• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Thiên hành giả
  3. Trang 16

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • 17
  • More pages
  • 32
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • 17
  • More pages
  • 32
  • Sau

14

T

rước kỳ nghỉ Đông, Hiệu trưởng Dư kéo Đặng Hữu Mễ đến ủy ban thôn hai lần, nhưng đều không gặp quyền Trưởng thôn Dư Thực. Con đường trước cửa ủy ban thôn là dễ đi nhất, sắp đến Tết rồi, mỗi lần đến là mỗi lần thấy lòng nguội lạnh thêm. Lần thứ ba thì gặp. Trưởng thôn Dư Thực đang sưởi ấm, biết rõ họ đến là để đòi tiền lương, nhưng lại cố tình chỉ trích họ là lòng dạ hẹp hòi, chỉ vì không muốn người khác biết giáo viên dân lập tố chất thấp kém, nên đã loại bỏ cả một giáo viên trình độ đại học cấp trên cử đến, lão kế toán ngồi cạnh cũng hùa theo, nếu trường tiểu học Giới Lĩnh sử dụng toàn bộ giáo viên công lập thì sẽ bớt được những khoản chi ngoài định mức, sẽ giảm bớt không ít gánh nặng cho thôn. Lão kế toán giải thích, ý ông ấy là mong tất cả giáo viên dân lập ở trường tiểu học Giới Lĩnh ngày mai đều được chuyển chính thức. Khác với lão kế toán, những lời Trưởng thôn Dư Thực đã nói thì ngay cả dấu chấm dấu phẩy cũng không cho người khác sửa.

Trưởng thôn Dư Thực còn nói: “Các anh chẳng phải luôn khoe khoang kiềng ba chân còn gì, sao lại chỉ có hai người đến, hay là để lại một người làm vũ khí bí mật?”

Đặng Hữu Mễ nói: “Trưởng thôn là vũ khí hạt nhân. Có vũ khí hạt nhân rồi, thì vũ khí bí mật cũng vứt đi.”

Trưởng thôn Dư Thực: “Nếu là vũ khí hạt nhân thật, tôi sẽ cho nổ quả núi Giới Lĩnh này thành bình địa, mời giáo sư Bắc Đại, Thanh Hoa đến dạy cho con cái chúng ta, tránh để người khác nói người Giới Lĩnh mù chữ, không có được một sinh viên đại học.”

Lão kế toán lúc đó lại nói: “Hiệu trưởng Dư này, nếu anh dám nói chắc chắn một câu, bảo đảm con trai trưởng thôn sau này thi đỗ đại học, thì không chỉ phát toàn bộ số lương đã nợ các anh, mà còn phát trước cho các anh tiền lương trong vài năm tới.”

Trưởng thôn Dư Thực cũng nói: “Làm kế toán không được nói chơi, những lời nói ra đều là tiền đấy!”.

Cơn gió lạnh luồn vào từ khe cửa thổi bùng những cục than củi đang bốc khói đen trong chậu than, Đặng Hữu Mễ giả vờ giơ tay ra sưởi, nhân tiện cúi thấp đầu để người khác không nhìn thấy nét mặt: “Miễn là chịu học là có cơ hội, tuy nhiên, có hy vọng nhất vẫn là con trai cưng của trưởng thôn, Dư Tráng Viễn.

Không ngờ Hiệu trưởng Dư không đồng ý, lắc đầu nói: “Trong số những học sinh hiện nay, nếu nói về ham học và biết cách học, có khả năng đỗ đại học nhất là Diệp Bích Thu.”

Trưởng thôn Dư Thực nói một cách quái gở: “Ông đi tìm bố Diệp Bích Thu mà đòi tiền lương!”

Đặng Hữu Mễ vội nói: “Con trai cưng của trưởng thôn vẫn đang học lớp 4, Diệp Bích Thu đã học lớp 6 rồi, ý của Hiệu trưởng Dư là theo thứ tự tự nhiên.”

Đúng lúc đang nói chuyện thì bố Diệp Bích Thu đi qua ủy ban thôn, Trưởng thôn Dư Thực gọi ông ấy lại, nói lại lời của Hiệu trưởng Dư. Bố Diệp Bích Thu thở dài thườn thượt, nói e là Diệp Bích Thu có thiên phú nhưng lại không có cái phúc này, cả nhà đã bàn bạc xong xuôi rồi, học hết học kỳ này coi như học xong tiểu học, trường trung học cơ sở trên xã nhường cho người khác học vậy, Diệp Bích Thu phải ra ngoài tìm việc làm, kiếm chút tiền, chuẩn bị cho mình của hồi môn sau này còn lấy chồng. Trưởng thôn Dư Thực bảo ông ấy, Hiệu trưởng Dư cho rằng Diệp Bích Thu sẽ là sinh viên đại học đầu tiên của Giới Lĩnh. Bố Diệp Bích Thu rất khôn khéo, thuận theo ý nói, học đại học không những phải thi đỗ mà còn phải có tiền để học, với hai điều kiện này, sinh viên đại học đầu tiên của Giới Lĩnh không phải công tử của trưởng thôn, Dư Tráng Viễn thì còn ai vào đây nữa.

Trưởng thôn Dư Thực nói: “Ăn Tết xong, ông đến trường tiểu học Giới Lĩnh làm hiệu trưởng nhé, đừng làm thợ nề nữa.”

Bố Diệp Bích Thu giờ mới phát hiện trong lời nói của Trưởng thôn Dư Thực có bẫy, vội vàng nghĩ cách thoát thân: “Trưởng thôn Giới Lĩnh không phải Trưởng thôn Dư thì còn ai vào đây nữa, hiệu trưởng trường học không phải Hiệu trưởng Dư thì còn ai vào đây nữa.”

Đôi co một hồi, tiền lương vẫn không được lĩnh.

Đặng Hữu Mễ ít khi trách móc thẳng Hiệu trưởng Dư, lần này thì quả thực không thể nhịn được nữa, từ ủy ban thôn đi ra, Đặng Hữu Mễ nói: “Hiệu trưởng Dư này, làm sao mà anh lại học theo cái kiểu của Tôn Tứ Hải rồi, ngay cả câu vè cũng không biết nói.”

Hiệu trưởng Dư nghĩ ngợi một lúc mới nói: “Không chỉ có Tôn Tứ Hải, còn cả Trương Anh Tài và Hạ Tuyết, tôi cũng thấy mình bị ảnh hưởng của họ.”

Hai người ỉu xìu về trường, Tôn Tứ Hải vẫn đang thổi sáo ở bãi tập không những không thông cảm, còn nói: “Tôi đã nói từ lâu rồi, làm như vậy là tự chuốc lấy nhục nhã.”

Đặng Hữu Mễ tức giận nói: “Thanh cao có ăn được không?”.

“Tại các anh không dám để tôi đi”. Tôn Tứ Hải nói, “Rồi sẽ có ngày tôi nói thẳng vào mặt bọn họ, trường học không phải chỉ có ba người chúng ta, có giỏi thì đến mà đóng cửa trường này.”

Đặng Hữu Mễ nói: “Chủ nhiệm Tôn có gan như vậy, thôi thì bảo Dư Thực nhường vị trí trưởng thôn cho anh luôn đi.”

Hiệu trưởng Dư không muốn để hai người nói tiếp: “Có thể nhịn nỗi nhục quỳ gối, chứ không ăn miếng cơm đi xin, mỗi người có một cách sống khác nhau.”

Tôn Tứ Hải cố bồi thêm một câu: “Cuộc bầu cử lần trước, Dư Thực kém ba phiếu, chắc chắn ông ta đổ hết lỗi lên đầu chúng ta rồi. Vì thế, chúng ta có làm gì đi nữa cũng là uổng công vô ích mà thôi. Theo tôi, lần sau khi bầu cử, mình cứ ra giá rõ ràng, ai ủng hộ chúng tôi, chúng tôi ủng hộ người ấy, còn có thể để học sinh về nhà làm công tác tư tưởng với phụ huynh nữa.”

Đặng Hữu Mễ đương nhiên cũng không chịu kém phân, nói: “Vòng vo tam quốc thế làm gì cho khổ, hay là Chủ nhiệm Tôn đích thân xuất quân so tài cao thấp với trưởng thôn luôn đi!”

Nói xong câu này, cả ba người cười ồ lên.

Cũng không biết có phải trùng hợp không, vào giờ nghỉ giải lao giữa giờ sáng hôm sau, có người dùng phấn viết hai dòng trên bảng trong phòng học lớp 6: Chúng em nhớ cô giáo Hạ Tuyết! Chúng em cũng nhớ thầy Trương Anh Tài! Lời nói đơn giản nhưng theo Hiệu trưởng Dư và mấy người họ, lại có ý nghĩa sâu xa khác, còn về có phải nhằm vào mấy giáo viên dân lập hay không thì không chắc chắn lắm. Sau khi biết là Diệp Bích Thu viết, bề ngoài Hiệu trưởng Dư thở phào nhẹ nhõm - vì nâng đỡ Diệp Bích Thu mà làm mếch lòng Trưởng thôn Dư Thực, người mà Diệp Bích Thu nhớ trong lòng lại là người khác, điều này khiến sức ép trong lòng ông càng lớn hơn.

Thi hết học kỳ vừa kết thúc, Trưởng phòng Vạn đến trường tiểu học Giới Lĩnh kiểm tra định kỳ.

Lớp 6 mà Hạ Tuyết từng dạy, điểm số bình quân thấp hơn so với mọi năm gần 10 điểm.

Trưởng phòng Vạn lấy làm lạ. Theo sự bố trí thống nhất của phòng giáo dục huyện, các kỳ thi giáo dục nghĩa vụ phải thể hiện được mục đích của giáo dục nghĩa vụ. Những người có liên quan lĩnh hội tinh thần hội nghị, bài thi do họ thống nhất ra đề, hạ thấp rõ rệt độ khó của đề thi. Thành tích của học sinh phải hơn những năm trước mới phải. Trường tiểu học Giới Lĩnh có ba lớp, chỉ có ba giáo viên, mỗi lần kiểm tra thi cử, theo quy ước, bài thi lớp Hiệu trưởng Dư do Đặng Hữu Mễ chấm, bài thi lớp Đặng Hữu Mễ do Tôn Tứ Hải chấm, bài thi lớp Tôn Tứ Hải do Hiệu trưởng Dư chấm, tuy Tôn Tứ Hải và Đặng Hữu Mễ thỉnh thoảng có xảy ra cãi cọ, nhưng luôn tuân thủ nghiêm ngặt quy định. Trưởng phòng Vạn tìm hiểu nội tình, mở bài thi của Dư Chí, Lý Tử và Diệp Bích Thu ra xem, phát hiện Hiệu trưởng Dư và mấy người họ lần này chấm bài không chỉ là nghiêm khắc, mà là hà khắc, chỉ cần trên bài có vết tẩy sửa đều trừ nửa điểm.

Thế là Trưởng phòng Vạn đi hỏi Hiệu trưởng Dư, có phải gần đây gặp phải vấn đề khó giải quyết không.

Hiệu trưởng Dư cũng không giấu giếm, nói hết những gì lần trước Trưởng thôn Dư Thực đã nói.

Trưởng phòng Vạn trong lòng hiểu rằng, nói về dạy học, Hiệu trưởng Dư và mấy người họ tuy đã làm giáo viên dân lập gần 20 năm, sinh viên đại học vừa ra trường giống như Hạ Tuyết thì vẫn lợi hơn họ một nước. Hiệu trưởng Dư và mấy người họ làm như vậy chẳng qua cũng chỉ muốn chứng minh năng lực dạy học của Hạ Tuyết không bằng mình, để giữ cho được chút lòng tự ái đáng thương của giáo viên dân lập.

Thời tiết tuy không được tốt lắm, nhưng dăm ba ngày tới sẽ không có tuyết.

Sau bữa trưa, Trưởng phòng Vạn đang ngồi nhắm mắt dưỡng thần cạnh chậu than, thì mơ mơ màng màng nhìn thấy một người phụ nữ ăn mặc giản dị, chân tay gầy gò đi đi lại lại trước mặt, giặt giũ khâu vá làm không ngơi tay, Trưởng phòng Vạn rất muốn xem có phải là Minh Ái Phần không, với tay túm tóc cô ta, cô ta không chịu quay đầu lại. Khi đang nghĩ làm sao mà Hiệu trưởng Dư lại có diễm phúc như vậy, thì người phụ nữ đó quay đầu lại cười một cái, là Lam Tiểu Mai mẹ của Lam Phi. Trưởng phòng Vạn trong lòng hoảng sợ, tỉnh lại mới phát hiện mình đã nằm mơ.

Cũng vì giấc mơ này, Trưởng phòng Vạn vốn muốn xuống núi sớm một chút đã thay đổi ý định, quyết định ở lại trường tiểu học Giới Lĩnh một hai ngày, nhất định phải gặp cho được Trưởng thôn Dư Thực.

Kết thúc kỳ thi cuối học kỳ cũng đồng nghĩa với việc nghỉ hè. Đám học sinh về hết, nhà Hiệu trưởng Dư trở nên trống vắng. Trưởng phòng Vạn ăn cơm tối ở nhà Hiệu trưởng Dư, tuy có Đặng Hữu Mễ và Tôn Tứ Hải ngồi cùng, nhưng vẫn cảm thấy lạnh lẽo. Nói ra mới thấy không phải thiếu tiếng ồn ào của học sinh, mà là thiếu một người phụ nữ.

Trưởng phòng Vạn nói: “Anh Dư này, hay là tái hôn đi!”

Hiệu trưởng Dư: “Làm giáo viên dân lập, lấy vợ không phải chuyện dễ dàng.”

Đặng Hữu Mễ nói: “Ý Hiệu trưởng Dư là không được chuyển lên giáo viên công lập thì không lấy vợ.”

Trưởng phòng Vạn nói: “Thời ‘Cách mạng Văn hóa’ đúng là thường xuyên có người thề rằng không được vào Đảng sẽ không lấy vợ.”

Mọi người đều cười, chỉ có Tôn Tứ Hải không nói năng gì.

Thấy cũng không thể lẩn tránh được, Trưởng phòng Vạn quyết định nói thẳng. Ông nói: “Chủ nhiệm Tôn này, việc của anh và Vương Tiểu Lan cũng không thể cứ kéo dài mãi thế nay được, dù là cô ấy ly hôn, nhưng vẫn về chăm sóc chồng cũ nằm liệt trên giường cũng được. Chưa biết chừng còn có thể bình chọn làm tấm gương về đạo đức.

Mắt Tôn Tứ Hải có cái gì đó lóe lên.

Đặng Hữu Mễ nói thay ông ấy: “Giới Lĩnh không có đạo đức như vậy, càng không có tấm gương như vậy.”

Tôn Tứ Hải ngẩng đầu lên nói: “Tôi nói với Vương Tiểu Lan một lần rồi, nhưng việc này lại khiến cô ấy khóc vô số lần!”

Trưởng phòng Vạn càng ngày càng giống lãnh đạo, nói hết lời của mình xong liền lập tức chuyển đề tài, hỏi mọi người có muốn xin thêm một giáo viên chi viện để tăng cường lực lượng dạy học của trường nữa hay không.

Trưởng phòng Vạn: “Tôi vốn muốn để Trương Anh Tài trở lại tiếp tục làm việc với mọi người, không ngờ học viện giáo dục tỉnh lại cho cháu nó một cơ hội, miễn là học thêm một năm, là có thể nhận bằng cử nhân đại học chính thức, chứ không phải chứng chỉ tập huấn bình thường. Trương Anh Tài cũng có nguyện vọng này, phòng giáo dục huyện cũng đồng ý, vì vậy để cháu nó học thêm một năm.”

Trưởng phòng Vạn chủ động nhắc đến Trương Anh Tài, Đặng Hữu Mễ tiếp lời ông nói: “Thầy Trương còn trẻ, sau này còn nhiều cơ hội để cống hiến, một năm ăn thua gì.”

Tôn Tứ Hải tiếp lời Đặng Hữu Mễ nói: “Trưởng phòng Vạn khách sáo rồi, ông lại cho là thật rồi. Lúc làm giáo viên dân lập, Trương Anh Tài là người của trường tiểu học Giới Lĩnh, thành giáo viên công lập là người nhà nước, có về Tây Hà được hay không rất khó nói.”

Lúc này Hiệu trưởng Dư mới sực nghĩ ra, Trưởng phòng Vạn bề ngoài là đến trường tiểu học Giới Lĩnh để kiểm tra công tác, nhưng trong lòng muốn giải thích với họ việc của Trương Anh Tài. Ông hiểu rằng việc này phải chấm dứt tại đây, không thể để Đặng Hữu Mễ nói tiếp. Những lời của Đặng Hữu Mễ rất dễ khiến Tôn Tứ Hải tìm ra sơ hở để công kích, nếu để họ giống như nói tương thanh, một người tâng bốc, một người pha trò thì Trưởng phòng Vạn sẽ rất khó xử.

Vì thế, Hiệu trưởng Dư buộc phải nhắc đến Hạ Tuyết chạy trốn đến vùng cao này.

Nhắc đến Hạ Tuyết và xe BMW, Trưởng phòng Vạn quả nhiên phấn chấn hẳn lên.

Theo suy đoán của Trưởng phòng Vạn, ngoài việc lúc đang học có mối quan hệ không bình thường với người đàn ông lái xe BMW ra, các mặt khác của Hạ Tuyết không có gì đặc biệt. Từ khi ông làm trưởng phòng giáo dục, chứng kiến các loại chuyện kỳ quặc. Chẳng hạn như có một sinh viên tên là Văn Văn, có tên ở phòng giáo dục ba năm, không rõ là nam hay nữ nhưng tháng nào cũng chuyển tiền lương vào thẻ ngân hàng của người đó. Cách đây không lâu, người của phòng giáo dục lôi ra một bản tài liệu khen ngợi Văn Văn làm thế nào cắm rễ ở nông thôn, còn có giấy chứng nhận ba năm liền được bình chọn là nhà giáo ưu tú, rồi bảo phòng giáo dục đóng dấu, sau đó cầm hồ sơ của người đó đi.

Nếu Trưởng phòng Vạn muốn tìm hiểu tình hình của Hạ Tuyết cũng không phải không có cách, gửi một bức công hàm đến trường đại học của Hạ Tuyết là xong. Trưởng phòng Vạn không làm như vậy cũng có lý của ông ấy: Là một giáo viên chi viện, theo quy định, Hạ Tuyết phải công tác hai năm, mặc dù chỉ có vài tháng, nhưng biểu hiện của Hạ Tuyết cũng rất đáng quý, nhỡ cô ấy và trường trao đổi không được thông suốt, mạo muội gửi thư đi, có khi lại khiến sự việc thêm rắc rối.

Tối hôm đó, Trưởng phòng Vạn ngủ ở phòng Trương Anh Tài và Hạ Tuyết từng ở, cứ nhớ lại khung cảnh hồi đó sống và làm việc trong căn phòng này. Mãi mới ngủ được, Trưởng phòng Vạn lại bắt đầu nằm mơ, ông lại ngồi giữa đám học sinh, nghe Minh Ái Phần gảy đàn Phượng hoàng cầm. Đột nhiên dây đàn đứt, bật ngược lại quấn vào cổ mình. Trưởng phòng Vạn giật mình tỉnh giấc, ngồi trên giường cười gượng. Sau khi ngủ lại, giấc mơ ban nãy lại trở lại: tiếng đàn Phượng hoàng cầm Minh Ái Phần đang đánh chẳng khác gì phim võ hiệp Hongkong, biến thành vô số mũi tên phóng về phía ông.

Cứ vậy vài lần, thì trời cũng sáng. Trưởng phòng Vạn lặng lẽ trở dậy, đi xuống thôn dưới, gõ cửa một cửa hàng đại lý, mua một xấp tiền vàng mã, cầm đến sau núi đốt trước mộ Minh Ái Phần. Làm xong việc này, Trưởng phòng Vạn viết một tờ giấy đặt lên bàn, nói cho Hiệu trưởng Dư biết mình đi đâu.

Đi được nửa tiếng, người vừa mới nóng lên thì đến nhà Trưởng thôn Dư Thực. Vợ Dư Thực đang cho gà ăn trước cửa, thấy Trưởng phòng Vạn, vội vã quay vào nhà gọi: “Lãnh đạo xã đến đấy.” Trưởng thôn Dư Thực mặc vội quần áo chạy ra, trông thấy Trưởng phòng Vạn lập tức tỏ ra thất vọng không ít.

Vừa ngồi xuống, Trưởng thôn Dư Thực chủ động nói trước: “Hiệu trưởng Dư đúng là phách lối, được cả anh giúp đòi nợ.”

Trưởng phòng Vạn cười cười: “Tôi dù sao cũng là lãnh đạo cao nhất trong giới giáo dục của xã, chút việc cỏn con đó không cần tôi can thiệp, trưởng thôn lỏng tay một chút là xong việc. Hôm nay tôi đến là muốn thương lượng với anh về việc có nên mở trường tiểu học Giới Lĩnh nữa không?”

Trưởng thôn Dư Thực nói: “Mở thì sao, còn không mở thì sao?”

Trưởng phòng Vạn nói: “Không mở nữa đương nhiên dễ bàn, sáp nhập trường vào thôn bên cạnh.”

Trưởng thôn Dư Thực nói: “Tốt quá, cắt tai đi, đầu sẽ nhẹ đi một nửa.”

Trưởng phòng Vạn nói: “Thảo nào mọi người đều nói người Giới Lĩnh thật thà, nói câu khó nghe thì là ngu xuẩn. Thời buổi bây giờ có nhà nào không có con không? Bỏ trường đấy không mở, để mọi người đưa con đến nơi khác học. Chưa nói đến thành tích điều hành của cán bộ thôn khóa này như thế nào, chỉ tính riêng mỗi người một lá phiếu, cũng đủ khiến cho người làm trưởng thôn như ông lỗ nặng trong cuộc bầu cử khóa sau.”

Trưởng thôn Dư Thực muốn nói gì đó, bị Trưởng phòng Vạn ngăn lại.

Trưởng phòng Vạn bịa ra một câu chuyện: “Tuần này tôi đã đến hai thôn, người ta quả là sáng suốt hơn người, nơi khác đều nói nghèo đến mấy cũng không thể thiếu giáo dục, khổ đến mấy cũng không để con phải khổ, họ mở miệng là nói dù khổ đến mấy cũng không thiếu giáo dục, dù khổ đến mấy cũng không để thầy giáo phải khổ. Còn nói, những người không ủng hộ giáo dục là kẻ địch chính trị của họ. Người ta còn có ý nói với tôi rằng, từng lấy vấn đề có mở trường học nữa không để thăm dò người khác, kết quả chứng minh, phàm là những người không ủng hộ mở trường đều có dụng tâm khác.”

Trưởng thôn Dư Thực nói: “Thôn không có khả năng mở trường, cũng không thể tự vả vào mặt rồi làm ra vẻ mình béo được.”

Trưởng phòng Vạn nói: “Đất Giới Lĩnh này tuy nhỏ, nhưng lý lẽ thì như nhau cả. Anh và tôi đều biết rằng, thực ra những việc mà các vị lãnh đạo cấp cao làm đều na ná nhau cả thôi. Vì sao có người được khen, có người bị chê, nguyên nhân là ở chỗ có đối đãi tử tế người có văn hóa hay không thôi. Vì vậy, về việc công hay việc tư tôi đều phải khuyên anh nhớ một chân lý, đối với những người lăn lộn trên quan trường mà nói, người có văn hóa tuy không thể tác thành chuyện của anh, nhưng lại có thể làm hỏng chuyện của anh. Cái này gọi là thành công thì ít, hỏng việc thì nhiều.”

Trưởng thôn Dư Thực nói: “Tôi không sợ điều này, tôi chỉ thực sự cầu thị.”

Trưởng phòng Vạn nhìn hơn chục tờ giấy khen dán trên tường: “Nói đến thực sự cầu thị, tôi lại phải nhắc anh. Vừa rồi nói toàn là đạo lý lớn, anh nghe hay không thì tùy, tôi chỉ nói thêm vài câu đúc kết từ kinh nghiệm bản thân, đừng thấy con trai anh mang về nhiều giấy khen thế này mà chủ quan đâu, nếu không có trường tiểu học Giới Lĩnh, cho nó đến trường khác học, dù cho anh có ngày nào cũng mời người ta uống rượu, cũng không thể bằng Hiệu trưởng Dư và mấy người họ chăm sóc con trai anh, như thế gọi là bên ngoài có ăn sơn hào hải vị cũng không bằng về nhà ăn bát cháo.”

Trưởng phòng Vạn lấy từ trong túi xách ra một quyển vở bài tập đưa cho Trưởng thôn Dư Thực. Trưởng thôn Dư Thực giở vài trang, bên trong bút đỏ sửa chi chít, trong mười câu hỏi, có đến bốn năm câu bị thầy gạch chéo, xem kỹ hơn hóa ra là của con trai. Trưởng thôn Dư Thực không tin, vì từ trước đến giờ con trai mang vở bài tập về đều rất sạch sẽ, rất ít lỗi. Trưởng phòng Vạn nói thật với ông ấy, đây chính là điểm có lợi của việc mở trường tiểu học Giới Lĩnh ở Giới Lĩnh, Hiệu trưởng Dư và mấy người họ từ trước đến nay đều không nề hà phiền phức ưu tiên chấm bài cho con trai anh, rồi bảo cháu nó chép lại vào một quyển vở khác, không phải chỉ vì để cho đẹp mặt, mà còn tránh để sau khi về nhà bị ăn đòn ăn mắng, điều quan trọng là để cháu nó có ấn tượng sâu hơn về cách giải bài đúng.

Trưởng thôn Dư Thực trố mắt ra nhìn một lúc mới nói: “Nếu muốn thuận tiện, chẳng thà mời người đến nhà dạy.”

Trưởng phòng Vạn nói: “Chả trách trường tiểu học Giới Lĩnh không được coi trọng, hóa ra là vì anh không hề biết những người xung quanh tốt đến nhường nào. Tôi từng làm giáo viên dân lập, sau chuyển chính thức thành giáo viên công lập, sau đó lại làm lãnh đạo trong lĩnh vực giáo dục, vì thế tôi muốn nói với anh một câu tâm huyết, những giáo viên bình thường chỉ coi học sinh là học sinh, nhưng giáo viên dân lập thì khác, họ sinh sống gắn bó với mảnh đất này, luôn coi học sinh như con của mình, thành tích có kém đến mấy cũng là cốt nhục của mình!”

Trưởng phòng Vạn đứng dậy đi ra ngoài mới nhớ ra nói cả một buổi sáng mà chưa uống một ngụm nước nào, bèn quay lại, uống cạn cốc trà để trên bàn.

Trưởng thôn Dư Thực không hề có phản ứng gì, ngồi thần người ra.

Vợ Trưởng thôn Dư Thực sau đó đã đuổi kịp Trưởng phòng Vạn ở chỗ cây long nhãn.

Vợ Trưởng thôn Dư Thực đã nghe hết những gì Trưởng phòng Vạn nói. Bà bảo Trưởng phòng Vạn yên tâm, vấn đề của trường nhất định sẽ được giải quyết trước Tết. Bà còn nhờ Trưởng phòng Vạn chuyển lời tới Hiệu trưởng Dư, sau này mình sẽ thường xuyên ghé qua trường, làm liên lạc viên giữa họ và ủy ban thôn. Đương nhiên, bà còn yêu cầu Trưởng phòng Vạn, hai năm nữa sau khi con trai lên trung học cơ sở thì cũng mong ông quan tâm nhiều hơn. Trưởng phòng Vạn cố tình làm ra vẻ nghiêm trọng nói, vấn đề nợ lương giáo viên dân lập ở trường tiểu học Giới Lĩnh là nghiêm trọng nhất trong toàn huyện. Ông sẽ đợi ở trường, cho đến khi vấn đề được giải quyết mới xuống núi. Vợ Trưởng thôn Dư Thực vội vàng nói, nếu tiền gom kịp, chiều nay sẽ bảo kế toán mang qua.

Khi về đến trường, Hiệu trưởng Dư, Đặng Hữu Mễ và Tôn Tứ Hải đang đứng nói chuyện dưới ánh nắng.

Trưởng phòng Vạn nói với họ: “Tết năm nay tôi không còn bị các anh mắng nhiếc nữa rồi.”

Buổi trưa, mặt trời vừa hơi ngả về phía Tây, lão kế toán đã thở hổn hển chạy đến trường, vừa đếm đủ số tiền lương còn nợ từ trước, vừa thán phục Hiệu trưởng Dư có cách thay trời đổi đất, khiến Trưởng thôn Dư Thực chịu tiêu sạch số tiền ít ỏi của thôn.

Lão kế toán rời khỏi, Trưởng phòng Vạn cũng chuẩn bị ra về.

Hiệu trưởng Dư giữ ông lại ở thêm một tối, nhân lúc mọi người đang có tiền, mời ông uống một chầu rượu ra trò.

Trưởng phòng Vạn không đồng ý, ông nói sợ đến đêm lại mơ thấy Minh Ái Phần.

Hiệu trưởng Dư bán tín bán nghi, vì là chồng nhưng chưa bao giờ mơ thấy vợ mình.

Trưởng phòng Vạn chọc quê nói: “Bởi vì anh luôn nghĩ làm sao kiếm được cô vợ trẻ đẹp, dịu dàng hơn thôi.”

Hiệu trưởng Dư cười rất tươi: “Có cơ hội, Trưởng phòng Vạn lại cử một cô gái trẻ đẹp đến trường tiểu học Giới Lĩnh dạy học nhé, như vậy sẽ rất có lợi cho việc nâng cao chất lượng dạy học của trường tiểu học Giới Lĩnh. Giống như Hạ Tuyết ý, một cô gái thời thượng từ nơi khác đến, chỉ cần đứng lên bục giảng là những đứa trẻ không muốn đi học sẽ trăm phương nghìn kế nghĩ cách quay lại trường.”

Sau khi tiễn Trưởng phòng Vạn, mọi người lại ngồi thêm một một lúc ở nhà Hiệu trưởng Dư.

Bác đưa thư đến. Ông móc trong túi đựng bưu kiện cuối cùng chỉ lấy ra ba chiếc thiệp chúc Tết. Một cái là của Trương Anh Tài, cậu ta viết đằng sau tấm thiệp rằng: Chúc các đồng nghiệp ở trường tiểu học Giới Lĩnh năm mới không bị nợ tiền lương, phòng học không bị dột, đường núi không có dã thú. Một tấm không ký tên, chỉ viết một câu: Tuyết ở Giới Lĩnh tinh khiết nhất thế giới, thật may là tôi chưa làm vấy bẩn nó! Không cần nói cũng biết là Hạ Tuyết viết. Tấm thiệp thứ ba là của Diệp Manh nghỉ học hồi lớp 5. Ngày 16 tháng Giêng năm nay, Diệp Manh đi làm thuê ở nơi khác, đi vòng mấy dặm đường để đến thăm trường. Trên thiệp chúc Tết, Diệp Manh viết: Đợi con kiếm được tiền, nhất định trở về cải tạo trường cũ thành ngôi trường đẹp nhất thế giới!

Cho dù Diệp Manh và Hạ Tuyết khác biệt quá lớn, nhưng khi nhắc đến mọi người đều có chung niềm nuối tiếc.

Xoay quanh thiệp chúc Tết, mọi người nói nhiều nhất vẫn là Trương Anh Tài.

Theo thông lệ, đến tháng Sáu, tháng Bảy năm tới là Trương Anh Tài tốt nghiệp học viện giáo dục tỉnh, họ đều cho rằng, nếu Trương Anh Tài trở lại trường tiểu học Giới Lĩnh thì chắc chắn sẽ hơn hẳn những giáo viên chi viện như Hạ Tuyết. Vấn đề là cậu ta có muốn hay không thôi, cậu ta đã đi được hơn một năm, không dám nói kỳ nghỉ lên núi thăm hỏi, trước sau cũng chỉ gửi hai tấm thiệp chúc Tết, ngay cả thư hỏi thăm cũng không có. Tôn Tứ Hải có cách nghĩ khác mọi người, cho rằng càng như vậy càng cho thấy Trương Anh Tài đang giằng xé trong lòng, nếu cứ ba ngày một bức thư thì có quỷ mới tin cậu ta sẽ trở về.