G
ần đến Tết, lại có một trận tuyết.
Hai ngày trước đó trời âm u, ngay cả mưa nhỏ cũng không có. Nhiệt độ mặt đất không giảm thì tuyết không tích tụ lại được. Trên đường có người qua lại chẳng mấy chốc trở nên thông suốt.
Trên bãi tập của trường tiểu học Giới Lĩnh, ngày nào cũng nhìn thấy những người đi nơi khác làm thuê, bất kể là đàn ông hay đàn bà, ngàn dặm xa xôi vội vã trở về, việc đầu tiên là đến trường thăm con. Còn có những người tiện đường, nhà cũng chưa về mà vác hành lý, đứng bên ngoài lớp học, chờ con tan học là ôm chầm lấy nó. Tình cảm thắm thiết ấy, ngay cả Hiệu trưởng Dư cũng cảm động đến rớt nước mắt. Nếu như vừa vặn có đứa nào cảm thấy khó chịu, liền ngả vào lòng bố mẹ, kéo bàn tay thô ráp của bố mẹ đặt lên chỗ mình thấy đau để xoa xoa vài cái, những lúc như vậy các bà mẹ đều nước mắt vắn dài. Trẻ con ở Giới Lĩnh đều biết nhau, lúc này, chúng sẽ đứng xung quanh vỗ tay, hô to tiếng phổ thông nhà trường dạy: Bố bạn xxx về rồi! Mẹ bạn xxx về rồi! Những người đi làm thuê ở bên ngoài cho dù có khó khăn đến mấy cũng móc từ trong túi ra ít kẹo, lần lượt phát cho từng đứa, bất kể là học sinh lớp thấp hay lớp cao, đứa nào cũng có vài cái kẹo.
Vì thế, người Giới Lĩnh ăn Tết bắt đầu từ khi những người đi làm thuê trở về quê.
Người của ủy ban thôn hầu như này nào cũng đến trường lượn vài vòng, xem ai đi làm thuê đã về rồi, xem món quà những người này lấy ra khi gặp con để phán đoán tình hình thu nhập, mục đích của họ là kịp thời thúc giục nộp các khoản phí, thuế phải đóng trong năm hoặc những năm trước. Nhưng cho dù kết quả phán đoán ra sao, họ đều sẽ đến ngay nhà đòi nợ, quanh năm xa cách, cốt nhục phân ly, cuối cùng cũng đến ngày được đoàn tụ, đột nhiên xuất hiện người đến đòi nợ, chắc chắn sẽ bị mọi người coi là “sao chổi”.
Sẩm tối hằng ngày sau khi hạ Quốc kỳ, Hiệu trưởng Dư và Đặng Hữu Mễ lại đem vứt những thứ chưa cần phải vứt ngay vào hố rác của trường. Họ làm như vậy là muốn xem học sinh đã vứt bao nhiêu giấy bọc kẹo. Đối với Tôn Tứ Hải, thói quen này lại được thể hiện bằng hình thức trữ tình, ông sẽ thổi ngang sáo, vừa đi dọc bãi tập vừa thổi sáo, sẽ dừng lại một lát ở chỗ Vương Tiểu Lan có thể xuất hiện, rồi mới quay lại. Như vậy, sẽ phải đi qua đống giấy kẹo xanh xanh đỏ đỏ ấy hai lần, loại rác vô dụng này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến độ ngân vang hay trầm lắng, du dương hay u sầu của tiếng sáo.
Căn cứ vào sự biểu hiện của mối liên hệ tương hỗ này, Hiệu trưởng Dư và mấy người họ hằng năm đều có thể dự báo chính xác tiền lương ủy ban thôn nợ là không hề có hy vọng hay là chỉ có chút hy vọng, từ đó quyết định thời điểm đến ủy ban thôn đòi tiền lương. Tuy nhiên, phần lớn những người ra ngoài làm công đều phải hết kỳ nghỉ đông mới về, những người về trước sẽ giống như đối tượng điều tra để thống kê, kết quả cuối cùng sẽ không xuất hiện tình thế đảo ngược.
So với mọi năm, tình hình năm nay có vẻ như càng khó lường hơn.
Sáng hôm bế giảng, khi Hiệu trưởng Dư đang cùng hơn chục học sinh nội trú tổ chức lễ chào cờ thì có hai phụ huynh học sinh xuất hiện trên bãi tập. Họ kết bạn từ Đông Quản, Quảng Đông về, chiều qua xuống xe khách đường dài ở thị xã, nhưng tiếc tiền thuê chỗ ở và mua vé xe, thế là đi bộ về Giới Lĩnh từ khi mặt trời lặn đến khi mặt trời mọc. Con trai hai vị phụ huynh này đều đứng trong hàng chào cờ, họ tìm mãi ở trong người mới lôi ra vài tờ tiền nhàu nát, để nộp tiền học phí còn nợ cho con. Sau đó mỗi người lại lôi ra ít kẹo, cùng chia cho hơn chục đứa trẻ ở nội trú cùng con mình.
Thời gian tổ chức lễ bế giảng muộn hơn một tiếng, vẫn như mọi năm, học sinh đến trường đúng giờ đều chơi đùa trên bãi tập. Dư Tráng Viễn chiếm luôn chiếc bàn chơi bóng bàn làm bằng xi măng duy nhất, cả lúc đi vệ sinh cũng lấy vợt đặt lên để chiếm bàn, không cho người khác đụng vào. Bạn chơi cùng nó bất kể thắng thua chỉ được đánh ba quả, đánh xong thì đi ra cho bạn khác vào chơi.
Hiệu trưởng Dư còn đang nói với Đặng Hữu Mễ chuyện buổi sáng, hai phụ huynh vất vả cả năm ở bên ngoài, gặp con cái trong bộ dạng nhếch nhác như vậy khiến ông thấy rất đau lòng. Đặng Hữu Mễ cứng rắn hơn Hiệu trưởng Dư, ông thấy chỉ còn vài ngày nữa là hết năm, tiền lương bị nợ cả năm nay rồi, nếu không có hy vọng thì chúng ta càng đau lòng hơn.
Hai người đang nghĩ người lại xót đến thân thì Tôn Tứ Hải cười khẩy bước tới.
Hiệu trưởng Dư lấy làm lạ, hỏi ra mới biết, Tôn Tứ Hải muốn dạy cho con trai Trưởng thôn Dư Thực một bài học. Ông ngấm ngầm chỉ huy một nhóm học sinh đứng xếp hàng, rồi lại bảo Dư Chí đang trong kỳ nghỉ đông, đang giặt quần áo ở nhà phải ngừng tay. Dư Chí cầm vợt bước tới, những bạn đã xếp hàng trước đều nhường cho Dư Chí. Dư Tráng Viễn trước là đánh với từng bạn, bây giờ là đánh với Dư Chí. Dư Tráng Viễn không phải là đối thủ của Dư Chí, trước những cú giật bóng liên tiếp của Dư Chí, Dư Tráng Viễn chỉ có mặt đỏ tía tai chạy khắp nơi nhặt bóng. Mỗi lần Dư Chí giật bóng, các bạn đứng xung quanh lại hướng về phía Dư Tráng Viễn đang quay người đi nhặt bóng hát to: Đi tìm, đi tìm, đi tìm, tìm thấy một cái răng! Dư Tráng Viễn tức sôi máu, nó không nhặt bóng nữa mà ôm một tảng đá bên cạnh bãi tập định đập bàn đánh bóng.
Tôn Tứ Hải đứng soi từ xa vội hét lên ngăn lại.
Hiệu trưởng Dư thấy vô bổ, bảo Đặng Hữu Mễ tổ chức lễ bế giảng sớm hơn dự kiến.
Theo sắp xếp trước đó, Đặng Hữu Mễ chủ trì buổi lễ, Hiệu trưởng Dư phát biểu tổng kết, Tôn Tứ Hải trao giấy khen cho các học sinh “ba tốt”. Đến lượt Dư Tráng Viễn nhận giấy khen, nhưng nó lại từ chối lên bục, hơn nữa còn chỉ vào Tôn Tứ Hải nói, nó không muốn nhận giấy khen của thầy giáo thích giở trò quỷ quyệt. Tôn Tứ Hải tức đến nỗi chỉ muốn chửi cái lão già làm trưởng thôn, là kẻ đầu têu của các trò mưu mô chước quỷ. Tôn Tứ Hải lạnh lùng nhìn Dư Tráng Viễn, sau đó nói một cách khinh thường: “Nhóc con, mày không muốn nhận, nhưng ta vẫn muốn trao!” Nói rồi tiếp tục trao giấy khen cho học sinh khác.
Sau khi kết thúc lễ bế giảng, Dư Tráng Viễn đeo cặp sách nghênh ngang bỏ đi.
Lần này Hiệu trưởng Dư không lo chút nào, ngược lại cho rằng vợ Trưởng thôn Dư Thực sẽ đến trường nói vài câu dễ nghe. Dù sao con trai bà ấy cũng sắp học lên trung học cơ sở rồi, tuy thành tích giỏi kém thế nào cũng được, nhưng biểu hiện ở tiểu học sẽ liên quan đến việc có vào được lớp chọn hay không, chỉ có vào được lớp chọn mới có khả năng thi lên trung học phổ thông, chỉ có thi được trung học phổ thông mới có tư cách ngó nghiêng xem cổng trường đại học ở đâu.
Sáng hôm sau, Hiệu trưởng Dư vác cuốc ra sau núi, mộ của Minh Ái Phần vẫn chưa được chắc cho lắm, hai lần tuyết tan khiến tấm bia mộ bị nghiêng. Theo tập tục, những việc này phải làm trước mới yên tâm ăn Tết. Hiệu trưởng Dư làm mất hai tiếng đồng hồ mới thấy hài lòng. Nói là hài lòng nhưng trong lòng cũng không được thoải mái lắm. Ông nhìn vào tấm bia mộ vừa được lau sạch sẽ, bất giác thở dài, Minh Ái Phần cả đời hiếu thắng, số làm giáo viên dân lập nhưng lại có trái tim của giáo viên công lập, bao nhiêu lần toàn là tự giày vò mình, cũng may cuối cùng cũng đã hiểu ra, thôi thì nhắm mắt buông xuôi, không còn nghĩ đến ngày cất đầu dậy ở đâu.
Hiệu trưởng Dư quay về, vừa đi qua góc tường, thì thấy Tôn Tứ Hải đi tới nhếch mép cười nói: “Nhà anh có một cô gái ốc nhồi!”
Hiệu trưởng Dư không biết là việc hay hay việc dở liền vội vã chạy về nhà, chưa vào cửa đã nhìn thấy vợ Trưởng thôn Dư Thực đang ở đó giúp giặt chăn. Không đợi Hiệu trưởng Dư mở miệng, Dư Chí đã tranh nói trước, là bác ấy cứ đòi giặt giúp.
Vợ Trưởng thôn Dư Thực cởi cả áo khoác ngoài, lộ ra bộ ngực cao làm căng chiếc áo len đỏ. Tay không ngừng vò chăn, nhìn thấy Hiệu trưởng Dư cũng không dừng tay, vừa vò vừa nói đứa trẻ không có mẹ đúng là tội nghiệp, con trai bà ở nhà không bao giờ phải đụng tay vào bất cứ việc gì, thế mà Dư Chí đã phải gánh vác nửa gia đình. Vợ Trưởng thôn Dư Thực còn quở trách Hiệu trưởng Dư, coi như nể tình thằng con, cũng nên tìm cho nó một mẹ kế, bà ấy nói câu này cứ như thật, rồi liệt kê ra luôn bốn người phụ nữ, đều là người quen của mình, chỉ cần Hiệu trưởng Dư gật đầu chiều nay có thể gọi một người đến xem mặt. Hiệu trưởng Dư lắc đầu quầy quậy, nói mình bây giờ đã ra nông nỗi này, không muốn lại làm khổ người phụ nữ khác.
Nghe đến đây, vợ Trưởng thôn Dư Thực vẩy hết bọt xà phòng trên tay, lôi trong túi quần ra ba chiếc phong bao giấy, bảo Hiệu trưởng Dư gọi cả Đặng Hữu Mễ và Tôn Tứ Hải đến.
Hiệu trưởng Dư không ngờ vợ Trưởng thôn Dư Thực mang đến không thiếu một đồng nào các khoản trợ cấp được phát trong cả năm cho giáo viên dân lập. Điều bất ngờ hơn là, bao nhiêu năm qua, đây là lần đầu tiên ủy ban thôn cấp cho mỗi giáo viên ngoài biên chế 20 đồng tiền thưởng. Đợi ba người họ ký xong tên vào bảng lương, vợ Trưởng thôn Dư Thực mới nói, mong nhà trường quan tâm nhiều hơn đến con trai bà, để cháu nó được bình chọn là học sinh “ba tốt” của xã.
Hiệu trưởng Dư không biết nói sao, chỉ nhìn bà gật đầu.
Vợ Trưởng thôn Dư Thực mang chăn đã giặt sạch ra phơi, giơ tay gõ nhẹ vào trán Hiệu trưởng Dư, rồi nói bằng giọng điệu hết sức nữ tính rằng, Hiệu trưởng Dư dồn hết tâm huyết cho trẻ em ở Giới Lĩnh, đợi đến ngày có người thi đỗ vào đại học thật thì việc đầu tiên phải làm là xây một tấm bia công đức cho Hiệu trưởng Dư.
Vợ Trưởng thôn Dư Thực đã đi khỏi, nhưng Hiệu trưởng Dư vẫn không nói ra lời. Vẫn là Tôn Tứ Hải phá vỡ sự im lặng, nói rằng Trưởng thôn Dư Thực tốt nhất nên phát huy cái tài đi hối lộ này, để con trai từ trung học cơ sở lên trung học phổ thông, rồi lên đại học. Thực hiện phá bỏ việc thôn Giới Lĩnh không có học sinh đỗ đại học, đương nhiên là phải làm từ trong nhà của trưởng thôn. Đặng Hữu Mễ nói mỉa mai rằng, phụ huynh quan tâm sự tiến bộ của con cái là việc tốt, nên khuyến khích.
Hiệu trưởng Dư cuối cùng cũng mở miệng, quan điểm của ông khác với Đặng Hữu Mễ và Tôn Tứ Hải, khiến hai người họ thật lòng khâm phục. Hiệu trưởng Dư nói, trường tiểu học Giới Lĩnh là trường học của người dân Giới Lĩnh, con trai trưởng thôn học giỏi thì mọi người đều thấy bình thường. Nếu con trai trưởng thôn học dốt, không nói đến trưởng thôn, người khác cũng sẽ mất đi lòng tin đối với trường tiểu học Giới Lĩnh.
Một lý do khác khiến Tôn Tứ Hải không phản đối là tiền lương đã phát đủ rồi, thôi thì vui vẻ mà ăn Tết. Ông đã tính cả rồi, nhân lúc thời tiết tốt, không có tuyết, tranh thủ xuống núi mua cho Lý Tử và Vương Tiểu Lan ít quần áo mới. Hiệu trưởng Dư cũng nghĩ như vậy, sau khi Minh Ái Phần qua đời, ông chưa mua cho Dư Chí bộ quần áo mới nào, khiến thằng bé dù cho đánh bóng bàn, mồ hôi nhễ nhại, cũng không dám cởi áo ngoài ra, vì áo mặc bên trong toàn của Minh Ái Phần.
Đặng Hữu Mễ lười xuống núi, lý do là mình chưa có con, cũng không có cô bồ nào. Tôn Tứ Hải nói ông tà tâm không chừa, không nỡ tiêu tiền, mục đích là muốn kiếm cơ hội đút cho lãnh đạo, để được chuyển lên giáo viên công lập. Đặng Hữu Mễ không muốn đấu khẩu với Tôn Tứ Hải, vừa đi về nhà vừa đếm lại số tiền trong phong bao giấy. Hiệu trưởng Dư ngưỡng mộ nói, có việc vui có thể lập tức báo ngay cho vợ, đây cũng là niềm vui lớn của đời người!
Sáng sớm hôm sau, Dư Chí còn chưa thức giấc, Hiệu trưởng Dư và Tôn Tứ Hải đã cùng nhau xuống núi.
Trên nửa quãng đường đầu, hai nười toàn nói về Vương Tiểu Lan. Chủ đề là do Tôn Tứ Hải mào đầu, đối với Tôn Tứ Hải mà nói, Vương Tiểu Lan chỉ thiếu mỗi cái danh phận, mọi thứ khác đều như vợ chồng, việc lớn việc nhỏ đều cùng nhau thương lượng bàn bạc.
Tôn Tứ Hải bị rung động bởi câu nói: “Báo tin vui cho vợ là niềm vui của đời người”, tối qua sau khi trời tối, ông cũng chạy đến báo tin vui cho Vương Tiểu Lan, phát hiện Lý Tử khóc thút thít dưới gốc cây cổ thụ gần nhà Vương Tiểu Lan. Hỏi mãi Lý Tử mới nói, hiếm khi tâm trạng mẹ vui vẻ, sẩm tối lúc rút quần áo đã hát khẽ vài câu “Cuộc sống của chúng ta đầy ánh dương”. Bố lại cho là mẹ đang nhớ người tình cũ, lấy một cái kéo ở dưới gối đòi giết mẹ. Trong lúc tức giận mẹ đã nói là không muốn sống ở nhà nữa. Sau khi giành được cái kéo trong tay bố thì không thấy mẹ đâu nữa. Tôn Tứ Hải dỗ dành Lý Tử, mẹ không bỏ mặc con đâu. Lúc đó, Vương Tiểu Lan bước ra từ gian nhà nhỏ chứa củi bên cạnh. Trời tối mò, tay trái Vương Tiểu Lan nằm gọn trong tay Tôn Tứ Hải, tay phải ôm chặt Lý Tử, rất lâu mới buông ra.
Ngoài lắng nghe, Hiệu trưởng Dư cũng không biết nói sao.
Khi sắp đến chân núi, Tôn Tứ Hải đột nhiên bảo tiện đường đi thăm Lam Tiểu Mai.
Hiệu trưởng Dư tưởng là nói đùa nên cũng đồng ý.
Đến Tế Trương gia trại, Tôn Tứ Hải đến gõ cửa nhà Lam Tiểu Mai thật. Hiệu trưởng Dư hận là không thể đi trước để đẩy Tôn Tứ Hải ra. May sao xuất hiện ở cửa là Lam Phi. Tuy thấy hơi đường đột, nhưng Lam Phi vẫn rất nhiệt tình.
Cái khó ló cái khôn, Hiệu trưởng Dư chỉ Tôn Tứ Hải nói: “Thầy Tôn có việc muốn trao đổi với cậu.”
Lam Phi tưởng thật, mời họ vào nhà nói chuyện.
Hiệu trưởng Dư lại nói: “Chúng tôi còn có việc, nên không vào nhà ngồi nữa. Thầy Tôn nói nhanh đi! Đều là đồng nghiệp, học hỏi lẫn nhau mà!”
Lúc này Tôn Tứ Hải cũng đã để ý: “Là thế này, trong lớp có một học sinh, là con trai trưởng thôn, không biết moi ở đâu ra một bài khó quay lại đố thầy giáo.”
Tôn Tứ Hải bèn nói cho Lam Phi nghe bài toán Hạ Tuyết đố Diệp Bích Thu, Diệp Bích Thu sau đó lại viết lên bảng phòng học lớp 5. Lam Phi cười nói, chả trách người thành phố đều nói, đừng nghĩ trưởng thôn không phải là cán bộ, con trai Trưởng thôn Dư Thực lên tỉnh đương nhiên không được, nhưng con trai tỉnh trưởng xuống thôn cũng không được. Lam Phi bảo Tôn Tứ Hải không cần bận tâm bài toán khó này, cậu ta bảo Tôn Tứ Hải đi lo việc trước, đằng nào lúc quay về cũng đi qua nhà cậu ta, lúc đấy sẽ đưa đáp án cho họ.
Hiệu trưởng Dư vừa nghe xong câu này, liền quay người, Tôn Tứ Hải còn đang bắt tay Lam Phi thì Hiệu trưởng Dư đã đi như chạy ra tít đằng xa. Từ Tế Trương gia trại đi ra, Hiệu trưởng Dư không khỏi trách mắng Tôn Tứ Hải.
Tôn Tứ Hải lại rất vui, nói không ngờ đàn ông hơn 50 tuổi rồi mà vẫn còn ngượng ngùng như vậy. Ông từng xem một quyển sách, viết rằng đàn ông biết ngượng đáng để tin tưởng, còn đàn ông không biết ngượng thì nếu không phải não có vấn đề thì là mầm gây tai họa.
Hai người vừa nói vừa cười, không để ý người phụ nữ đang giặt chăn ở con sông nhỏ ven đường là Lam Tiểu Mai. Nghe thấy họ liên tục nhắc đến Lam Phi, Lam Tiểu Mai liền ngẩng đầu lên chào. Hiệu trưởng Dư vừa bình tâm lại mặt còn đỏ hơn lúc nãy, Tôn Tứ Hải không dám nói lung tung nữa, chỉ ậm ừ trả lời vài câu. Lam Tiểu Mai bảo họ hay là đến nhà ăn cơm trưa, nhân tiện trao đổi với Lam Phi. Tôn Tứ Hải đang định trả lời thì bị Hiệu trưởng Dư chọc cho một cái từ phía sau, Tôn Tứ Hải đành phải từ chối.
Lam Tiểu Mai nói, vì phải giặt chăn nên cơm trưa chắc sẽ phải muộn một chút, họ cứ lên xã giải quyết công việc, quay trở lại có thể ăn cơm. Thấy họ sắp đi xa rồi, còn nói thêm một câu: “Đi sớm về sớm, tôi nấu gạo của các anh!”
Hiệu trưởng Dư sau đó không tài nào hiểu nổi tại sao mình lại buột miệng trả lời: “Yên tâm đi!”
Tôn Tứ Hải đã nhìn ra Hiệu trưởng Dư bộc lộ một cách vô thức cõi lòng mình, nói Hiệu trưởng Dư thỉnh thoảng không bình thường, bước tiếp theo nhất định phải nói với Lam Tiểu Mai rằng mình muốn ăn trứng ốp-lết. Hiệu trưởng Dư chẳng biết làm sao, đành để ông ta nói.
Đến nơi, Hiệu trưởng Dư nhìn thấy vài cửa hàng nên mua luôn cho Dư Chí mấy bộ quần áo. Tôn Tứ Hải mua quần áo cho Vương Tiểu Lan và Lý Tử thì phức tạp hơn, Hiệu trưởng Dư phải chạy đi chạy lại cùng ông ấy hai lần, thấy ông không thể quyết định được, vừa khuyên đừng nóng vội, có chạy đi chạy lại thêm hai mươi lần nữa cũng không sao, vừa nói nếu mình có hồng nhan tri kỷ, ở xã không mua được thì lên huyện, huyện không mua được thì lên tỉnh, phải là bộ quần áo mặc vào đẹp khuynh nước khuynh thành thì mới mua. Tôn Tứ Hải giả bộ bực mình, chọn vài chiếc áo, nói chỉ cần có thể mặc được, mặc vào phân biệt được nam hay nữ là được.
Tôn Tứ Hải vui mừng khôn xiết, cười không khép được miệng. Ông muốn về nhà sớm, thấy Hiệu trưởng Dư vẫn đang ngó nghiêng thì hỏi ông còn muốn mua gì nữa. Hiệu trưởng Dư hỏi ngược lại ông ấy: “Anh định đến Tế Trương gia trại ăn cơm trưa thật à?”
“Rõ ràng là anh đã nhận lời Lam Tiểu Mai, sao lại hỏi tôi chứ?”
“Đến nhà người ta ăn cơm mà đi tay không thì bất lịch sự quá.”
“Dù sao thì tôi chỉ ăn theo anh thôi, muốn mang quà là việc của anh.”
Hiệu trưởng Dư đến cửa hàng thịt mua một cân thịt, Tôn Tứ Hải mua một cân đường phèn. Ông nhìn tôi, tôi nhìn ông, càng nhìn càng giống đi thăm họ hàng.
Hai người cười cười nói nói đi đến Đại Trương gia trại, Hiệu trưởng Dư bỗng đưa những thứ đang cầm trên tay cho Tôn Tứ Hải, bảo ông ấy đứng bên đường đợi một chút, còn mình đến nhà Trương Anh Tài, hy vọng cậu ta ăn Tết xong, khi nào lên học viện giáo dục tỉnh học thì nhân tiện dắt theo Diệp Bích Thu giao cho Chủ nhiệm Vương.
Hiệu trưởng Dư đến cửa nhà Trương Anh Tài gọi: “Thầy Trương có nhà không?”
Mẹ Trương Anh Tài nghe thấy liền đi ra. Sau khi Hiệu trưởng Dư tự giới thiệu, mẹ Trương Anh Tài liền vội vàng mời ông vào nhà, sau đó lại chạy ra cửa nhờ con nhà xóm gọi hộ bố Trương Anh Tài về. Hiệu trưởng Dư ngăn không được, nói mình tìm Trương Anh Tài có chút việc, nếu Trương Anh Tài không có nhà thì không dám làm phiền. Mẹ Trương Anh Tài ngại ngùng nói, cháu nó hôm kia mới ở trên tỉnh về, hôm qua lại lên huyện rồi. Hiệu trưởng Dư nghe xong, trà cũng không cho pha, đứng dậy ra về.
Mẹ Trương Anh Tài tiễn ông ra cửa, còn nói, khi nào Trương Anh Tài về, nhất định sẽ vẫn như mọi năm, mùng hai Tết đến trường tiểu học Giới Lĩnh chúc Tết các thầy có ơn với cháu.
Hiệu trưởng Dư hơi sững người, ông sợ mình nghe nhầm nói: “Tấm lòng của thầy Trương chúng tôi xin nhận, nhưng cũng không cần mùng hai Tết phải chạy lên núi đâu.”
Mẹ Trương Anh Tài nói: “Ấy chết, làm thế sao được. Đây là phép tắc gia quy, miễn là còn đi được, thì mùng hai Tết hằng năm đều phải đến Giới Lĩnh chúc Tết.”
Hiệu trưởng Dư lựa theo lời của bà nói: “Chả trách thầy Trương lại nhân nghĩa như vậy, hóa ra là được hai bác dạy dỗ đến nơi đến chốn.”
Mẹ Trương Anh Tài nói: “Không giấu gì Hiệu trưởng Dư, ban đầu Trương Anh Tài không chịu đi, bố cháu nói, con trai không chịu đi thì để cái thân già này đi thay vậy, thế là cháu nó phải làm theo.”
Hiệu trưởng đi đến giữa sân phơi lúa vẫn nghe thấy tiếng mẹ Trương Anh Tài đứng đó nói, Hiệu trưởng Dư chưa bao giờ đến nhà chơi, có mình bà là phụ nữ ở nhà nên không dám giữ lại, khách quý đến chơi mà một ngụm trà cũng không được uống, thật là thất lễ quá.
Sau khi gặp Tôn Tứ Hải, Hiệu trưởng Dư chỉ nói Trương Anh Tài không có nhà, còn những việc khác đều để trong lòng. Ông nghĩ đi nghĩ lại, cho rằng Trương Anh Tài rời khỏi trường tiểu học Giới Lĩnh sẽ không bao giờ quay lại nữa, nhất định có việc gì khiến cậu ta day dứt. Nghĩ đến đây, Hiệu trưởng Dư mới nói với Tôn Tứ Hải việc lúc nãy. Tôn Tứ Hải đồng ý với cách nghĩ của Hiệu trưởng Dư, người đàn ông biết hổ thẹn và người đàn ông biết xấu hổ đều giống nhau, miễn là còn biết hổ thẹn, thời gian Trương Anh Tài rời khỏi trường tiểu học Giới Lĩnh càng lâu thì khoảng cách về tình cảm sẽ càng thu hẹp.
Trong lòng nghĩ ngợi việc này khiến Tôn Tứ Hải chẳng còn tâm trí đâu mà nói đùa nữa.
Hiệu trưởng Dư lại đến nhà Lam Tiểu Mai, nhưng đã tự nhiên hơn, ông còn vào bếp nói với Lam Tiểu Mai, người Giới Lĩnh ăn mặn, có thể cho nhiều muối một chút. Lam Tiểu Mai không nghe, nói ăn nhiều muối sẽ mắc bệnh huyết áp cao. Hiệu trưởng Dư nói, trước đây muối quý như vàng, người Giới Lĩnh không mua nổi, ăn gì cũng nhạt thếch không nói, gia đình nào cũng có “chàng ngốc” hay “nàng khờ” do não kém phát triển, sau đó chính phủ cấp cho một lô muối, không mất tiền, phát đến từng nhà theo đầu người, vài năm sau, “chàng ngốc”, “nàng khờ” đúng là có giảm đi thật, thế là khẩu vị của mọi người cũng mặn hơn. Lam Tiểu Mai cười nói, chắc chẳng bao lâu nữa, chính phủ sẽ phải đặt chốt ở Tế Trương gia trại, cấm mọi người đến Giới Lĩnh bán muối, nếu không thì chữa khỏi bệnh cho “chàng ngốc”, “nàng khờ” xong, thì lại xuất hiện bệnh huyết áp cao và tai biến mạch máu não.
Mọi người càng nói chuyện càng tự nhiên. Lam Tiểu Mai lấy rượu ra, Hiệu trưởng Dư cũng uống vài chén.
Từ những món ăn bày trên bàn có thể thấy cuộc sống của nhà họ Lam không đến nỗi chật vật. Nói chuyện một hồi thì nói đến phúc lợi đãi ngộ, Hiệu trưởng Dư mới biết, Lam Phi tuy chỉ dạy thay ở trường tiểu học trung tâm, không tính lương, chỉ tính tiền thưởng thì cũng hơn hẳn tổng thu nhập của Hiệu trưởng Dư. Ngay cả câu nói hâm mộ, cả Hiệu trưởng Dư và Tôn Tứ Hải đều không thốt ra lời. Nhờ có Dư Tráng Viễn con trai Trưởng thôn Dư Thực mà bao nhiêu năm qua kể từ ngày cựu trưởng thôn mất đi, đây là lần đầu tiên được phát thu nhập của cả năm, vừa có cảm giác có chút tiền, gặp Lam Phi lại biến thành người nghèo, làm sao có thể so bì với giáo viên công lập, giáo viên trên tỉnh hay giáo viên ở thủ đô cơ chứ?
Lúc ra về, Lam Tiểu Mai không chịu nhận quà của hai người, đẩy qua đẩy lại một hồi, cô ấy mới chịu nhận gói đường phèn.
Xách cân thịt lợn tưởng mất hóa ra lại được, Hiệu trưởng Dư đề nghị, trưa mai, nhân lúc Vương Tiểu Mai và Lý Tử đến trường, cùng nhau đánh chén một bữa. Quần áo Tôn Tứ Hải mua cho Vương Tiểu Lan và Lý Tử cũng không thể mang thẳng đến nhà, vừa vặn bảo Vương Tiểu Lan lấy lý do đưa Lý Tử xuống núi mua quần áo, để ở lại trường một ngày.
Tôn Tứ Hải rất tán thành sự sắp xếp của Hiệu trưởng Dư.
Sau bữa sáng hôm sau, Vương Tiểu Lan quả nhiên dẫn Lý Tử đến trường.
Lý Tử từ lâu đã mặc định mối quan hệ giữa Vương Tiểu Lan và Tôn Tứ Hải. Cô bé đi sau mẹ, lúc Tôn Tứ Hải lấy quần áo mới, Lý Tử cười nhạt rồi cùng mẹ đi vào phòng, mặc thử quần áo mới cho Tôn Tứ Hải xem, lại quay vào thay ra, để đến mùng một Tết mới mặc, sau đó ra chơi cùng Dư Chí.
Chỉ còn lại hai người, Tôn Tứ Hải đưa hai tay ra ôm chặt Vương Tiểu Lan, lúc này đang mặc áo mới. Vương Tiểu Lan cựa nhẹ má, những giọt nước mắt vương trên cổ Tôn Tứ Hải.
Vương Tiểu Lan cũng mặc lại quần áo cũ, đến nhà Hiệu trưởng Dư làm hết cả một cân thịt lợn. Cơm nước đã chuẩn bị xong thì Hiệu trưởng Dư nhớ ra nên gọi cả Đặng Hữu Mễ và Thành Cúc nữa. Hiệu trưởng Dư đích thân đi mời họ, họ không từ chối được đành phải mang bát đậu phụ đã nấu qua.
Hiệu trưởng Dư nâng chén rượu lên nói: “Đây là bữa cơm đoàn tụ của toàn thể giáo viên trường tiểu học Giới Lĩnh cùng người thân trong hơn chục năm qua.”
Lúc đỏ mặt đứng dậy chạm cốc cùng mọi người, Vương Tiểu Lan không dám nhìn Lý Tử.
Lý Tử dường như không nghe thấy những lời này, lúc người lớn chạm cốc, cô bé gắp cho Vương Tiểu Lan một miếng thịt, rồi lại gắp một miếng thịt đặt vào bát của Tôn Tứ Hải. Thành Cúc trông thấy, khen Lý Tử là đứa trẻ hiểu biết. Đặng Hữu Mễ nói, Lý Tử học trung học cơ sở mới nửa năm, trông còn xinh hơn cả sinh viên đại học.
Dư Chí giả đò ghen tức: “Chú tâng bốc chị thì cũng vừa phải thôi, đợi đến lúc chị lên đại học thật, lẽ nào mọi người lại khen chị xinh hơn tiến sĩ?”
Hiệu trưởng Dư nói: “Lý Tử vào đại học, chúng tôi không những không khen nữa, mà còn bắt nó phải khen chúng tôi ấy chứ.”
Tôn Tứ Hải nói: “Nếu Trương Anh Tài, Hạ Tuyết, Lạc Vũ đều có mặt thì mới gọi là đoàn tụ!”
Lý Tử tiếp lời của Tôn Tứ Hải: “Còn cả Diệp Bích Thu nữa, bạn ấy cũng làm giáo viên một ngày!”
Hiệu trưởng Dư thấy Lý Tử nói rất đúng, nhưng tiếc là Diệp Bích Thu không đến được. Sau bữa sáng, Thành Cúc nhìn thấy Diệp Bích Thu cõng em đi sau dì đến miếu ở núi Lão Sơn Giới lễ Phật, đi như thế chắc phải xế chiều mới về đến nhà.
Vừa ăn vừa trò chuyện, tâm trạng mọi người đều rất vui vẻ.
Lúc mọi người chuẩn bị ra về, Đặng Hữu Mễ không kìm được nói: “Thực ra lý tưởng cá nhân của giáo viên dân lập rất nhỏ nhoi: Bất kể tiền lương nhiều hay ít, miễn là phát đúng hạn; chuyển chính thức không bận tâm sớm hay muộn, miễn là còn hy vọng.”
Hiệu trưởng Dư vội nói: “Hiếm khi tâm trạng được thoải mái, vui vẻ ăn Tết đi, việc khác sau này tính tiếp.”
Nhân lúc Hiệu trưởng Dư đang nói chuyện với Đặng Hữu Mễ, Thành Cúc đi ra phía sau nói nhỏ với Tôn Tứ Hải:
“Không biết anh Đặng nghĩ thế nào, lúc mới kết hôn nói nếu không được chuyển chính thức thì không sinh con, để đến giờ muốn đẻ cũng không đẻ được. Sau đó lại nói không được chuyển chính thức sẽ không xây nhà, không mua quần áo mới, hai năm nay, ngay cả thịt ăn Tết cũng không mua quá một cân rưỡi. Mấy hôm trước gọi người đến giết thịt con lợn nuôi rồi. Nửa năm trước tôi đã nói với ông ấy, nên giữ lại bộ lòng, dạ dày và thủ lợn. Đến giờ anh ấy vẫn không chịu. Tức quá tôi đã nói gở vài câu, chỉ sợ đợi đến lúc anh muốn ở nhà mới, muốn mặc quần áo mới, muốn ăn thịt cá thì đã sắp đi gặp ông bà ông vải rồi. Ông ấy mới đồng ý giữ lại bộ lòng và thịt lợn, rồi mua thêm vài cân đậu phụ làm món dồi.”
Tôn Tứ Hải nói: “Hiệu phó Đặng làm việc gì cũng tỉ mỉ chu đáo, nghĩ xa hơn chúng ta nhiều!”
Thành Cúc nói: “Nghĩ xa gì thì xa, ăn Tết ai chẳng cầu may mắn, ngay cả pháo ông ấy cũng không nỡ đốt, lúc ăn cơm tất niên đốt một bánh 500 quả, giao thừa đốt một bánh 500 quả, mùng một Tết cũng chỉ đốt một bánh 500 quả. Còn không bằng nhà Diệp Bích Thu, bà “mẹ khờ” của Diệp Bích Thu còn biết là đốt pháo ngày Tết ít nhất cũng phải đốt bánh 5.000 quả.
Hôm nay, lịch dương đã là mùng 4 tháng Hai, thế mà lịch âm mới 16 tháng Chạp.
Tôn Tứ Hải chỉ có thể tiễn Vương Tiểu Lan đến đầu đường cạnh trường.
Lúc chia tay, Tôn Tứ Hải nhét phong bao đỏ tiền mừng tuổi vào tay Lý Tử. Lý Tử nhất định không lấy. Tôn Tứ Hải nói: “Người khác cho con có thể không lấy, nhưng thầy cho con nhất định phải lấy.” Lúc không còn người ngoài, dáng vẻ chìa tay nhận tiền mừng tuổi của Lý Tử rất ngoan ngoãn. Vương Tiểu Lan trách Tôn Tứ Hải không nên chiều con trẻ quá. Vương Tiểu Lan chìa tay ra, Tôn Tứ Hải nắm chặt lấy, rồi để tay mình trượt từ cổ tay xuống lòng bàn tay Vương Tiểu Lan, cuối cùng là áp chặt vào nhau.
Vương Tiểu Lan đi được vài bước thì quay lại nói nhỏ: “Trông Lý Tử càng ngày càng giống anh!”
Tôn Tứ Hải thấy nghèn nghẹn ở cổ họng, Vương Tiểu Lan đi xa rồi ông mới để nước mắt tuôn trào.
Sau đấy, Hiệu trưởng Dư gọi người đến mổ con lợn nhà nuôi. Sau khi làm sạch sẽ, được những 60 cân thịt, để lại 40 cân làm thịt sấy treo lên. Một nửa dùng để cải thiện bữa ăn cho đám học sinh ở nhà ông, một nửa là dinh dưỡng cả năm sau của Dư Chí. Ông cân nhắc đến việc Dư Chí sắp đến tuổi dậy thì, cộng thêm những lời vợ Đặng Hữu Mễ quở trách chồng, ông vẫn nhớ như in. Một phần ba chỗ thịt bán đi thì cũng không ra khỏi cửa trường, rơi vào tay Tôn Tứ Hải hết, ngoài đối tượng phải chăm sóc là Lý Tử ra, cách nghĩ và cách làm của Tôn Tứ Hải đều giống Hiệu trưởng Dư.
Thời gian trôi qua thật nhanh, Tôn Tứ Hải vun xới được một nửa chỗ đất trồng phục linh của mình thì cũng đến ngày 30 Tết. Ông vào bếp làm cơm tất niên ăn một mình, đốt pháo nghe một mình, sau đó đóng cửa ngồi nhìn đống than đang cháy sáng rực. Ngồi buồn thiu nghe chương trình GALA mừng Xuân phát trên đài hết bốn tiếng đồng hồ, khát cũng không buồn đi rót nước uống. Ngồi đến 12 giờ đêm, mới mở cửa đốt một bánh pháo.
Tôn Tứ Hải ngủ một mạch từ đêm 30 đến chiều mùng một. Nếu không phải Dư Chí gọi ở ngoài: “Thầy Tôn ơi, con đến chúc Tết thầy ạ.” thì có lẽ Tôn Tứ Hải vẫn còn ngủ tiếp. Dư Chí gọi thế là vì nhiều năm qua đã quen thế rồi. Mấy người họ sợ Tôn Tứ Hải ngủ nhiều quá sinh bệnh, thế nên mùng một Tết năm nào cũng vào tầm trưa là gọi ông ấy dậy.
Dậy rồi nhưng Tôn Tứ Hải thấy vô cùng buồn chán. Ông là đứa trẻ mồ côi ở thôn bên cạnh, sau đó được cựu trưởng thôn đưa về trường tiểu học Giới Lĩnh dạy học, chẳng có lấy một người thân, nên cũng chẳng có ai để đi chúc Tết. Tôn Tứ Hải quyết định vác cuốc lên núi vun xới khu đất trồng phục linh.
Hôm sau vẫn vậy. Tôn Tứ Hải đang bận làm đất thì Dư Chí chạy tới, nói Hiệu trưởng Dư bảo thầy Tôn Tứ Hải về ngay để thổi sáo. Tôn Tứ Hải lấy làm lạ, nhưng vẫn bỏ cuốc đấy chạy về trường.
Hiệu trưởng Dư nói: “Thầy Tôn thổi một bản sáo đi!” Tôn Tứ Hải lấy sáo ra thổi một bài rồi mới hỏi vì sao.
Hiệu trưởng Dư chỉ về phía sườn núi gần đó, nói có người ngồi ở đó lâu lắm rồi.
Tôn Tứ Hải quay đầu lại nhìn, phía sau cây thông có một người đàn ông.
Hiệu trưởng Dư vẫn nhớ những lời mẹ Trương Anh Tài nói hôm xuống núi cách đây không lâu. Mùng hai Tết năm nào Trương Anh Tài cũng đến trường tiểu học Giới Lĩnh chúc Tết, nhưng họ chưa bao giờ nhìn thấy cậu ta. Hiệu trưởng Dư suy đoán, người đàn ông lấp ló trên sườn núi kia chính là Trương Anh Tài trong lòng day dứt không dám lộ diện. Ông mong tiếng sáo của Tôn Tứ Hải khiến cậu ta cảm động, buộc cậu ta xuống núi gặp mọi người.
Tiếng sáo của Tôn Tứ Hải đã êm dịu hơn trước, người đàn ông nấp sau cây thông cuối cùng cũng nhô nửa người ra.
Tiếng sáo đột nhiên dừng lại. Tôn Tứ Hải như biến thành một người khác, tay cầm sáo, bước nhanh tới chỗ cây thông. Người đàn ông nấp sau cây thông không dám chậm trễ, nhảy qua sườn núi, chạy sâu vào Giới Lĩnh. Hiệu trưởng Dư đã nhận ra, người đàn ông đó là em chồng của Vương Tiểu Lan. Em chồng Vương Tiểu Lan đi làm thuê, lấy một cô vợ người Tứ Xuyên, Tết đến hiếm khi về được một lần.
Tuy tức nhưng Tôn Tứ Hải cũng không muốn đuổi theo. Trước Tết Vương Tiểu Lan từng nói với Tôn Tứ Hải, mùng hai đi lễ ở Lão Sơn Giới xin Bồ Tát phù hộ cho chồng, chỉ cần anh ấy có thể đứng lên thì việc ly hôn mới mở miệng được. Tôn Tứ Hải biết chồng của Vương Tiểu Lan vẫn nghi ngờ hai người vẫn còn vương vấn không dứt được, khó khăn lắm em trai mới về chơi, lại sai đi ôm cây đợi thỏ, không ngờ Vương Tiểu Lan lại đi lễ Phật cầu cho anh ta.
Do đã hẹn trước với Vương Tiểu Lan, qua rằm tháng Giêng, những người đi làm công lần lượt rời khỏi quê thì hai người mới gặp nhau, vì thế ngày nào Tôn Tứ Hải cũng đi vun xới mảnh đất trồng phục linh đó. Do phục linh lần trước trồng phải đào trước một năm, miễn cưỡng bán đi nên chỉ đủ tạm ứng tiền sửa chữa phòng học. Sau đó lại trồng tiếp cũng được hai năm rồi. Lần này bất kể thế nào cũng phải đợi ba năm mới đào, đến lúc đấy bán được giá, mua một chiếc ti vi có ăng ten bắt vệ tinh, số tiền còn lại để cho Lý Tử đóng học phí trung học phổ thông.
Tính toán xa xôi được như vậy, Tôn Tứ Hải thấy trong lòng nhẹ nhõm hơn.