V
. W. nói rằng bà có một vấn đề trước mắt cần giải quyết. Bà gắn bó với gia đình và bà phần nào có ý muốn chiếm hữu – không phải chiếm hữu cuộc đời và suy nghĩ của các thành viên – mà là sự bầu bạn của họ. Bà giải thích rằng mình đang tìm kiếm sự tự do của thực tại. Các bậc thầy tôn giáo nói rằng bà phải thoát ly mọi mối ràng buộc với gia đình. Bà đã và đang cố gắng tách khỏi gia đình, nhưng nhận ra đó là điều vô cùng khó khăn. Chẳng phải bà cần thoát ly hoàn toàn để tìm thấy Thượng đế sao?
Chúng tôi đã hỏi tại sao bà lại cố gắng thoát ly gia đình. Có phải vì các bậc thầy dạy như vậy không? Có phải bà tìm cách thoát ly để có được sự tưởng thưởng như đã hứa hẹn? Lý do nào khiến bà cố gắng để không bị ràng buộc? Có phải bà bị uy quyền của người khác thuyết phục không?
Bà trả lời rằng bà nghĩ đúng là như vậy.
Vậy thì bà không tìm cách thoát ly vì hiểu biết, mà uy quyền của truyền thống đã buộc bà làm một hành động mà bà không có sự quan tâm cơ bản. Bà quan tâm đến kết quả nhiều hơn là phương tiện. Không phải phương tiện tạo ra cứu cánh hay sao? Nếu bà không tự mình hiểu được tầm quan trọng của việc thoát ly thì nó có giá trị gì? Chắc chắn là không có một giá trị nào cả. Nếu bà đang tuân theo một cách mù quáng, thì sự mù quáng sẽ dẫn dắt bà.
Bà trả lời rằng không phải như vậy. Bà không làm theo một cách mù quáng mà bà cảm thấy mình phải được thoát ly. Người thầy hiện tại của bà cứ khăng khăng chuyện này, nhưng bà không biết nó còn ý nghĩa sâu xa hơn nào không. Sau một lúc suy nghĩ, bà tiếp tục: “Đúng vậy. Tôi cho rằng tôi phần nào đã tuân theo một cách mù quáng”.
Tại sao bà cảm thấy mình phải thoát ly khỏi gia đình? Lý do nào khiến bà gắn bó với gia đình? Chẳng phải vì bà cảm thấy cô đơn kinh khủng trong một thế giới kỳ lạ và bơ vơ sao?
“Đúng là vậy. Tôi đã nghĩ mình gắn bó vì một thứ tinh thần có trong tất cả chúng tôi, nhưng tôi hiểu tại sao tôi gắn bó.”
Bà cảm thấy rằng gia đình hiểu bà hơn những người khác, rằng bà có thể là chính mình khi ở với họ mà không có sự đối chọi sâu sắc, không có sự giả tạo và những nỗ lực vô ích của nó. Bà gắn bó với gia đình bởi vì bà cần họ. Và bà gọi nhu cầu này là hạnh phúc.
“Đúng, nhu cầu này xuất hiện do sự bất toàn của chúng ta.”
Chúng tôi mạn phép chỉ thẳng ra rằng bà chỉ đơn thuần trích dẫn những gì chúng tôi đã nói, song điều đó không dẫn chúng ta tới chỗ hiểu được sự gắn bó. Việc cần đến người khác là có thật và chúng ta bám chặt vào nó. Chúng ta bị trói buộc với nỗi sợ hãi đầy đau đớn. Tại sao lại có nhu cầu này? Không phải do tình trạng trống rỗng, nghèo nàn, bất toàn, cô đơn, và bà cố gắng lấp đầy sự hiu quạnh ấy bằng gia đình mình hay sao? Để lấp đầy sự trống rỗng đau đớn đó, bà cần gia đình, vì vậy bà gắn bó với gia đình. Nếu không có gia đình thì bà sẽ cố gắng lấp đầy nó bằng thứ gì khác, phải vậy không?
“Phải, tôi cho là vậy.”
Vậy, lúc đó vấn đề của bà không phải là làm sao để thoát ly gia đình, mà là tìm thứ gì để có thể khỏa lấp. Bà đang tìm kiếm phương tiện để trốn thoát, và bà muốn tìm phương tiện khỏa lấp lâu bền. Bà cố gắng khỏa lấp sự cô đơn bằng gia đình, người khác thì bằng hoạt động, người khác nữa thì bằng những trò tiêu khiển, có người thì dựa vào sự nghiện ngập, và cũng có người lấp đầy bằng kiến thức, bằng ý niệm về Thượng đế hoặc sự giải thoát.
“Nhưng không có cái gọi là ân sủng của Thượng đế hay sao? Điều đó không thể lấp đầy tình trạng trống rỗng ư?”
Không thể được, chừng nào sự trống rỗng của bà vẫn còn đó. Chỉ khi khoảng trống đã định hình cụ thể kia của bà không còn tồn tại thì mới xuất hiện cái vô hạn. Mỗi người tìm cách lấp đầy sự trống rỗng đó tùy theo khuynh hướng của họ. Bà có thể lấp đầy nó bằng gia đình, người khác thì khỏa lấp bằng những suy nghĩ dục vọng, có người thì lấp đầy khoảng trống bằng khao khát quyền lực, cũng có người dùng một ý niệm cao quý. Song mỗi người đều quan tâm tới một lớp vỏ bọc thỏa mãn, lâu dài. Không có lớp vỏ nào tốt hơn lớp vỏ nào. Nên điều bà cần tìm hiểu lúc này là: Lấp đầy sự trống rỗng đó bằng gia đình thì có đúng không? Nhưng sự chiếm hữu ở dạng nào cũng đều gây đau khổ, nên để thoát khỏi sự khổ đau đó, người ta phải nuôi ý tưởng thoát ly. Việc thoát ly trở thành một phương tiện khác để bao bọc, lấp đầy sự trống rỗng gây khổ sở đó. Vậy, nỗi trống trải này, sự trống vắng này có bao giờ được lấp đầy không? Liệu có phương pháp nào khác để khỏa lấp cho sự nghèo nàn này không?
V. W. quả quyết: “Chắc chắn rồi, phải có chứ”.
Xin hãy suy nghĩ kỹ hơn nữa. Cho dù có khỏa lấp khoảng trống tự khép kín, cái cảm giác cô đơn tột cùng đó bao nhiêu đi nữa, thì nó vẫn cứ trống rỗng. Bà có thể trùm lên nó bằng bất cứ phương tiện nào, nhưng nó vẫn còn ở đó. Bà có thể nhồi nhét nó bằng mọi công cụ của tâm trí, nhưng sự trống rỗng vẫn còn đó. Chúng ta sẽ liều mình gắn chặt với những gì chúng ta nghĩ có khả năng chiếm cứ khoảng trống đó. Bởi vì nếu phương tiện lấp đầy đó bị tước đi, chúng ta sẽ đau khổ, sẽ đầy phiền não. Bởi vì sự trống rỗng đó, sự cô đơn đau đớn đó lại tự tỏ lộ lần nữa. Chẳng phải sự trống rỗng này giống như một cái bình bị vỡ, một hố sâu vô tận không gì có thể lấp đầy sao?
Bà đáp: “Nhưng phải có thứ gì lấp đầy được sự trống rỗng đó chứ”.
Không có gì có thể lấp đầy nó cả, cho dù bà có cố gắng bao nhiêu đi nữa. Bà có thể quên nó một thời gian, che đậy nó, phủ nhận nó, nhưng dưới lớp che đậy đó, nó vẫn còn đó. Điều này là hiển nhiên, hẳn rồi. Khi nào bà còn chưa loại bỏ được nguyên nhân, thì triệu chứng vẫn cứ luôn ở đó. Nếu tâm thức tin vào việc không thể lấp đầy sự trống rỗng, nỗi cô đơn đó, thì nó có thể tự đem lại một sự biến đổi, một cuộc cách mạng. Nhưng khó khăn lại nằm ở việc hiểu rõ một cách không thể chối bỏ rằng mọi nỗ lực để lấp đầy sự trống rỗng đó thì đầy đau khổ và hoàn toàn vô ích. Việc nhận thức được điều này, trải nghiệm hành động ngốc nghếch này là cần thiết. Khi đã hiểu được thì trật tự và sự rõ ràng sẽ xuất hiện.
Khi suy nghĩ-cảm xúc nhận ra rằng sự trống rỗng này không thể khỏa lấp bằng bất cứ phương tiện nào, thì nó đã đạt đến trình độ khám phá ra rằng nó không thể làm được gì trong chuyện đó, rằng những suy nghĩ và hành động của nó liên quan tới việc đó đều không có tầm quan trọng thiết yếu. Mọi thứ mà nó nghĩ và làm đều là một sự ngăn trở. Lúc đó thì tâm sẽ trở nên tĩnh lặng, và trong sự tĩnh lặng đó, những bức tường tự khép kín vốn dĩ tạo nên không gian tách biệt, thứ đã định hình sự trống rỗng và nỗi cơ đơn, đều bị phá vỡ.
Lúc đó, không có sự gắn bó, cũng không có sự thoát ly. Lúc đó, gia đình, công việc, những thứ được làm bằng tay và bằng tâm thức không còn quan trọng trong chính nó. Chúng là phương tiện, không phải là cứu cánh. Chúng là phương tiện của sự tự biết mình, của tư duy đúng, của trí tuệ tối cao. Nhưng với một tâm thức bị trói buộc vào các phương tiện này thì sẽ có sự gom góp và từ bỏ, song sự trói buộc này không thể bị phá vỡ nhờ nuôi dưỡng tình trạng thoát ly.
Đừng bận tâm với sản phẩm mà hãy quan tâm tới người làm ra nó, và đừng bận tâm với suy nghĩ mà hãy quan tâm người suy nghĩ. Người suy nghĩ thế nào thì suy nghĩ thế ấy. Chúng không tách rời mà là một hiện tượng chung. Chừng nào chủ thể suy nghĩ còn tự khép kín thì các suy nghĩ và hoạt động của chủ thể ấy còn bị giới hạn, ràng buộc. Đừng chỉ bẻ gãy những mối ràng buộc này mà hãy để chủ thể suy nghĩ ngừng truyền tin. Chủ thể suy nghĩ và suy nghĩ của họ phải ngừng hiện hữu. Chừng nào còn có chủ thể suy nghĩ thì suy nghĩ của họ còn phải sản sinh ra sự vô minh và sầu khổ, bởi vì chủ thể suy nghĩ còn tiếp tục kéo dài bản thân trong gia đình, trong vật chất, trong công việc, trong các ý niệm. Chủ thể suy nghĩ xác lập bản thân trong những gì họ tạo ra. Người cha trở thành nô lệ của con trai mình, bởi vì đứa con trai đó là chính bản thân ông ta. Sự đồng hóa của chủ thể suy nghĩ với suy nghĩ của chủ thể ấy phải được chấm dứt hoàn toàn. Khi chủ thể suy nghĩ thinh lặng, khi họ ngưng những tiếng huyên thiên thì trong sự thanh tịnh đó chính là cái vô lượng.