điện tín mà mình gửi. Họ hôn tạm biệt trong xe Alfa Romeo. Và Tom rời khỏi vòng tay an ủi của cô, lên khoang hạng nhất trên chuyến bay tới Paris.
Đến Paris, anh khám phá ra rằng chẳng có đường bay thẳng tới Salzburg, thậm chí chỉ có một chuyến bay ngày mà người ta phải đổi máy bay ở Frankfurt rồi mới tới Salzburg. Chuyến bay tới Frankfurt cất cánh lúc 2 giờ 40 phút chiều hàng ngày. Tom ở lại một khách sạn không xa ga Lyon. Ngay trước nửa đêm, anh mạo hiểm gọi điện cho Heloise. Anh không chịu được suy nghĩ cô đang một mình ở nhà, có thể phải đối mặt với Webster mà lại không biết anh ở đâu. Cô đã nói là cô cũng sẽ không tới nhà Berthelin.
“Em yêu, xin chào. Nếu Webster ở đó thì hãy nói anh đã gọi nhầm số và dập máy nhé,” Tom nói.
“Thưa ngài, tôi nghĩ ngài đã gọi nhầm số rồi,” giọng Heloise vang lên và điện thoại bị cúp.
Tinh thần Tom chìm xuống, đầu gối anh khuỵu xuống, và anh ngồi xuống chiếc giường trong phòng khách sạn. Anh tự trách mình vì đã gọi cho cô. Hành động một mình luôn luôn tốt hơn. Chắc chắn Webster sẽ nhận ra, hoặc nghi ngờ, chính anh vừa gọi điện.
Heloise hiện đang phải trải qua tình cảnh nào? Liệu anh kể cho cô sự thật thì có tốt hơn?