W
. X. giải thích rằng nhiều năm nay anh hành thiền khá thường xuyên. Anh đã nghiên cứu những phương pháp thiền khác nhau và đã thực hành chúng ở mức độ nào đó. Anh cũng thường xuyên cầu nguyện và đi theo đường lối thành tâm, mộ đạo. Việc hành thiền của anh bao gồm những dạng thức tự kỷ luật khác nhau, hay đúng hơn là anh tự kỷ luật bản thân để thiền. Tuy nhiên, sau nhiều năm như vậy, có vẻ anh vẫn không thể đột phá để tiếp cận thực tại, Thượng đế.
Xin mạn phép được hỏi, nhiều dạng thức khác nhau của cái mà anh gọi là thiền định đó, chẳng phải chúng dính líu tới việc tạo ra tư duy theo một khuôn mẫu sao? Sự hình thành một lý tưởng, xuôi theo cái đã được công thức hóa, trau dồi những phẩm chất cần thiết, chẳng phải tất cả chúng nhằm định hướng cho việc tự trở thành hay không trở thành điều gì đó sao? Chẳng phải nỗ lực thiền định của chúng ta là để được là, để trở thành, hoặc không là, không trở thành điều gì đó hay sao? Nỗ lực của chúng ta được định hướng để đạt thành tựu, nếu không hiểu được nỗ lực trở thành này, thì tự thân nó có thể biến thành phương tiện ngăn cản điều hiện hữu (mong là nó không như vậy). Khi không hiểu được người cầu nguyện, sự cầu nguyện có thể dẫn tới ảo tưởng (mong là nó không như vậy). Vì vậy, việc hiểu rõ người thực hiện nỗ lực, người cầu nguyện lại chẳng cần thiết hay sao? Sự cầu nguyện và nỗ lực sẽ mang lại phần thưởng của riêng chúng, nhưng liệu phần thưởng đó có xứng với cái thực hữu? Phần thưởng tùy thuộc vào nỗ lực và chỉ khi nào người thực hiện nỗ lực ấy hiểu được chính mình, cố gắng của mình, thì những lời cầu nguyện mới có nền tảng đúng. Nỗ lực và việc cầu nguyện đều được đáp lại, nhưng chẳng phải đó là nỗi sợ hãi kêu gọi nỗi sợ hãi, lòng tham kêu gọi lòng tham hay sao? Một câu trả lời không nhất thiết đã là một câu trả lời đúng, và vì vậy, nếu không hiểu được người thực hiện nỗ lực và người cầu nguyện, thì những suy nghĩ và hoạt động của người đó không có cơ sở cho suy nghĩ và hành động đúng.
Nếu không hiểu chính mình, thì bạn không có nền tảng để xây dựng. Nếu không tự biết mình, thì những gì hôm nay bạn xây dựng sẽ bị phá hủy vào ngày mai. Không có sự chắc chắn mà chỉ có mâu thuẫn, nỗi đau khổ và vô minh. Ngược lại, nếu hiểu chính mình, bạn sẽ hiểu được cái toàn thể. Không có bạn thì không có thế giới. Không có bạn thì không có tôi. Bạn là kết quả của quá khứ, của tất cả người cha và người mẹ, giống như tôi cũng là kết quả của tất cả người cha và người mẹ. Cha của bạn là cha của tôi, bạn là tôi. Bạn là thế giới. Bạn là thế nào thì thế giới là thế ấy. Khi không hiểu biết chính mình, không tự biết mình, tất cả kiến thức đều vô minh và dẫn tới sầu khổ.
Anh trả lời: “Đúng vậy. Tôi hiểu rất rõ điều đó. Tôi hiểu ý ông khi nói tôi là cha của tôi. Điều đó thật mang tính khám phá”.
Vì vậy, khi không tự biết mình, không tự nhận thức, thì không thể nào có thiền định đúng. Khi không nhận thức được về người suy nghĩ mà chỉ đơn thuần tái định hình tư tưởng thì chẳng có ý nghĩa gì. Lúc đó, nhận thức, thiền định là sự tự khám phá. Để khám phá, phải thoát khỏi sự đồng nhất hóa, khỏi sự phán xét, vốn là một nhiệm vụ rất khó khăn. Việc phán xét và đồng nhất hóa ngăn cản chúng ta hiểu được từng suy nghĩ-cảm xúc. Sự tự do này phải được thiết lập ngay từ lúc bắt đầu. Một phương tiện sai sẽ tạo ra một cứu cánh sai. Thông qua phương tiện sai, ta không thể tìm thấy sự thật. Ngay từ đầu, nhận thức phải mang tính không chọn lựa. Nếu người ta cứ tiếp tục chọn lựa, thì sẽ luôn luôn có trạng thái nhị nguyên, cái “tôi” và cái “không phải tôi”, công trạng và lầm lỗi,… Do tính nhị nguyên này mà không thể có cái duy nhất. Người thực hiện nỗ lực, người thực hiện lựa chọn phải được hiểu và được hóa giải. Người thực hiện nỗ lực là tâm điểm của sự tích lũy, và thứ tích lũy được thì không phải là cái thực hữu. Việc trừ khử tâm điểm này, chủ thể suy nghĩ này, trải nghiệm và ký ức này phải được giải quyết. Toàn bộ tiến trình nhận thức hay thiền định là bắt người chọn lựa, người suy nghĩ phải im lặng.
Anh hỏi: “Nhưng phải làm thế nào?”.
Trước khi tìm một kết quả, chúng ta phải hiểu bản thân vấn đề trước đã; giải pháp nằm ngay tại vấn đề. Nhận thức được bản thân vấn đề thì câu trả lời sẽ được đơm hoa kết trái. Tìm kiếm đáp án ở bên ngoài vấn đề sẽ chỉ mang lại rối loạn.
“Ý ông là tôi không được tìm kiếm một kết quả trong việc hành thiền của mình phải không?”
Nếu suy nghĩ đang tìm kiếm một kết quả, nó sẽ không quan tâm tới phương tiện. Nếu người suy nghĩ bận tâm tới thành tựu, thì họ đang vun bồi tính nhị nguyên. Nếu người thực hiện nỗ lực đang tìm kiếm một mục đích, thì họ đang nuôi dưỡng sự thèm khát, và sự thèm khát sẽ dẫn tới ảo tưởng và khổ sở. Nếu đang tìm kiếm một kết quả thì bạn đang củng cố cho ký ức tự khép kín. Người suy nghĩ mở rộng bản thân thành kết quả đó. Nếu bạn đang tìm kiếm một kết quả thì chẳng phải tư tưởng của bạn đang bận tâm tới lợi ích, thành tựu, việc củng cố tâm điểm của sự tích lũy sao? Không có sự củng cố của người trải nghiệm và trải nghiệm của họ sao? Nếu đang tìm kiếm một kết quả, chẳng phải bạn đang ngụy tạo thời gian sao? Thông qua tiến trình của thời gian, liệu ta có thể khám phá cái vô tận, cái vĩnh hằng không? Thời gian phải dừng lại để cái vô tận hiện hữu.
Vậy, vấn đề của chúng ta là gì? Là hiểu người suy nghĩ và không đơn thuần biến đổi hay điều chỉnh suy nghĩ của họ. Những suy nghĩ và hành động cho thấy người suy nghĩ. Nhờ nhận thức về suy nghĩ-cảm xúc mà người thực hiện chúng được hiểu rõ. Bạn không thể khám phá người thực hiện nếu chỉ đơn thuần phán xét những suy nghĩ-cảm xúc-hành động của họ; khi dõi theo chúng, ta sẽ khám phá được người suy nghĩ. Khi suy nghĩ-cảm xúc thông qua từng suy nghĩ-cảm xúc, người suy nghĩ ở tất cả dạng thức khác nhau, trong những lớp vỏ khác nhau, trong các bộ tịch khác nhau đều sẽ được khám phá ra. Tất cả các mạch suy nghĩ-cảm xúc của họ đều dẫn tới họ; ta phải dõi theo các mạch suy nghĩ-cảm xúc đó, dù tầm thường hay ngu xuẩn thế nào đi nữa, và thấu hiểu chúng. Nếu tất cả những biểu hiện xảo trá của người suy nghĩ đều được quan sát, nghiên cứu và thấu hiểu, đánh giá lại nhiều lần, thì người suy nghĩ sẽ không còn hiện hữu. Nếu cành và lá đều bị cắt cụt nhiều lần, thì cái cây đó sẽ chết. Nếu mỗi suy nghĩ-cảm xúc-hành động được suy nghĩ kỹ càng - xem xét thấu đáo và nhờ đó được thấu hiểu, hoàn thiện, thì tâm điểm, tức người suy nghĩ, người trở thành, sẽ ngừng hiện hữu. Người suy nghĩ không còn là người trải nghiệm với những sự tích lũy, những ký ức không sáng tạo của họ. Lúc đó, người suy nghĩ, do hoàn toàn thinh lặng, sẽ không còn thu thập hay loại bỏ nữa. Trong trí tuệ sâu xa của sự thinh lặng là sự sáng tạo vô tận của cái vĩnh hằng. Đừng suy đoán nó, đừng công thức hóa nó, mà hãy nhận thức về từng suy nghĩ-cảm xúc-hành động. Ngọn lửa nhận thức sẽ thiêu đốt mọi chướng ngại vật, rào cản, và trong ngọn lửa đó có cái thực hữu. Ngọn lửa này – khi nó thiêu đốt mọi sự phong tỏa – sẽ tự soi sáng, không duyên không cớ và bất tử.