• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Thiên hành giả
  3. Trang 11

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 10
  • 11
  • 12
  • More pages
  • 32
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 10
  • 11
  • 12
  • More pages
  • 32
  • Sau

9

V

ề đến trường tiểu học Giới Lĩnh, Hiệu trưởng Dư và những người kia đang ngây người ra trước cảnh mặt trời lặn. Trương Anh Tài cố tình đi qua giữa ba người, nhưng vẫn bị coi là người thừa, chứ đừng nói đến việc bảo cậu ta lên lớp dạy.

Trương Anh Tài cũng chẳng còn tâm trí đâu mà giận dỗi Lam Phi nữa. Cậu ta bày hết ra bàn sách trung học cơ sở, trung học phổ thông và vở ghi chép, cửa sổ cũng dùng giấy dán kín, không để lộ một kẽ hở nào. Hai ngày liền, ngoài thời gian đi vệ sinh và hoạt động ngoài trời bắt buộc như chào cờ và hạ cờ ra, thời gian còn lại quyết không ra khỏi phòng, cho dù có ra ngoài cũng khóa chặt cửa. Sáng ngày thứ ba, cậu ta đi vệ sinh, khi quay về phát hiện giấy báo trên cửa sổ bị chục thủng một lỗ. Cậu ta không nói năng gì, kiếm một mảnh giấy, bịt lỗ thủng đó lại.

Buổi trưa, khi vẫn cửa đóng then cài nấu cơm trong nhà, Trương Anh Tài nghe thấy Diệp Bích Thu gọi cậu ta.

Diệp Bích Thu đứng ngoài cửa nói: “Thầy Trương, sao thầy không dạy bọn em?”

Trương Anh Tài nói: “Do nhà trường sắp xếp. Trò đi mà hỏi Hiệu trưởng Dư.”

Diệp Bích Thu nói: “Chúng em đều rất nhớ thầy, muốn nghe bài thầy giảng.”

Trương Anh Tài mở cửa nói: “Học sinh không được chọn giáo viên.”

Diệp Bích Thu đỏ mặt nói: “Không, không phải em muốn chọn giáo viên đâu ạ, là Phó Hiệu trưởng Đặng bảo em nói như vậy ạ.”

Diệp Bích Thu tuy đang học tiểu học, nhưng vì học vỡ lòng muộn, nên trong số học sinh trong trường, nó là đứa phổng phao nhất. Trương Anh Tài vô tình nhìn thấy ngực cô bé đã nhú lên, cũng hơi đỏ mặt, liền vội nói: “Lời nói vu vơ của Phó Hiệu trưởng Đặng không thể tin được.”

Trương Anh Tài quay người sắp xếp lại số tài liệu ôn tập trên bàn, cũng là cố tình để Diệp Bích Thu trông thấy. Cậu ta thừa biết Đặng Hữu Mễ sai Diệp Bích Thu đến là có mục đích, cũng cho thấy việc cố tình làm ra vẻ huyền bí đã có hiệu quả. Đợi cho Diệp Bích Thu quan sát hết tình hình trong phòng, cậu ta cố tình nói: “Nếu không có việc gì đặc biệt quan trọng, không được đến gõ cửa nữa, thầy cần chuyên tâm ôn tập.”

Diệp Bích Thu đi rồi, Trương Anh Tài không nhịn nổi cười thầm trong bụng.

Buổi chiều sau khi tan học, Trương Anh Tài nghe thấy tiếng sáo bên ngoài có chút do dự, nên cố ý đi ra ngoài. Đặng Hữu Mễ bỏ ngay sáo xuống, cười gượng gạo với cậu ta. Trương Anh Tài giả vờ không nhìn thấy, tiếp tục lẩm nhẩm công thức Toán. Đặng Hữu Mễ xưa nay là người giỏi ăn nói, chần chừ hồi lâu mới sáp đến gần, nhưng lại nói một câu khá vô duyên.

“Mấy hôm nay cậu không lên lớp, biểu hiện của Diệp Bích Thu hơi lạ, cứ liên tục viết ra giấy trong vô thức cái tên Trương Anh Tài, thầy Trương, thầy Trương Anh Tài.”

Trương Anh Tài thấy hơi hoảng, đã nghĩ ra vài câu nói móc họng, nhưng đều không có cách nào nói ra.

Trời vừa tối, Trương Anh Tài đang định khóa cửa thì Tôn Tứ Hải tới.

“Mai tôi xuống núi một chuyến, lắp cái kính, bài trên lớp do cậu phụ trách.”

“Cháu xin phép nghỉ một tuần vẫn chưa nghỉ hết mà!” “Đây là cá nhân tôi nhờ cậu giúp.”

“Nếu là việc tư thì không được.”

Tôn Tứ Hải đi đến cạnh bàn, cầm chiếc kính cận lên: “Kính của cậu mấy độ?”

Trương Anh Tài nói: “4 độ. Cháu nói với chú rồi.”

“Trí nhớ tôi kém quá, quên mất.” Tôn Tứ Hải vừa nói, vừa dán mắt vào từng quyển sách.

Tôn Tứ Hải xuống núi thật, cho đến tận gần sáng mới về, còn vác cả một bịch sách.

Trương Anh Tài giả vờ hiếu kỳ hỏi Lý Tử: “Có phải thầy Tôn vác rất nhiều tiểu thuyết về không?”

Lý Tử nói: “Chẳng thấy một cuốn tiểu thuyết nào, toàn là sách toán, lý, hóa trung học cơ sở.”

Từ khi có đống sách đó, Tôn Tứ Hải không còn thổi sáo vào ban đêm nữa. Mỗi lần mơ màng tỉnh giấc, Trương Anh Tài đều nghe thấy tiếng Tôn Tứ Hải đọc sách. Có một lần, Trương Anh Tài không quản gió đêm khẽ khàng mở cửa, nhìn thấy bóng người đang đọc sách in trên giấy cửa sổ. Đúng lúc đó, một ngôi sao băng rất lớn xé tan màn đêm, rơi xuống phía sau núi, Trương Anh Tài bất giác thoáng run rẩy.

Đặng Hữu Mễ cũng xin nghỉ xuống núi một chuyến, khi về mặt mày ủ rũ, sau lưng rỉ tai Hiệu trưởng Dư nói: “Phạm vi chuyển chính lần này chắc rất hẹp, ít suất, thế nên cấp trên mới kín như bưng như vậy, không dò hỏi được gì.”

Vào cái ngày mà Đặng Hữu Mễ nói câu đó, Hiệu trưởng Dư đích thân tìm Trương Anh Tài, hỏi cậu ta gần đây có phải cũng không yên lòng với công việc của giáo viên dân lập. Trương Anh Tài chối đây đẩy, còn giả vờ rất tủi thân nói, mình vốn đã quen rồi, sau này sẽ không tơ tưởng đến việc khác nữa, mong Hiệu trưởng Dư đừng khuấy động hồ nước phẳng lặng. Hiệu trưởng Dư đành nói toạc móng heo, chỉ vào đống sách vở trên bàn hỏi cậu đang làm gì. Trương Anh Tài giải thích là để đặt nền tảng tốt hơn cho công tác giảng dạy, còn nói Trưởng phòng Vạn lần nào gặp cũng dặn dò cậu ta, nếu muốn làm một giáo viên tiểu học xuất sắc, cần phải nắm bắt toàn diện kiến thức văn hóa trình độ trung học sơ cở và phổ thông. Thấy không hỏi thêm được gì, Hiệu trưởng Dư đi ra, Đặng Hữu Mễ đang chờ bên ngoài, hai người nhìn nhau thở dài ngao ngán.

“Làm ngành khác càng có kinh nghiệm càng quý, đằng này, giáo viên dân lập càng già càng mất giá!” Sau đó vài lần, Trương Anh Tài còn nghe Hiệu trưởng Dư ngẩn ngơ nói một mình: “Đặng Hữu Mễ tin rằng có thể bỏ tiền mua quan hệ chạy cửa sau, Tôn Tứ Hải có thể dựa vào thực tài lấn át người khác, Trương Anh Tài vừa có tài lại có cửa sau, lão già như tôi thì dựa vào cái gì chứ?”

Chiêu trò do Lam Phi nghĩ ra này, khiến Trương Anh Tài chỉ trong một đêm trở thành báu vật của trường tiểu học Giới Lĩnh. Trương Anh Tài có lúc ngồi nghĩ vẩn vơ một mình, giáo viên dân lập được chuyển chính thức rút cục là cá chép vượt Vũ môn, hay là quỷ môn quan do Diêm vương bày ra? Trương Anh Tài vốn không thực sự muốn học, hôm đó cậu ta viết nhăng nhít lên giấy hồi lâu, lúc nhìn lại thì trên một trang giấy hầu như chỉ viết chữ: danh dự.

Trong quãng thời gian cậu ta ngẩn người ra nhìn hai chữ này, thì trước tiên là Hiệu trưởng Dư, sau đó là Đặng Hữu Mễ, cuối cùng là Tôn Tứ Hải luân phiên nhau kiếm cớ đến phòng cậu ta, chẳng khác gì trực ban tuần tra. Nhất là Tôn Tứ Hải, người khác đã không còn ra vẻ tự cao tự đại, chỉ có ông ấy, mặc dù chân đã bước qua ngưỡng cửa nhưng suy nghĩ lại không chịu theo vào, vì thế khi nói, căng thẳng đến mức môi run bần bật. Điều khiến Trương Anh Tài không ngờ là Tôn Tứ Hải vừa đi, Vương Tiểu Lan chuồn vào như một cơn gió, không nói năng gì, cuộn chăn trên giường lại rồi chạy ra ngoài. Đợi Trương Anh Tài định thần lại thì cô ấy đã đi xa rồi. Sau khi mặt trời xuống núi, Vương Tiểu Lan mang chiếc chăn đã được giặt sạch sẽ, còn được nhúng qua nước hồ đến nhà, cười lẳng lơ nói, những ‘hạt giống’ mà cậu ta ‘gieo’ trên chăn đã giặt sạch hết rồi. Vương Tiểu Lan đi rồi, Trương Anh Tài vạch chăn ra xem, những vết loang lổ trước đây ở nhà ngay cả mẹ giặt cũng không sạch đúng là đã không còn vết nào. Mặc dù chỉ có một mình trong phòng, nhưng mặt Trương Anh Tài vẫn đỏ lựng lên. Không chỉ ngượng cho mình, cũng thấy xấu hổ cho Vương Tiểu Lan, với sự thanh cao của Tôn Tứ Hải, nếu biết Vương Tiểu Lan cũng bắt đầu trêu chọc người đàn ông khác bằng cái giọng nửa nạc nửa mỡ, ngộ nhỡ không kiểm soát được, tẩn cô ta một trận thì cũng chẳng có gì là lạ.

Trong màn đêm yên tĩnh, nằm cuộn tròn trong chiếc chăn thơm thoang thoảng, trong đầu Trương Anh Tài luôn nghĩ đến một câu về sau mình viết thêm trên giấy: những giáo viên dân lập không được chuyển chính thức ngay cả quyền cười trước mặt người khác cũng không có.

Trong một tháng sau đó, Đặng Hữu Mễ xuống núi đến bảy, tám lần, lần nào cũng thất vọng trở về, nhưng nhìn thấy Trương Anh Tài ông vẫn làm ra vẻ mặt mày tươi tỉnh, nói là lại gặp Trưởng phòng Vạn, Trưởng phòng Vạn đúng là một lãnh đạo tốt, v.v…

Hiệu trưởng Dư không đi đâu cả, chỉ có sự thay đổi duy nhất là cứ đến tối lại đến bãi tập nhỏ không một bóng người đi lững thững quanh cột cờ. Tối nay, Hiệu trưởng Dư cuối cùng cũng bước vào phòng của Trương Anh Tài.

Hàn huyên một lúc, Hiệu trưởng Dư hướng ánh mắt về chiếc Phượng hoàng cầm: “Gần đây sao không thấy cậu chơi đàn, hay là dây đàn đứt rồi?”

Trương Anh Tài nói: “Dây đàn đứt không quan trọng, chủ yếu là không có thời gian.”

Hiệu trưởng Dư lấy từ túi áo ra một cuộn dây đàn: “Tôi có bốn sợi dây đàn cũ, không biết có dùng được không, cậu lên dây thử xem.”

Trương Anh Tài không từ chối, với tay cầm lấy, rồi nói: “Chỉ sợ chưa được vài ngày lại đứt.”

Hiệu trưởng Dư nói: “Không đâu, sẽ không bị đứt nữa đâu, trước đây chủ yếu là cô Minh không chịu nổi tiếng đàn, cứ nghe là phát bệnh. Giờ tôi đã bịt kín cửa sổ rồi.” Nói vài câu lại chuyển chủ đề: “Thầy Trương này, đợt chuyển chính thức lần này liệu có chính sách gì ưu đãi cho những người đặc biệt một chút không, như tôi chẳng hạn?”

Trương Anh Tài nói: “Không nghe thấy nói gì cả, quả thật không có chút thông tin nào.”

Hiệu trưởng Dư u sầu quay mặt đi: “Không nghe nói thì thôi vậy! Cậu làm gì thì làm đi, tôi đến chỗ Chủ nhiệm Tôn.” Đi được vài bước lại quay đầu lại: “Tôi cân nhắc rất lâu, quyết định báo cáo cấp trên đề bạt cậu làm phó chủ nhiệm giáo vụ.”

Trương Anh Tài mừng như mở cờ trong bụng, miệng thì nói: “Cám ơn Hiệu trưởng Dư cất nhắc.”

Hiệu trưởng Dư gõ cửa nhà Tôn Tứ Hải nhưng không ăn thua. Tôn Tứ Hải từng tuyên bố, đợt này sau khi tan học, ông ấy không gặp ai hết. Vốn cũng không có việc gì, Hiệu trưởng Dư đứng ngoài cửa nói vài câu rồi quay về.

Đúng lúc đó, trên bãi tập tối om om vọng lại tiếng khóc của Thành Cúc: “Hiệu trưởng Dư ơi, Hiệu trưởng Dư, ông mau cứu Đặng Hữu Mễ!”

Thành Cúc lảo đảo lao đến, vồ ngay lấy Hiệu trưởng Dư.

Hiệu trưởng Dư hơi sốt ruột: “Cô cứ bỏ tôi ra đã, có gì từ từ nói, đêm hôm thế này, để người khác trông thấy thì làm sao giải thích được.”

Thành Cúc vẫn không buông tay: “Tôi mặc kệ, Đặng Hữu Mễ bị người của đồn công an bắt đi rồi, ông hãy nghĩ cách cứu ông ấy ra đi.”

Lúc này, Trương Anh Tài từ trong phòng chui ra: “Vì sao người của đồn công an lại bắt ông ấy chứ?”

Thành Cúc trả lời: “Cũng chỉ vì chuyển chính thức, người khác không có học vấn thì có ô dù, Đặng Hữu Mễ chẳng có thứ gì, khó khăn lắm mới kiếm được quan hệ có thể ‘đi cửa sau’, nhưng trong nhà không có gì đáng giá, không còn cách nào khác, Đặng Hữu Mễ liền lên núi chặt một cây thủy tùng không ngờ bị người của đồn cảnh sát lâm nghiệp bắt được. Hiệu trưởng Dư ơi, ông không thể nhìn thấy chết mà không cứu!”

Hiệu trưởng Dư nghe xong càng nôn nóng: “Chẳng phải là làm mất thể diện nhà trường sao! Lần trước không được bình chọn tiên tiến, lần này lại là phó hiệu trưởng chặt trộm cây, đúng là làm mất hết danh dự của dân trí thức!”

Trương Anh Tài đứng cạnh: “Đã đến nước này, tìm cách cứu thầy Đặng mới là thượng sách.”

Hiệu trưởng Dư sốt ruột như kiến bò trên chảo nóng. Thành Cúc ngồi bệt xuống đất gào khóc, rền rĩ đến chói tai.

Trương Anh Tài chịu nổi nói: “Cô khóc khó nghe quá, như nhà có đám ý, làm rối trí người khác, làm sao mà nghĩ cách cơ chứ!”

Nghe Trương Anh Tài nói vậy, tiếng khóc lóc của Thành Cúc cũng trầm hẳn xuống.

Cuối cùng, Hiệu trưởng Dư nặng nề nói: “Cũng chẳng còn cách nào khác, đành phải nói rằng nhà trường cần cải tạo trường lớp, lại không moi đâu ra tiền, đành phải thay học sinh chịu nhục chịu khổ, làm ra những việc hạ sách này.”

Trương Anh Tài nói: “Được thì được, nhưng chỉ sợ Tôn Tứ Hải không đồng ý.”

Hiệu trưởng Dư nói: “Cháu đi gọi ông ấy đến đây. Lúc nãy tôi qua, ông ta không chịu mở cửa. Cháu đi, ông ấy sẽ mở cửa.”

Trương Anh Tài chạy qua, vừa gọi, cánh cửa đó mở ra thật. Nghe nói xong, nét mặt Tôn Tứ Hải lộ vẻ khinh bỉ: “Bất tài thì cam chịu đi, làm gì có chuyện một kẻ giở trò trộm cắp, giờ lại bắt mọi người cùng chịu trận chứ?”

Hiệu trưởng Dư nói: “Được hay không, anh nói một câu.”

Tôn Tứ Hải nói: “Tôi chẳng có gì để nói, cứ coi như tôi không biết việc này.”

Hiệu trưởng Dư nói: “Cũng coi như anh đã tỏ thái độ. Đổ hết lên đầu tôi là xong.”

Thành Cúc hét lên: “Lão họ Tôn kia, đừng tưởng mình là người trong sạch, muốn ngồi trên Hoàng Hạc Lâu ngắm thuyền buồm, làm người rồi cũng có lúc sa cơ lỡ vận.”

Tôn Tứ Hải khép cửa lại rồi mới nói: “Tôi đồng ý, coi như là quyết định của nhà trường!”

Hiệu trưởng Dư xuống núi ngay trong đêm, đến chiều hôm sau mới cùng Đặng Hữu Mễ về trường, mặt Đặng Hữu Mễ có vài vết xước, ban đầu cứ tưởng là bị người của đồn công an đánh, hỏi ra mới biết, bị cành cây thủy tùng cào rách khi ngã xuống. Đặng Hữu Mễ hoàn toàn nản chí, mấy ngày liền gặp ai cũng nói mình bằng lòng làm giáo viên dân lập cả đời, không tơ tưởng đến việc chuyển chính thức, cái miếng thịt thiên nga giáo viên công lập đó nữa.

Kế toán Hoàng của phòng giáo dục xã lại mang tiền lương đến, còn tiết lộ rằng, vụ bị cướp lần trước đã có manh mối rồi.

Ngày thứ ba sau khi kế toán Hoàng đến, một người họ hàng đằng mẹ đẻ Thành Cúc bị bắt. Nói ra thì cũng chính vì Đặng Hữu Mễ chặt trộm cây thủy tùng mà phát hiện ra manh mối. Vùng Giới Lĩnh tổng cộng có hơn chục cây thủy tùng cổ thụ, nhưng cây nhỏ thì không đếm xuể. Từ sau khi phát hiện loại cây này rất tốt trong phòng chống bệnh ung thư, những cây thủy tùng cổ thụ lâm tặc không dám đụng vào, cây nhỏ thì không tránh khỏi bị chặt trộm. Phần lớn các vụ chặt trộm cây xảy ra ngắt quãng trong thời gian qua đều không bị phát hiện, người họ hàng bên nhà mẹ đẻ Thành Cúc cũng từng chặt trộm cây thủy tùng, người của đồn cảnh sát lâm nghiệp xuống điều tra, vì thế mà hoang mang lo sợ nên đã chủ động thành thật khai báo. Sau khi xảy ra hai vụ này, lưng Đặng Hữu Mễ có vẻ còng hơn, còn nộp lên Hiệu trưởng Dư đơn xin từ chức phó hiệu trưởng. Song, Hiệu trưởng Dư không đồng ý.

Chỉ có Tôn Tứ Hải làm thinh, tiếp tục ở nhà ôn tập suốt ngày suốt đêm.

Tan trường buổi chiều cuối tuần, vẫn như thường lệ, là ngày mà thầy giáo đưa học sinh nội trú về nhà.

Hiệu trưởng Dư thấy tâm trạng Đặng Hữu Mễ không được tốt, sợ xảy ra chuyện, kêu Trương Anh Tài đi cùng Đặng Hữu Mễ. Trên đường đi rất thuận lợi, khi về gặp Vương Tiểu Lan. Vương Tiểu Lan hốt hoảng chạy đến trường tìm Lý Tử. Trương Anh Tài nhớ rất rõ, các em học sinh sau khi đứng vào từng nhóm, Tôn Tứ Hải đã dắt tay Lý Tử, dẫn nhóm đó xuất phát. Vương Tiểu Lan vẫn không yên tâm, cô ấy linh cảm có chuyện chẳng lành, nằng nặc đòi đến trường xem thế nào.

Đến trường, cửa sổ nhà Tôn Tứ Hải vẫn sáng, có bóng người bất động hắt ra.

Gọi được cửa, Vương Tiểu Lan hổn hển hỏi: “Con gái tôi đâu?”

Tôn Tứ Hải nói: “Con bé chẳng phải đã về chỗ cô rồi sao?” Vương Tiểu Lan hỏi: “Anh chia tay con bé ở đâu?”

Tôn Tứ Hải nói: “Nửa đường, tôi muốn tranh thủ quay về ôn tập, nên không đưa về tận nhà.”

Hiệu trưởng Dư biết tin thì lo cuống lên, lớn tiếng chỉ trích Tôn Tứ Hải: “Ông đúng là khôn ba năm, dại một giờ!”

Vương Tiểu Lan vốn đã nước mắt rưng rưng, cuối cùng cũng khóc thành tiếng, không còn tâm trí lau nước mắt, quay đầu chạy về phía cửa.

Những người có mặt cũng ý thức được tính nghiêm trọng của vấn đề, lập tức chia thành hai hướng: một hướng là theo Tôn Tứ Hải và Trương Anh Tài, lần theo đường nhóm đó đi để tìm. Một hướng là theo Hiệu trưởng Dư và Đặng Hữu Mễ, tìm men theo con đường gần trường. Tôn Tứ Hải chạy như bay, chỉ một lát đã vượt cả Vương Tiểu Lan, Trương Anh Tài ngã mấy lần cũng không đuổi kịp. Cũng may Tôn Tứ Hải thỉnh thoảng lại vào hỏi thăm các hộ dân ven đường, nên mới không bị lạc nhau. Tới đỉnh núi lần trước Trương Anh Tài cùng cả nhóm đi qua, cũng là lúc mặt trăng ló dạng. Tôn Tứ Hải chạy như bay đến đứng bất động trên mỏm núi, đợi Trương Anh Tài đuổi kịp, mới nói: “Lý Tử ở trên cây đằng kia, bị bầy sói vây quanh.” Tôn Tứ Hải không giống Đặng Hữu Mễ, vẫn kiên định gọi bầy thú đó là sói.

Trên cây Hồng đậu sam đen ngòm, quả nhiên có tiếng khóc khản đặc của Lý Tử, bên dưới còn có hơn chục cặp mắt xanh lè.

Tôn Tứ Hải dặn dò Trương Anh Tài, sau khi nhắm chuẩn đường núi, cùng thét lên rồi lao về phía cây Hồng đậu sam, càng nhanh càng tốt, nhất thiết không được dừng lại, sau đó nhanh chóng trèo lên cây, đợi Hiệu trưởng Dư và Đặng Hữu Mễ tới. Nói rồi, cũng không cần biết Trương Anh Tài có đồng ý hay không, liền gào to: “Lý Tử... đừng sợ... thầy đến đây!” Trương Anh Tài thấy hơi sợ, không biết hô gì, đành phải kêu to oa, oa, oa... Bầy thú mà Tôn Tứ Hải kiên định gọi là sói ấy sợ hãi dạt sang một bên. Tôn Tứ Hải nhanh như cắt, Trương Anh Tài cũng nhanh chẳng kém, khi bầy sói lại vây quanh gốc cây thì hai người họ đã ngồi yên trên cây rồi.

Tôn Tứ Hải ôm Lý Tử vào lòng.

Lý Tử không khóc nữa, còn Tôn Tứ Hải thì nước mắt giàn giụa.

Nửa tiếng sau, Hiệu trưởng Dư và Đặng Hữu Mễ quả nhiên dẫn theo một đám người đến, đuổi bầy sói dưới gốc cây đi.

Về đến trường cũng đã nửa đêm. Tôn Tứ Hải không chịu đi ngủ, không ai khuyên được, ngồi một mình dưới cột cờ thổi sáo, từng nốt từng nốt nhạc được thổi rất chậm, rất chậm, nặng nề, vô cùng thê lương, giống như hồi ức và biệt ly.

Sáng dậy, Trương Anh Tài nhìn thấy khắp nơi trên bãi tập là tro tàn cháy đen, cậu ta nhặt một mảnh giấy vẫn chưa cháy hết lên xem, là sách giáo khoa trung học phổ thông. Tôn Tứ Hải vẫn thổi sáo dưới cột cờ, từ trong lỗ sáo chảy ra thứ gì đó tươi rói, nhỏ trên đất, thành một cục đỏ thẫm. Hiệu trưởng Dư ngồi trước cửa nhà hút thuốc. Trên dốc núi không xa, Đặng Hữu Mễ hai tay ôm mặt, nằm trong bụi cây. Cả ba người đều cả đêm không ngủ.

Gió sớm mai lành lạnh, sương sớm bao phủ vùng sơn cước, lá cờ đã phai màu vì dãi nắng dầm mưa không xuất hiện trong buổi sáng sớm tinh mơ, chiếc cột cờ trơ trọi có vẻ gì đó khác thường.

“Cho đến tận hôm nay, đây là lần đầu tiên cháu thấu hiểu được ý nghĩa của lá Quốc kỳ.”

Trương Anh Tài đã nói với họ như vậy vào ngày cuối tuần không chào cờ.

Lời nói của Trương Anh Tài mang nhiều hàm ý, trong đó có ý hối hận vì đã gây ra thảm kịch này. Cậu ta không dám nói ra, chỉ muốn kiếm cơ hội để đền đáp, làm chút gì đó để cứu vãn. Cậu ta đã viết những gì mắt thấy tai nghe sau khi lên núi, chẳng hạn như chào cờ, hạ cờ, bài văn của Lý Tử, hơn chục học sinh ở nhà Hiệu trưởng Dư, cũng như chỉ một lần sơ xuất của Tôn Tứ Hải mà suýt nữa biến học sinh thành mồi ngon của dã thú, v.v… thành một bài mang tựa đề “Núi cao - Tiểu học - Quốc kỳ”. Cậu ta không nói với Hiệu trưởng Dư mà lặng lẽ xuống núi, tận tay nhét bản thảo bài viết vào thùng thư trước cửa bưu điện xã gửi cho báo tỉnh.

Đang lò dò về trường, Trương Anh Tài lại gặp Lam Phi.

Cách đó không xa, cậu ta nghe thấy Lam Phi đang nói chuyện với một phụ nữ. Lam Phi bảo người phụ nữ đó đến phòng giáo dục hỏi Trưởng phòng Vạn, liệu giáo viên dân lập có cơ hội chuyển thành giáo viên công lập thật không. Còn nói rằng, nếu không đi thì nó sẽ không bước chân về nhà nữa. Do vậy, Trương Anh Tài đoán rằng người phụ nữ đó là Lam Tiểu Mai mẹ của Lam Phi. Lam Phi không những nói lời cay độc, mà còn giằng co, nhưng cũng chẳng ăn thua gì. Lam Tiểu Mai chẳng những không đi, còn nói, biết trước Lam Phi là đứa hư hỏng như vậy, chẳng thà khi bố nó qua đời, cho cả nhà vào quan tài cho xong.

Lam Tiểu Mai quay người đi về phía Tế Trương gia trại.

Trương Anh Tài trong lòng đã có phần thư thái, đợi khoảng mười phút mới đi về phía Lam Phi đang đứng đực mặt ở bên đường. Cậu ta giả vờ không nghe thấy gì, cố tình hỏi Lam Phi sao như người mất hồn thế, có phải thất tình không. Khi trả lời, Lam Phi có chút giấu giếm, nhưng cũng nói thật lòng. Cậu ta nói, thì cũng chỉ tại mấy lão giáo viên dân lập thâm niên cao ở trường tiểu học Giới Lĩnh làm mọi việc rối tung cả lên, khiến những giáo viên dân lập gần xa đều cho rằng cấp trên có chính sách chuyển chính thức thật. Do từ sáng đến tối đều có người bàn tán, bản thân cũng bán tín bán nghi, nên muốn tìm người Giới Lĩnh. Lam Phi vô cùng sửng sốt, cậu ta cũng không B rương Anh Tài tưởng là thư trả lời của báo tỉnh. thăm dò thực hư. Đứng trong màn đêm, Trương Anh Tài nói rõ ngọn ngành những việc xảy ra ở trường tiểu học ngờ sự việc lại ra đến nông nỗi một sống một còn, vượt xa dự tính ban đầu. Vì thế, hai đứa giao kèo với nhau, bất kể sau này việc này diễn biến ra sao, cũng không được đổ thêm dầu vào lửa nữa.