G
iáo viên chi viện Hạ Tuyết đến trường tiểu học Giới Lĩnh vào ngày thứ hai của tuần thứ hai sau khi khai giảng.
Hiệu trưởng Dư đang giảng bài, bỗng thấy những học sinh ngồi cạnh cửa sổ đều đồng loạt nhìn ra ngoài, ông cũng nhìn ra theo. Hạ Tuyết mặc bộ váy trắng giống như mây từ trên núi sà xuống, khiến ông cứ ngỡ là tiên nữ, ở vùng Giới Lĩnh này cũng có người mặc váy trắng, nhưng không thể thuần khiết và rạng rỡ như Hạ Tuyết. Trưởng phòng Vạn đi trước, Hạ Tuyết đi giữa, người đàn ông phía sau giúp cô ấy gánh hành lý. Khi Hiệu trưởng Dư ra ngoài đón, Đặng Hữu Mễ và Tôn Tứ Hải cũng lần lượt đi ra từ lớp học của mình. Không đợi vào trong phòng, Trưởng phòng Vạn giới thiệu với mọi người ngay tại bãi tập.
Nghe nói Hạ Tuyết là cử nhân, Đặng Hữu Mễ bất giác nói: “Giới Lĩnh quá nhỏ, sẽ lãng phí nhân tài.”
Không ngờ Hạ Tuyết nói: “Cháu cũng không phải có gì đáng quý, lãng phí vài năm tuổi trẻ cũng là một việc tốt.”
Thấy mọi người ngẩn ra vì câu nói này, Tôn Tứ Hải liền nói: “Đúng vậy, đau khổ cũng chia cấp thấp cao, lo lãng phí tuổi thanh xuân là bình diện vật chất, chẳng hạn như đói, miễn là có cái ăn thì vấn đề sẽ được giải quyết. Còn về quý hay không là thuộc về tinh thần, giống như chán ăn vậy, nên sẽ càng đau khổ hơn.”
Hạ Tuyết không để tâm đến câu nói của Tôn Tứ Hải có ý mỉa mai: “Chả trách có người nói, bò già trong núi sâu đều là nhà triết học. Chỉ cần câu nói của thầy Tôn thôi, thì việc đến Giới Lĩnh lại càng có ý nghĩa.”
Hạ Tuyết quả thật không để ý đến sự chênh lệch về điều kiện sống ở trường tiểu học Giới Lĩnh, chú lợn do Hiệu trưởng Dư nuôi còn dùng mõm chúi vào váy của cô ấy, Hạ Tuyết không chỉ cười phá lên, còn nói với chú lợn: “Hóa ra mày cũng là ‘tên háo sắc’.”
Sau khi đặt hành lý trong phòng Trương Anh Tài từng ở, Hạ Tuyết nhìn thấy trên mặt bàn có đặt tấm kính, liền lấy ra một tờ thơ chép tay kẹp xuống dưới. Trưởng phòng Vạn trông thấy, tưởng Hạ Tuyết là nhà thơ. Hạ Tuyết cười nói, cô chỉ thích đọc thơ của người khác.
Trưởng phòng Vạn nói vài câu xã giao rồi cáo từ, Hiệu trưởng Dư đi sau tiễn. Đường núi gập ghềnh, đi đến chỗ khuất, Hiệu trưởng Dư mới nói một cách lo lắng: “Cô giáo đẹp thế sao không giữ lại ở trường tiểu học Trung tâm của xã mà đến Giới Lĩnh, chỉ e sẽ mang lại những phiền phức không lường trước được.”
“Thế anh tưởng tôi không biết thương hoa tiếc ngọc à? Là người ta khăng khăng đòi đến.”
“Có thể là cô ấy đã đọc bài báo của thầy Trương Anh Tài cháu anh viết.”
“Anh Dư ơi, anh đúng là hồ đồ rồi, cháu tôi, thầy Trương và Trương Anh Tài, dùng một cách gọi là được rồi. Lần nào anh cũng nói đủ hết. Lần sau còn thế, tôi sẽ giả vờ điếc. Nói về Hạ Tuyết đi, chuyện của cô ấy giống như truyền thuyết về Giới Lĩnh khiến người ta khó tin. Hôm qua cô ấy đến, vốn đã thu xếp cho cô ấy dạy ở trường tiểu học Trung tâm, nhưng cô ấy kiên quyết yêu cầu được đổi đến chỗ anh. Điều kỳ lạ nhất là cô ấy bắt xe buýt từ huyện xuống xã, có một chiếc BMW cứ chạy theo sau. Loại xe đó, kinh phí giáo dục cả năm của xã ta cũng không mua nổi hai chiếc lốp. Hạ Tuyết nghỉ ở phòng giáo dục, chiếc xe BMW đó đợi ở cổng, tay lái xe tối ngủ luôn trên xe. Tôi hỏi, Hạ Tuyết bảo không liên quan đến cô ấy. Tôi không yên tâm, nên cho người của đồn công an xã đi hỏi. Tay lái xe giơ ra ba chiếc danh thiếp, một chiếc là sở công an tỉnh, một chiếc là trưởng công an khu vực, một chiếc là trưởng công an huyện, rồi bảo cậu ta đừng hỏi gì cả. Người của đồn công an báo biển số xe lên trên, bên trên trả lời bảo chúng ta yên tâm, người ta là doanh nhân, sẽ không làm việc xấu. Buổi sáng tôi đi cùng Hạ Tuyết đến đây, chiếc BMW đó còn đi theo một lúc, đến tận ven con sông nhỏ không có cầu, sau đó mới bấm còi, quay về trước cửa phòng giáo dục.”
“Trưởng phòng Vạn đừng hù dọa người dân Giới Lĩnh.”
“Tôi làm gì có tâm trí đâu mà nói đùa. Xem ra chiếc xe BMW đó có liên quan tới Hạ Tuyết rồi, muốn cược một phen.”
Hoàng hôn xuống, Hiệu trưởng Dư thấy Hạ Tuyết đang đứng ở cửa ngắm mặt trời lặn ở núi phía xa xa, bèn đi đến. Cũng chẳng biết nói gì, ông kể cho Hạ Tuyết nghe về Trương Anh Tài trước đây từng ở gian phòng này. Hạ Tuyết rất thờ ơ trước việc Trương Anh Tài vừa được chuyển chính thức đã có cơ hội đến học viện giáo dục tỉnh học hai năm, còn nói, học viện giáo dục không được tính là đại học chính quy, cũng giống như ngôi miếu ở trên núi Lão Sơn Giới, nhìn thì lúc nào cũng hương khói nghi ngút, nhưng những người gõ chuông tụng kinh, khoác áo thầy tu ấy toàn là “xuất gia nửa mùa”. Lão Sơn Giới là ngọn núi cao nhất ở vùng Giới Lĩnh, nhà sư trong miếu quả thực là nửa chừng xuất gia. Minh Ái Phần lúc còn sống từng nói ông ấy là sư rởm, sau đó ốm nặng, nằm trên giường suy nghĩ mông lung lắm, cho rằng mình vạ miệng, một ngày trước khi chết, còn lảm nhảm phải đích thân lên núi đến ngôi miếu đó thắp hương tạ tội.
Hạ Tuyết hiểu rõ những việc này như người địa phương, Hiệu trưởng Dư lấy làm lạ. Ông đổi cách khác hỏi vài lần, Hạ Tuyết vẫn không để bị nói hớ, thậm chí còn nói kiếp trước mình từng đầu thai ở Giới Lĩnh, vừa lên núi liền nhớ lại tất cả chuyện của kiếp trước.
Đến tối, Hiệu trưởng Dư không dám đi ngủ sớm, lo Hạ Tuyết đêm nằm mơ thấy ác mộng. Thức đến canh ba cũng không nghe thấy bất cứ động tĩnh gì, Hiệu trưởng Dư lại lo thứ khác. Khi mặt trời nhô lên khỏi dãy núi, cũng là lúc chào cờ, bóng hình của Hạ Tuyết cuối cùng cũng xuất hiện ở cửa sổ. Hiệu trưởng Dư mới yên tâm hơn. Cứ thế được vài ngày, sắp đến cuối tuần, Hiệu trưởng Dư tưởng Hạ Tuyết sẽ xuống núi, ít ra thì cũng đến thị trấn đi loanh quanh, không ngờ Hạ Tuyết chẳng đi đâu, một mình đến sau núi đào mấy cây hoa cúc dại, trồng vào bát mì ăn liền cũ, đặt ở trước cửa sổ thay cây cảnh.
Trong lòng không chút vướng bận, Hạ Tuyết không hề quan tâm chiếc BMW đó đã rời khỏi hay chưa.
Lại một tuần trôi qua, Hạ Tuyết có lời muốn nói.
Hạ Tuyết thấy khó coi vì ngày nào mới sáng tinh mơ Hiệu trưởng Dư cũng lôi đám học sinh từ trong chăn ra để chào cờ, Hạ Tuyết nói: “Cả nước bây giờ cũng chỉ có ở Quảng trường Thiên An Môn mới làm vậy, trường tiểu học Giới Lĩnh nên làm những việc thực tế, không cần phải làm giống như lớp Quốc gia.”
Nghe nói trong thành phố chỉ có sáng thứ hai hàng tuần mới tổ chức lễ chào cờ, Hiệu trưởng Dư há hốc miệng một lúc lâu mới nói: “Cấp trên chẳng phải có quy định về nếp sống văn minh, hằng ngày đều phải chào cờ hay sao?”
Lần này cũng may Tôn Tứ Hải phản ứng nhanh, ông nói: “Trường tiểu học Giới Lĩnh chỉ có mỗi việc này để gắn kết mọi người lại với nhau, hằng ngày nếu không chào cờ, người ngoài lại tưởng đây là ngôi miếu nát.”
Hạ Tuyết còn chủ trương áp dụng cách làm hiệu quả của các trường thành phố, tận dụng thời gian nghỉ trưa hoặc cuối tuần để bồi dưỡng cho những học sinh giỏi, một mặt có thể nâng cao trình độ của học sinh, mặt khác có thể thu một khoản phí nhất định, nâng cao phúc lợi và đãi ngộ cho giáo viên. Hiệu trưởng Dư thấy càng không hiểu nổi cái vế sau: cách làm nghĩ kế tăng thêm gánh nặng cho học sinh ngoài giáo trình là vi phạm Luật Giáo dục nghĩa vụ.
Rất rõ ràng, Hạ Tuyết muốn mang lại sự thay đổi mới mẻ cho trường tiểu học Giới Lĩnh. Khi Hạ Tuyết chưa nói những điều này, Hiệu trưởng Dư gọi cô là cô giáo Hạ, Đặng Hữu Mễ gọi cô là cô giáo Tiểu Hạ, Tôn Tứ Hải gọi cô là cô giáo Hạ Tuyết, thái độ của mọi người đều rất chân thành. Sau khi cô nói ra những đề nghị này, chẳng còn ai gọi cô là cô giáo nữa, mà gọi thẳng luôn cô là Hạ Tuyết.
Tháng đầu tiên, ngoài việc nghiêm túc lên lớp giảng bài, có thời gian Hạ Tuyết lại dẫn mấy học sinh ở nhà Hiệu trưởng Dư đến những nơi có phong cảnh đẹp gần đó ca hát, chơi trò chơi, thậm chí còn dạy học sinh ngâm thơ tình.
Hạ Tuyết chưa bao giờ tự nấu cơm, hàng sáng dùng bếp lò đun nước sôi, đổ đầy mấy cái phích, dùng để rửa mặt, tắm gội và ngâm mì tôm ăn. Hôm lên núi, Hạ Tuyết mang theo 90 gói mì tôm. Hiệu trưởng Dư cứ tưởng ăn hết chỗ mì đó, cô ấy sẽ nhóm bếp nấu cơm theo cách sống ở Giới Lĩnh. Ai ngờ đến ngày phát lương, kế toán Hoàng đã cất công nhờ một người mang 90 gói mì tôm cho Hạ Tuyết. Chiếc BMW vẫn đỗ ngoài cửa phòng giáo dục, mì tôm là người lái xe BMW mua rồi đưa cho kế toán Hoàng. Hạ Tuyết chẳng thèm nhìn lấy một cái, gọi Dư Chí và Lý Tử đến, bảo hai đứa chia cho học sinh cả trường 90 gói mì tôm. Sau đó, Hạ Tuyết lại nhờ người xuống núi, mua lại 90 gói mì tôm các vị theo lời dặn của cô ấy.
Trước khi phát lương lần sau, Hiệu trưởng Dư không nén nổi tò mò, tranh thủ rảnh rỗi xuống núi một chuyến. Từ xa đã nhìn thấy chiếc BMW bóng loáng đỗ trước cửa phòng giáo dục, một đường dây điện thoại tạm thời được kéo từ bưu điện xã đến cửa sổ xe. Người đàn ông trung niên lái xe đang ôm chiếc điện thoại, ngồi trong xe gọi điện thoại, chắc đường truyền không tốt nên anh ta buộc phải nói lớn tiếng, bên ngoài cửa sổ xe cũng nghe ra đang nói về chuyện làm ăn. Hiệu trưởng Dư đến chỗ kế toán Hoàng lĩnh hộ mấy giáo viên của trường số tiền được phát, nhân tiện hỏi về chiếc xe BMW. Kế toán Hoàng chỉ biết người lái xe đó đói thì ra nhà hàng ăn cơm, buồn ngủ thì ngủ trên xe, còn lại là ôm điện thoại để gọi điện.
Hiệu trưởng Dư vì thế cho rằng, bất kể Hạ Tuyết nói nghe hay cỡ nào, cuối cùng vẫn phải rời khỏi trường tiểu học Giới Lĩnh.
Thời tiết ở Giới Lĩnh từ mát chuyển lạnh thay đổi rất nhanh. Hạ Tuyết cất bộ váy trắng đi chẳng bao lâu thì đã phải lôi từ trong va-li ra chiếc áo khoác lông vũ màu gà non khoác lên người. Trời ngày càng rét, sau khi Hiệu trưởng Dư dẫn đầu đốt than để sưởi ấm, Đặng Hữu Mễ và Tôn Tứ Hải cũng một tay cầm giáo trình, một tay xách giỏ than đến lớp. Hạ Tuyết nhất quyết không sưởi bằng than, cô có hai đôi găng tay, lúc giảng bài, cô đeo đôi găng tay hở ngón cầm phấn viết chữ lên bảng, khi dùng nước lạnh để giặt quần áo thì đeo đôi găng tay cao su mỏng. Còn đến tối lúc đi ngủ, lại càng không sợ rét, cô mang theo chiếc túi ngủ lông vũ. Hạ Tuyết có chuẩn bị kỹ đến đâu rồi cũng có lúc sơ xuất. Phụ nữ ở Giới Lĩnh, mùa đông, chỉ gội đầu vào buổi trưa có mặt trời. Chắc là vì thành phố có cuộc sống về đêm, nên Hạ Tuyết đã quen gội đầu buổi tối. Tối hôm đó, gội đầu xong, Hạ Tuyết chờ mãi mà không khô, sáng tỉnh dậy, chỗ tóc chìa ra ngoài gối đã đông lại thành cục.
Khi Hạ Tuyết buồn rơi lệ, bên cạnh không có ai.
Hiệu trưởng Dư vẫn nhận ra, sau lễ chào cờ, ông nói với Hạ Tuyết: “Trời rét quá nhỉ!”
Hạ Tuyết giả vờ như không có chuyện gì: “Cháu còn đi Cửu Trại Câu vào mùa đông, ở đó còn rét hơn.”
Hiệu trưởng Dư nói: “Ở đây đường khó đi, hễ tuyết rơi là người trên núi không xuống được, người dưới núi cũng không lên được.”
Hạ Tuyết nói: “Làm giáo viên chỉ cần có phòng học là được, những người làm ăn buôn bán mới lo lưu thông không thông suốt.”
Trưa hôm sau, Hiệu trưởng Dư đang chặt củi ở cạnh bãi tập, Hạ Tuyết đi đến hỏi: “Ở Giới Lĩnh này không có thứ gì ô nhiễm, sao mà trời lại vàng thế ạ?”
Hiệu trưởng Dư dùng sức bổ đôi khúc gỗ thông, cũng không ngẩng đầu lên, chỉ nói: “Người vàng có bệnh, trời vàng có tuyết!”
Lúc tan học, Hiệu trưởng Dư nhắc nhở học sinh các nhóm đi về, nếu tối có tuyết rơi thì sáng sớm mai đi học phải cẩn thận, các nam sinh không được chơi trò ngồi máy bay trên tuyết, các nữ sinh tốt nhất là buộc một sợi dây thừng vào giầy.
Bãi tập trở nên trống vắng, chỉ còn hơn chục học sinh ở nhà Hiệu trưởng Dư đang chơi ở đó.
Hạ Tuyết làm ra vẻ như tình cờ hỏi từng học sinh đi qua chỗ mình, Hiệu trưởng Dư dự báo thời tiết có chuẩn không, có thật sắp rơi tuyết không? Dư Chí giơ cao cánh tay gầy gò lên, nói với cô, thời tiết thế này không cần đến Hiệu trưởng Dư dự báo, ngay cả đàn lợn cũng biết rúc vào chuồng, đương nhiên là sắp rơi tuyết rồi.
Đến nửa đêm, sau khi bị gió bấc làm cho giật mình thức giấc, Hiệu trưởng Dư láng máng nghe thấy tiếng người rất khẽ. Ông trở dậy, thấy đám học sinh đang ngủ say, liền nhẹ nhàng mở cửa, cửa sổ phòng Hạ Tuyết vẫn còn ánh đèn, theo gió rét đưa tới còn có tiếng ngâm thơ chứa chan tình cảm, nghe kỹ thì là một bài trong sách Ngữ văn lớp 6.
Đêm không có tuyết. Lúc tuyết rơi thì trời đã sáng.
Hạ Tuyết từ trước đến nay ngủ dậy đều không kịp dự lễ chào cờ, hôm nay lại xuất hiện ở phía sau hàng các em học sinh, buồn thiu nhìn theo lá cờ được kéo lên trong gió.
Sau lễ chào cờ, Hạ Tuyết đi đến thương lượng với Hiệu trưởng Dư chuyển hai tiết học buổi chiều lên buổi sáng. Hiệu trưởng Dư không hỏi lý do thì đồng ý luôn. Hạ Tuyết bận rộn trong lớp cả một buổi sáng, Hiệu trưởng Dư đến ngó ngoài cửa sổ vài lần, tiếng giảng bài của Hạ Tuyết đã dịu dàng hơn mọi khi, còn thường xuyên đi xuống giữa lớp, xoa xoa đầu các học sinh.
Tiếng chuông tan học tiết học cuối cùng vang lên, khi các em học sinh chạy ùa ra ngoài, Hạ Tuyết gọi giật Lý Tử lại, bảo cô bé lát nữa đến phòng mình. Lúc Lý Tử đến, Hạ Tuyết đã ăn xong mì tôm, cô đơn lẻ loi đứng trước cửa sổ.
Hạ Tuyết nhìn Lý Tử bằng ánh mắt kỳ quặc, bảo cô bé đến chỗ Tôn Tứ Hải nhắn một tiếng, nói là mình rất muốn nghe thầy ấy thổi sáo. Lý Tử đi rồi. Tôn Tứ Hải đang ăn cơm, nghe nói Hạ Tuyết muốn nghe sáo, liền đặt ngay bát đũa xuống. Lý Tử chưa về đến nơi, tiếng sáo đã vang lên. Tôn Tứ Hải có vẻ hiểu tâm sự của Hạ Tuyết, bài nào thổi nghe cũng nức nở ai oán.
Tiếng sáo vừa vang lên, Hạ Tuyết bất giác cũng ngâm cùng một bài thơ.
Tuy chỉ cách có một bức tường, nhưng tiếng sáo lại như từ nơi xa xôi vọng lại, nhẹ nhàng, mềm mại, chẳng khác gì những chiếc khung cửi cũ kỹ còn sót lại không nhiều ở vùng Giới Lĩnh này đang dệt tâm tư tình cảm của mọi người thành những sợi tơ, rồi lại đánh tan thành hàng nghìn hàng vạn nỗi niềm khúc mắc trong lòng. Tiếng sáo bay đến rồi lại bay đi, mang cả tâm tư của cô đi, thậm chí còn nhìn thấy cô bay qua cửa sổ, đuổi theo tiếng sáo trong khung cảnh trời đầy tuyết.
Hạ Tuyết vừa khe khẽ ngâm thơ theo tiếng sáo, vừa dùng tay chải nhẹ mái tóc của Lý Tử. Do thiếu dinh dưỡng nên Lý Tử đã có tóc bạc. Lý Tử nói, đó gọi là tóc bạc thiếu niên. Hạ Tuyết bảo Lý Tử, mình lớn lên ở thành phố chưa bao giờ nghe thấy ai mới 13, 14 tuổi đã có tóc bạc.
Hạ Tuyết nói: “Lớn như vậy rồi, em thấy thứ gì ăn ngon nhất?”
Lý Tử nghĩ ngợi rồi nói: “Ngon nhất là món cơm rang muối mẹ em làm.”
Hạ Tuyết lại hỏi: “Sau này nếu có điều kiện, em thích ăn gì nhất?”
Lý Tử bỗng xấu hổ, nói lí nhí: “Một ngày ba bữa em đều ăn cơm rang muối mẹ làm.”
Hạ Tuyết nói: “Hôm nào cô đến nhà em ăn thử cơm rang muối nhé, được không?”
Lý Tử ngập ngừng nói: “Thế thì phải nhân lúc bố em ngủ mới dẫn cô đến được.”
Hạ Tuyết hỏi: “Người nhà em không thích có khách đến chơi à?”
Lý Tử nói: “Dầu để nấu nướng trong nhà ít, nên mẹ em chỉ dám nhân lúc bố ngủ, mới dám rang cơm cho em ăn.”
Hạ Tuyết bỗng vươn tay ra ôm chặt Lý Tử vào lòng.
Do quá căng thẳng, Lý Tử đột nhiên hỏi: “Diệp Bích Thu bảo em rằng, hình như cô giáo Hạ thất tình, có phải không ạ?”
Hạ Tuyết lắc đầu nhưng nước mắt lại ứa ra.
Nhìn thấy Hạ Tuyết rơi nước mắt, Lý Tử lại thấy lòng nhẹ nhõm.
“Thời tiết ở Giới Lĩnh quá lạnh, trước đây thầy Trương từng nói, mùa đông dễ khiến người ta buồn bã.” Lý Tử liếc nhìn tờ thơ chép tay kẹp dưới tấm kính, lại nói mình nghe thầy Trương Anh Tài và thầy Tôn Tứ Hải từng nói: “Khi trong lòng phiền muộn, tốt nhất đừng đọc thơ của Lục Du và Đường Uyển, càng không nên đọc thơ của Phổ Hy Kim.”
Hạ Tuyết lại hỏi, thế mấy thầy có nói, những lúc thế này đọc thơ của ai tốt nhất không. Lý Tử nói với Hạ Tuyết, thầy Trương Anh Tài nói, lúc thất tình tốt nhất là đọc to mấy câu của Lý Thanh Chiếu “Sinh đương tác nhân kiệt, Tử diệc vi quỷ hùng, Chí kim tư Hạng Vũ, Bất khẩn quá giang đông”. Thầy Tôn Tứ Hải không đồng ý với quan điểm của thầy Trương Anh Tài, cho rằng khi phiền muộn, phải nói sai, sai, sai và không, không, không, giống như nước lũ sắp đến, khẩn trương khơi thông dòng chảy, như vậy sẽ không bị tắc nghẽn thành thiên tai.
“Cô thấy thầy Tôn nói có lý hơn.” Hạ Tuyết nói, “Mùa đông có lạnh đến mấy thì vẫn đợi được đến mùa xuân, nếu con tim đã nguội lạnh thì cả đời cũng không ấm trở lại được. Lý Tử này, thực ra cô rất hâm mộ em. Giống như lúc ăn mía, cô ăn từ phần gốc mía ngọt nhất đến phần ngọn nhạt hơn, còn em thì ăn từ phần ngọn nhạt hơn đến phần gốc. Cô càng ăn càng đắng, ngược lại, em càng ăn càng ngọt.
Dừng lại một lúc, Hạ Tuyết lại nói: “Nếu sau này có cơ hội vào thành phố, nhất thiết đừng tin vào những gã đàn ông có tiền thì vội vã đi mua xe BMW, càng không được tin những gã đàn ông đỗ xe BMW bên cạnh và bắt chuyện với em.”
“Em đã nghĩ kỹ rồi, ngoài người nhà ra, em chỉ tin Hiệu trưởng Dư, thầy Đặng, thầy Tôn và thầy Trương.” Lý Tử nói xong lại bồi thêm một câu: “Cả cô giáo Hạ nữa.”
Hạ Tuyết nói: “Em nhất định phải nhớ rằng, không được vội vã lên thành phố. Nếu trong lòng vẫn chưa thầm yêu trộm nhớ ai thì lại càng không được bất chấp tất cả để chạy lên thành phố. Vào thành phố muộn chút, thể chất và tinh thần đều sẽ càng kiên cường hơn.”
Tiếng sáo của Tôn Tứ Hải chìm dần trong dư âm dìu dặt.
Tiếng chuông báo hiệu tiết học đầu tiên của buổi chiều đã vang lên.
Hạ Tuyết nhét một bức thư vào túi xách của Lý Tử, bảo cô bé khi nào tan học mới mở ra xem.
Những bông tuyết vẫn đang rơi lã chã, đã có tuyết đọng lại trên mặt đất.
Hiệu trưởng Dư nhìn thấy Lý Tử ra khỏi phòng ký túc của Hạ Tuyết mới bấm chuông vào học. Hiệu trưởng Dư bước vào phòng học, vừa bảo học sinh mở trang 31 sách giáo khoa thì bỗng lên cơn ho dữ dội. Ông dùng khăn mùi xoa bụm miệng lại cũng không ăn thua, trước là đứng ho, sau là gập người xuống để ho, cuối cùng phải ngồi bệt xuống đất để ho. Đám học sinh nhẫn nại ngồi nghe một lúc, hình như nghe Lý Tử nói câu gì đó, cả lớp bỗng cười ồ lên. Tiếng ho của Hiệu trưởng Dư cũng im bặt. Sau khi đứng lên, vốn muốn bảo các em học sinh mở trang 31, nhưng không hiểu sao lại nói là trang 13. Lũ học trò lại cười ngả nghiêng.
Hiệu trưởng Dư gõ thước xuống bàn nói: “Thầy đã dạy các em rồi, ho là phản ứng sinh lý làm sạch đường hô hấp, có gì mà buồn cười?”
Lũ học trò vẫn cười, hơn nữa mắt cứ nhìn vào Lý Tử.
Thấy Hiệu trưởng Dư đang nhìn mình, Lý Tử đành đứng dậy nói: “Là em nói nhầm ạ, không nên nói Hiệu trưởng Dư giống Châu Tinh Trì.”
“Châu Tinh Trì là ai?” Hiệu trưởng Dư cố tình hỏi, “Cũng là giáo viên dân lập à?”
Lý Tử nói: “Là cô Hạ nói ạ. Những bộ phim Châu Tinh Trì đóng đều rất buồn cười, có một lần, ông ta ho ra một đống, lấy tay đỡ, hóa ra là phổi của mình.”
Hiệu trưởng Dư cũng không nén nổi cười theo đám học trò. Cho đến khi một cơn gió to thổi tung cửa phòng học, cuốn vào trong rất nhiều tuyết, phòng học mới yên tĩnh trở lại.
Sau khi Hiệu trưởng Dư bắt đầu giảng bài, theo nội quy trên lớp, Lý Tử đặt một tay trên bàn, một tay lại không ngừng lần mò trong túi xách. Cho dù phát hiện Hiệu trưởng Dư đã trông thấy, nhưng Lý Tử cũng chỉ tạm thời dừng lại. Nếu như mọi khi, làm những động tác như vậy không những bị phê bình, mà còn phải móc đồ ở trong túi ra. Thông thường, những thứ moi ra đều là những đồ linh tinh như quả trứng luộc, đồng xu, v.v... Vì Lý Tử là con gái, lại có mối quan hệ với Tôn Tứ Hải, Hiệu trưởng Dư vừa giảng bài vừa nghĩ, nhỡ túi xách của con bé đựng đồ dùng cho phụ nữ đến tháng, bắt nó lấy ra, chẳng phải là mất mặt lắm sao. Tại cuộc họp về giáo vụ, Tôn Tứ Hải nhiều lần nhắc ông và Đặng Hữu Mễ, Tôn Tứ Hải cũng chỉ là nghe Vương Tiểu Lan nói, con gái bây giờ mới học lớp 5, 6 đã thấy kinh nguyệt là chuyện bình thường.
Do dự nên Hiệu trưởng Dư không lên tiếng.
Lúc sắp hết tiết một, Lý Tử đột nhiên hét lên như trời sắp sập: “Hiệu trưởng Dư, thầy đừng để cô Hạ đi!”
Hiệu trưởng Dư dường như đã có sự chuẩn bị, bước xuống khỏi bục giảng, đi đến trước mặt Lý Tử.
Lý Tử đưa cho Hiệu trưởng Dư bức thư Hạ Tuyết bảo nó sau khi tan học mới xem.
“Lý Tử: Làm ơn nói với các bạn, cô vô cùng xin lỗi, cô Hạ của các em buổi trưa sẽ xuống núi, sẽ không bao giờ quay lại nữa. Hai hôm nay, Hiệu trưởng Dư luôn giục cô, sợ cô bị mắc kẹt trên núi vì tuyết dày, bởi vì thầy biết cô sẽ rời khỏi nơi này. Các trò không hiểu cô, còn cô cũng đến tối hôm qua mới hiểu chính mình. Hành lý mang theo lúc lên núi đều để ở phòng ký túc, đó là tuổi trẻ và tình yêu của cô, là sự tươi đẹp và trong trắng của cô, cô không mang theo được nữa rồi, nhờ em thay cô dùng tiếp. Chiếc váy cưới màu trắng đó là cô tự mua cho mình bằng tiền mừng tuổi tích cóp được từ nhỏ vào ngày sinh nhật lần thứ 18. Từ khi còn rất nhỏ cô luôn mong được làm cô dâu, bây giờ điều cô hận nhất là làm vợ người khác. Nếu không chê chiếc váy cưới đó xấu, thì đợi khi nào em và người mình yêu tổ chức đám cưới, coi như đó là món quà mừng cô tặng nhé! Ngoài ra, em giúp cô thêm một việc, nói với Hiệu trưởng Dư, cô mang vở bài tập Ngữ văn của các em đi, vì nó có thể chứng minh cô vẫn còn chút nhân cách, vẫn có thể sống tiếp. Hạ Tuyết.”
Đọc xong thư, Hiệu trưởng Dư vứt thước, chạy ra ngoài lớp học: “Người Giới Lĩnh thật là vô phúc, cô giáo tốt như vậy nhưng không giữ được!”
Tôn Tứ Hải hiểu ra, ông nói: “May mà thổi sáo rồi, coi như chúng ta tiễn cô ấy vậy!”
Hiệu trưởng Dư khăng khăng đòi tiễn Hạ Tuyết. Ông giao lại cho Đặng Hữu Mễ và Tôn Tứ Hải mọi việc trong trường, một mình đội tuyết chạy xuống núi.
Hiệu trưởng Dư chạy cả quãng đường nhưng cũng không đuổi kịp để nói lời từ biệt Hạ Tuyết.
Lúc có tuyết, trời tối nhưng mặt đất vẫn sáng.
Chỉ cách nhau có 20 phút, trước cửa phòng giáo dục chỉ còn lại hai vết bánh xe.
Qua Trưởng phòng Vạn Hiệu trưởng Dư được biết, sau khi từ trên núi xuống, Hạ Tuyết không nói câu nào, chỉ tát cho người đàn ông xuống xe đón cô ấy một cái. Người đàn ông đó không hề giận, còn cười trừ ôm ngang người cô ấy, đưa cô ấy vào xe, sau đó ngay cả chiếc điện thoại lắp riêng cũng không cần, đóng cửa xe là vọt đi luôn. Bị vứt lại còn có quá nửa can xăng 97 dành riêng cho con xe BMW vừa chở từ trên tỉnh xuống hai hôm trước.
Thực ra, khi chiếc BMW đi đến chỗ rẽ đầu tiên đã dừng lại. Hạ Tuyết từ trong xe thò đầu ra, mặc kệ tuyết rơi nôn oẹ một hồi, dường như vẫn không ăn thua, đành phải chui ra khỏi xe, ngồi trên tuyết nôn khá lâu. Trước khi lên xe, Hạ Tuyết còn ôm mặt khóc. Từ phòng quản lý kế hoạch hóa gia đình tan tầm về nhà, Lý Phương, vợ Trưởng phòng Vạn vừa vặn nhìn thấy cảnh này. Cô ấy quả quyết rằng, Hạ Tuyết đã có thai. Khi Lý Phương hý hửng chui vào phòng giáo dục nói điều này, Hiệu trưởng Dư vẫn chưa về. Nhìn Lý Phương bấm ngón tay tính đi tính lại thời gian Hạ Tuyết ở trên núi có khớp với thời gian thai nghén hay không, Hiệu trưởng Dư rất muốn nói với bà ấy rằng, bà chưa sinh con bao giờ, đừng có đoán mò.
Từ dưới núi trở về, Hiệu trưởng Dư đến xem căn phòng Hạ Tuyết từng ở. Bài thơ chép tay kẹp dưới tấm kính khi Hạ Tuyết đến vẫn còn đó. Lý Tử đi đằng sau ông nói, bài thơ cô Hạ Tuyết ngâm trước khi đi chính là bài thơ này. Hiệu trưởng Dư lẩm nhẩm đọc một lượt, trong lòng cũng rất cảm động.