Hành giả cần phải nắm rõ hai đặc tính cơ bản của tâm từ:
1. Trưởng dưỡng thiền định;
2. Trưởng dưỡng thiện pháp.
Điều này giúp cho ta có được một đời sống hạnh phúc do tích lũy được nhiều nghiệp thiện (công đức), từ đó trợ duyên lớn cho việc tu thiền.
Loại đặc tính thứ nhất cần phải áp dụng với những phương pháp tu thiền nhất định nhằm để đạt được định (samādhi). Còn loại đặc tính thứ hai thì đa dạng hơn và uyển chuyển hơn.
Đặc tính thứ nhất cần được ứng dụng trong các khóa tu miên mật với thời thiền cố định và không gian độc lập, riêng đối với đặc tính thứ hai thì thường được dùng vào trong đời sống hằng ngày. Một khi hành giả đạt được định rồi, cho dù không ở trong thời khóa tu tập miên mật nhưng vẫn có thể nhập sâu vào định một cách dễ dàng và nhanh chóng. Cuốn sách mà bạn đang cầm trên tay chủ yếu sẽ chú trọng vào loại đặc tính thứ nhất, bên cạnh đó thỉnh thoảng cũng sẽ đề cập đến đặc tính thứ hai.
ĐỐI TƯỢNG CỦA TÂM TỪ
Ta chỉ cần rải tâm từ cho chính mình khoảng năm phút là đủ, kế đó luân chuyển đến những đối tượng khác. Đối tượng được chọn lựa rải tâm từ giống như mảnh đất màu mỡ để ta có thể vun trồng và trưởng dưỡng những hạt giống thiện lành. Do đó, quan trọng là mười phút lựa chọn ban đầu, giống như niềm tin phát khởi định sâu. Như thế, chúng ta sẽ chọn người ấy làm đối tượng thiền tập lâu dài giống như một người bạn hay căn phòng gắn bó với ta từ lâu, hẳn nhiên sẽ trở nên thân quen và thành thục trong tâm ta.
HÃY CHỌN MỘT ĐỐI TƯỢNG
Theo như nội dung Kinh Rải Tâm Từ hay những bài giảng của những vị Thiền sư chuyên về Vipassanā đều có nói đến những yếu chỉ của Thiền Rải Tâm Từ cũng như cách thức rải tâm từ cụ thể cho từng đối tượng. Cần phải lưu ý, có một số người không phù hợp làm đối tượng thứ nhất để hành giả rải tâm từ.
1. Người khác giới tính
Điều này rất dễ lý giải, bởi vì ta cần phải tránh vướng mắc và lệ thuộc vào sáu căn, nếu không rất dễ sinh tâm tham ái. Nếu đối tượng ấy là mẹ hoặc bà của ta thì sao? Chắc chắn là sẽ không... nhưng đối với một số trường phái Thiền khá bảo thủ thì điều này cũng không nên. Tôi nghĩ rằng mỗi hành giả nên tùy vào tình hình thực tế của mình mà tự đưa ra quyết định nên hay không nên áp dụng. Nếu như ta cảm thấy đối tượng đó trong phạm vi an toàn, vậy thì cũng có thể rải tâm từ thử xem. Theo kinh nghiệm bản thân của tôi cho thấy, có một số thiền sinh đã từng áp dụng điều tôi vừa nêu và đã thu lại hiệu quả khả quan.
Có người từng đặt vấn đề rằng, vậy đối với người đồng tính luyến ái thì sao? Như ta biết mục đích chính của việc tu thiền là để ngăn trừ lòng dâm dục sinh khởi. Nếu như tâm ấy phát triển tỷ lệ thuận với định lực thì nó sẽ có được một sức mạnh vô song, vì vậy câu trả lời ở đây là hành giả nên cẩn trọng đối với những đối tượng mà có khả năng làm cho ta sinh tâm tham ái và đắm nhiễm.
2. Người đã khuất bóng
Theo Thanh tịnh đạo luận (Visuddhimagga) lý giải: Sở dĩ ta không chọn lựa người đã khuất làm đối tượng rải tâm từ, bởi vì rất khó nhập định.
Xưa kia, có một vị Tỳ kheo lấy hình ảnh người thầy đã khuất của mình làm đối tượng để rải tâm từ, kết quả là vị ấy không thể nào nhập định được; tuy nhiên khi rải tâm từ cho một người vẫn còn sống, thì vị Tỳ kheo đó lại nhập định rất nhanh.
Trước đây, tôi thường hay thắc mắc vấn đề này và lời giải đáp là có lẽ do thần thức của người đã mất cứ luẩn quẩn trong tâm trí của người đó và nó đã tác động rất nhiều. Bên cạnh đó cũng không loại trừ khả năng người mất đã đến đi với một hình tướng nhất định nào đó? Cũng có thể hành giả cứ mãi hoài nghi về su hiện hữu của đối tượng đã khuất, nhiêu đó cũng đủ làm chướng ngại quá trình thiền định.
Đôi khi việc rải tâm từ cho những người đã khuất hệt như một số tự viện hay làm là cầu siêu cho hương linh sau mỗi thời tụng kinh, trì chú, niệm Phật, v.v. Vì vậy, đây là điều mà ta cũng cần phải cân nhắc khi bản thân mình chưa đủ định lực.
3. Người thân yêu nhất
Đối tượng ở đây tôi muốn nói tới là những người vô cùng thân yêu đối với hành giả, vậy theo bạn rải tâm từ đến họ có phù hợp không? Ta cần phải tĩnh lặng suy nghĩ và hỏi chính mình: “Tâm ta có dính mắc vào những người này không?” Nếu câu trả lời là có, vậy hãy khoan rải tâm từ cho họ. Đối với đối tượng này mà nói, ta cần phải học cách nhẹ nhàng hơn, uyển chuyển hơn khi rải tâm từ. Làm đúng như thế mới có thể trưởng dưỡng được định ở tầng thứ sâu hơn.
4. Người không quen biết
Những đối tượng này không phù hợp với ta hiện tại cho lắm, hoan hỷ lượng thứ cho tôi nói một câu vô tình: “Họ giống như những cỏ cây hay tòa nhà bao quanh lấy ta mà thôi”. Có thể các đối tượng ấy cũng khá quan trọng, nhưng vấn đề nằm ở chỗ ta không quen họ và họ cũng chẳng biết ta. Nếu ta mới lần đầu thực tập thì rải tâm từ cho những đối tượng này hiệu quả không cao, cùng lắm tâm từ chỉ có thể sinh khởi đôi chút; sau này thuần thục hơn, khi đó ta sẽ dễ dàng cảm nhận được những năng lượng thiện lành từ mỗi người mà ta tiếp xúc.
5. Kẻ đáng ghét nhất
Đây là những đối tượng ta cực kỳ không ưa (apiya puggala), nhưng chưa tới mức hận tới xương tủy. Có lẽ như: mái tóc, hàm râu, mùi cơ thể hoặc miệng mồm lẻo mép, v.v. của một ai đó không phù hợp với tính cách của ta chẳng hạn. Ở một góc độ nào đó cũng có thể phản ánh được một điều là tâm ta chưa đủ rộng rãi, và vẫn còn chút thiên kiến, hoặc cũng có thể là do nghiệp nhân từ nhiều kiếp trước. Để đạt được thiền định hiệu quả, xem ra ta còn cần phải nỗ lực hơn và mất khá nhiều thời gian khắc phục. Nếu ta biết cách nuôi lớn tâm từ của mình, thì những vấn đề vừa nêu cũng chỉ là chuyện nhỏ.
6. Những kẻ thù nghịch
Đối tượng này thường là những người đã từng có sự va chạm ít nhiều đối với chúng ta, nhất là những kẻ tiểu nhân đầy rẫy thủ đoạn. Có thể đối tượng đó đã công kích ta và ta cho rằng mình có đủ lý do chính đáng để báo thù kẻ kia. Rải tâm từ cho đối tượng này là việc rất khó làm trong một sớm một chiều, vì vậy thường được đưa vào nhóm đối tượng cuối cùng của Thiền Rải Tâm Từ. Nếu như ta tu đúng phương pháp, chắc chắn thiền tập sẽ nhẹ nhàng, lúc này tâm từ bi và lòng thứ tha sẽ đến với ta rất dễ và nhanh. Ở góc độ tâm lý mà nói, thù sẽ được hóa thành bạn, việc cần làm trước tiên là ta không còn đối xử với họ như kẻ thù nữa, mà chuyển sang xem họ như “một linh hồn cần được cứu rỗi”.
NGƯỜI DỄ THƯƠNG
Đây là đối tượng giúp hành giả dễ phát triển tâm từ ở tầng thứ sâu nhất. Để hỗ trợ cho hành giả sinh khởi tâm từ một cách tự nhiên nhất có thể, điều thiết yếu là người ấy phải hội đủ những đặc tính tốt như tâm từ, trí tuệ, dũng khí, v.v. Kế đến, đối tượng này cũng cần phải có đầy đủ những khí chất tương thích với hành giả, đồng thời cũng là một người sống chung với hành giả trong thời gian dài nhưng chưa hề xảy ra những va chạm trong cuộc sống.
Trong thực tế, thật sự rất khó để tìm được một đối tượng lý tưởng như vậy, cho nên chúng ta chỉ có thể gặp họ khi đủ duyên hoặc giả là chủ ý đi tìm những người hội đủ một vài yếu tố cơ bản cũng được. Ngoài ra, tôi cũng nghĩ đến một số tính chất như sau:
1. Thân thiện gần gũi
Thông thường, những người thân cận gần bên ta đều mang đến hiệu quả nhất định. Đối tượng điển hình là một người ta có thể gặp hằng ngày, sẽ khiến ta dễ sinh tâm từ hơn so với những người thân ở xa rất nhiều. Giả dụ tôi ưu tiên rải tâm từ cho đối tượng ở xa thì hình ảnh của người bên cạnh vẫn thường hay luẩn quẩn trong tâm trí. Vì vậy, tôi kiến nghị bạn nên thiền tập theo lời khuyên mà rải tâm từ cho người gần gũi bạn nhất.
2. Duy trì quan hệ
Thời gian quen biết càng lâu dài thì mối quan hệ giữa người với người càng khăng khít đậm sâu. Đối với mối quan hệ như vậy, chỉ có hai khả năng xảy ra: hoặc tốt hoặc xấu. Ở đây, đương nhiên hành giả nên chọn lựa đối tượng có duyên lành với mình rồi.
Có câu nói rằng: “Nên cẩn trọng trong việc chọn bạn mà chơi, cũng như thay bạn mới. Một người bạn tốt thì không cần thay đổi”. Từ đó có thể thấy được, cùng nhau hợp tác lâu dài, thấu hiểu và cảm thông là hai yếu tố hàng đầu, hơn nữa giữa ta và người cũng sẽ có chung một số chất liệu để nuôi dưỡng tâm từ, dù đương nhiên thỉnh thoảng cũng có những chuyện bất như ý xảy ra. Vì vậy, cả hai nên cùng ngồi lại nhìn nhận một cách có chính niệm, cũng như cùng đưa ra phương thức giải quyết vấn đề ổn thỏa và hợp lý. Chuyện buồn cho qua, niềm vui giữ lại. Đời ta, ta cứ vui.
3. Người thầy tinh thần
Đối tượng đầu tiên mà tôi muốn rải tâm từ chính là người thầy của mình. Trong người của thầy ấy tràn đầy năng lượng từ bi, và tôi mong sao mình có được một nền tảng rải tâm từ vững chắc, đồng thời duy trì nó cho đến khi nhắm mắt lìa đời. Được biết đời sống tâm linh của thầy vô cùng dồi dào phong phú, nhờ thế mà tôi mới có thể dễ dàng rải tâm từ sâu với thời gian lâu nhất.
Khi tôi chăm bón hạt giống Thiền Rải Tâm Từ cho thầy ấy, lúc này tôi mắc phải một vấn đề ở bề mặt tinh thần: Tính rộng khắp. Khi ta bắt đầu lan tỏa tâm từ, việc này sẽ nuôi lớn tâm ta bao la như trời đất vậy. Do nắm được nguyên lý này, nên tôi có thể rõ thấy tiềm năng thực thụ từ mỗi người.
Đơn cử mà nói, ai cũng có tâm thanh tịnh cả, đều có thể hành thiện. Nói một cách khác, nếu như được huấn luyện một cách kỹ lưỡng và bài bản thì họ vẫn có thể chia sẻ tình thương rộng khắp, như chúng ta biết con người là một loài động vật cao cấp với đặc tính biết thương yêu và cần được thương yêu, cũng như thể hiện tình thương yêu của mình với những sắc thái đa dạng khác nhau.
Trong lúc ngồi thiền, hành giả có thể quán chiếu thấy được mỗi chúng sinh đều đầy đủ giác tính, đều có thể chứng ngộ Thánh quả. Cách quán sát như vậy đã giúp tôi lan tỏa tâm từ một cách sâu nhất có thể khi chia sẻ với hết thảy mọi người, thậm chí kể cả những người xa lạ mà ta biết thì Thiền Rải Tâm Từ vẫn được suôn sẻ và thành công.
4. Những đối tượng khác
Có một số thiền sinh do thiếu duyên lành nên vẫn không thể tự tìm cho mình đối tượng thích hợp để rải tâm từ, thế là họ đành phải lựa chọn một con thú cưng như: chó, mèo, chim, v.v. Trong thực tế, tôi chưa từng gặp ai thử như vậy cả, nhưng tôi cũng đã chú ý đến điều này.
Đôi khi con người ta mất cảm giác quá lâu nên cần phải uyển chuyển sang việc vận dụng rải tâm bi. Chỉ cần để tâm chuyên chú vào sự đau khổ của một ai đó, thì ta dễ cảm nhận được tâm bi sinh khởi. Thỉnh thoảng, tôi cũng bị rơi vào trạng thái tiến thoái lưỡng nan như có quá nhiều đối tượng lý tưởng (đương nhiên điều này cũng hiếm khi xảy ra) hoặc có quá nhiều đối tượng “cấp hai” (lúc có lúc không) để thực hành Thiền Rải Tâm Từ. Nếu bạn cũng gặp tình trạng như vậy, cho phép tôi đưa ra kiến nghị: Chỉ cần chọn cho mình một đối tượng thôi, sau đó thử rải tâm từ một thời gian, nhớ đừng thay đổi đối tượng quá nhiều, nếu thật sự không hợp thì vẫn còn thời gian để đổi sang người khác bạn nhé!
TÂM TỪ SINH KHỞI
Sau khi đã chọn được một đối tượng phù hợp để rải tâm từ và bắt đầu dụng tâm tập trung vào người đó, để cho chắc, đôi khi ta cũng nên dự bị thêm cho mình đối tượng thứ hai và thứ ba. Ở đây cần phải lưu ý rằng, các đối tượng được rải tâm từ vừa nêu không phải là các món ăn phong phú được ghi trong thực đơn hay là các vật dụng chỉ đem dùng khi không còn sự lựa chọn khác, mà ta phải xem họ như những người bạn thật sự, một người bạn sẵn lòng dang tay giúp đỡ khi ta cần. Nếu như bạn có thói quen ngồi thiền đều đặn mỗi ngày, thì việc này rất dễ làm, nhưng trong khóa tu miên mật, cần phải rải tâm từ chuyên nhất dành cho một người.
1. Ngay tại trước mắt
Tốt nhất là hành giả hãy hình dung đối tượng được rải tâm từ đang hiện hữu ngay trước mặt một cách rõ nhất có thể, thậm chí là cảm giác được những cảm thọ của người đó luôn. Như thế người đó gần gũi trong tâm ta vô cùng, tới khi đối tượng vừa nêu xuất hiện trước mặt ta, bỗng dưng mình có được một cảm giác thân thiết và hạnh phúc biết bao!
Khi ta học được cách rải tâm từ cho chính mình (mục đích để mình được hạnh phúc hơn), thì tâm từ tự nhiên sẽ tuôn chảy như suối nguồn tươi mát tới đối tượng đang được rải tâm từ, cứ để dòng sông ấy tiếp tục tuôn chảy, đừng để những cảm xúc vặt vãnh làm gián đoạn. Khi tâm từ đủ lớn thì hầu như không còn vấn đề gì cả, hạnh phúc có được như vậy quý báu hơn nhiều so với sự hưởng thụ vật dục thế gian.
Để chốt lại vấn đề vừa nêu, tôi muốn đưa ra một quan điểm: Quán tưởng ở đây chính là dùng tâm nhãn nhìn vào đối tượng mà ta đang hướng tâm đến, giống như là ta đang mở mắt vậy. Mặc dù ai cũng biết cách này rất vi diệu, nhưng không phải ai cũng có thể làm được. Bí quyết nằm ở chỗ tâm từ phải được tuôn chảy từ tâm thức, đồng thời duy trì được sự hướng tâm về đối tượng đó một cách liên tục. Nếu như ta cứ mãi quán tưởng quá sức thì một số vấn đề rắc rối sẽ xảy ra như đầu óc căng thẳng hay trong lòng bứt rứt chẳng hạn. Cần phải nhớ rằng, chỉ thuần túy quán tưởng thì không có nghĩa là đã có từ tâm, có một số người tuy đang quán tưởng nhưng hầu như họ không giữ được chính niệm vững bền.
Tôi biết bạn sẽ hỏi: “Nếu như mình không rõ đối tượng thì làm sao có thể sinh trưởng được định lực?” Theo kinh nghiệm của tôi, chỉ cần mình kiên trì luyện tập, chắc chắn hình ảnh đối tượng được hướng tâm đến sẽ ngày một rõ hơn và chi tiết hơn. Từ đó, tôi nghiệm ra rằng cách làm này đã hỗ trợ rất nhiều trong việc giúp tâm từ tuôn chảy như suối nguồn.
2. Tư duy hồi ức
Ngoài ra, ta cũng có thể tư duy hai điều sau đây để giúp tâm từ sinh khởi:
a) Những kỷ niệm đẹp trong đời, như nhận một món quà sinh nhật, công việc làm ăn thuận lợi, gặp quý nhân giúp đỡ khi nguy khốn.
b) Những đức tính tốt của đối tượng mình hướng tâm đến như: từ bi (v1), trí tuệ (v2), tấm lòng nhân ái (v3), v.v. Ta cũng có thể liệt kê những đức tính vừa nêu vào một tờ giấy, để nhận biết và sử dụng dần dần. Giả như ta đang quán tưởng đức tính đầu tiên (v1), cứ thế lặp lại nhiều lần cho đến khi không còn hiệu nghiệm nữa thì thôi. Sau đó đổi sang đức tính kế tiếp (v2). Do mới hướng tâm sang đức tính mới, cho nên tâm từ sẽ dễ tuôn chảy hơn, cứ thế lại hướng tâm đến khi nhuần nhuyễn mới thôi, lúc này lại chuyển về đức tính thứ nhất (v1). Nếu cảm thấy vẫn hữu ích thì ta cứ tiếp tục hướng tâm và cứ thế luân phiên qua lại, một thời gian sau lại chuyển sang đức tính kế tiếp nữa (v3).
3. Tự do quán tưởng
Có một anh bạn quan niệm rằng, rất khó sinh khởi tâm từ nếu theo phương pháp truyền thống. Anh ta cho rằng như thế rất gượng ép, không thoải mái, nên muốn để cho tâm từ sinh khởi một cách tự nhiên. Thế là anh ta nghĩ về những chuyện đã phát sinh ở quá khứ hoặc có thể sẽ xảy ra trong tương lai, v.v. Ví dụ: Anh ta tưởng ra cảnh bạn của mình đang trên đường đi làm về và người bạn ấy đang gặp một số phiền toái. Vì vậy, anh ta bước tới khoác vai người bạn ấy và hỏi rằng: “Hôm nay có chuyện gì thế?” Hoặc cũng có thể tưởng ra cảnh người bạn của mình đang ôm đứa con mới sinh được vài tuần và anh ta bước tới chúc mừng.
Trong suốt thời gian tưởng tượng một cách tự do như vậy, lúc đầu hành giả sẽ nghĩ tới rất nhiều người, nhưng khi đã tiến vào trạng thái tập trung rồi thì cần phải thu hẹp phạm vi lại, chỉ cần hướng tâm đến một đối tượng là đủ. Ưu điểm của cách này là ở chỗ hành giả có thể tự do phát huy trí tưởng tượng của mình. Thông qua việc hướng tâm về trẻ em hay người bệnh, v.v. để giúp ta phát khởi tâm từ dễ hơn. Có lúc cũng sẽ sinh khởi tâm bi, tâm hỷ và tâm xả, những tâm vừa nêu đều thuộc về phạm trù của tâm vô lượng.
Bên cạnh đó, ta cũng cần lưu ý một điều: hướng tâm nên phải chuyên nhất, vừa đủ miễn sao để tâm từ tuôn chảy là được. Nếu không sẽ bị phản tác dụng mà sinh ra tâm tham dục hoặc trạo cử hay hôn trầm, thậm chí là cả tâm sân và đau khổ nữa.
4. Tụng niệm kinh văn
Đây là bước đầu tiên khi ta tu tập thiền định, nhiếp tâm vào từng chữ từng câu; nếu ta hiểu được ý nghĩa của đoạn kinh văn ấy, thì thời khóa tụng kinh mới có chất lượng và sinh ra phúc được. Kệ tụng rải tâm từ có vài phiên bản, ở đây tôi dùng bản phổ biến nhất, đương nhiên nội dung y cứ vào thánh điển Phật giáo, kể cả một số cách phát nguyện sẽ dựa theo phương pháp truyền thống. Nếu biết cách tụng niệm, sẽ sinh ra được định ở dạng thấp, cho tới khi ta có thể hòa cùng tiếng kệ lời kinh thì lúc này sẽ nhu nhuyến và nhẹ nhàng hơn, từ đó tâm sẽ tiến vào trạng thái nhập định sâu hơn nữa.
5. Hồi hướng phát nguyện
Phát nguyện là một trong những phần rất quan trọng của việc tu thiền. Khi phát nguyện, tâm của ta sẽ hướng về một đối tượng nào đó ở một nơi nào đó. Do tính chất của mỗi lời phát nguyện khác nhau nên tâm thái theo đó cũng có khác. Sức mạnh của tâm là rất lớn, vì vậy cần đặc biệt chú ý đến ý nghĩa nội hàm của những câu từ sử dụng trong lời văn phát nguyện.
Ví dụ: “Mong việc hành thiền mang đến hạnh phúc!” Ta thấy câu này rất chung chung và cũng không nói lên được đây rốt cuộc là hạnh phúc gì, người ta thường hay lẫn lộn giữa hạnh phúc với trạng thái an lạc. Hơn nữa, an lạc thường được sử dụng ở thế gian nhưng cũng có thể dùng vào việc xuất thế.
“Mong việc hành thiền tịnh hóa tâm ta!” câu này rõ nghĩa hơn nhiều, ý muốn nói đến việc tu hạnh xuất ly, nhưng phương hướng của nó cũng không quá rộng. Ta nên sửa thành: “Mong cho việc hành thiền giúp ta có được trí tuệ, từ đó thể ngộ được thực tướng Niết bàn, nhờ vậy tâm ta sẽ được tịnh hóa hoàn toàn”. Nội dung của câu này bao hàm cả chính kiến (chí ít ở mặt lý luận) giúp ta quán chiếu thấy được thực tướng Niết bàn. Tâm sở được đề cập đến ở đây chủ yếu là tư (cetanā), còn được gọi là “ý hành”, đây chính là tâm làm sản sinh ra những năng lực tạo tác, trong kinh thường gọi là “nghiệp” (kamma). Tâm sở theo đó sinh ra những quả báo khác nhau. Nhờ có chính niệm, nên nghiệp của ta mới thiện lành. Khi thực hành Thiền Rải Tâm Từ, chính niệm cần phải đồng hành với tâm từ - lời văn phát nguyện chính niệm hướng về tâm từ.
Có một số bài văn phát nguyện chưa được phù hợp cho lắm, bởi vì câu từ nội dung hướng hành giả đến tâm tham. Đại khái như câu: “Tôi mong...”, ta có thể hiểu câu này là “tôi ước ao..." Phát nguyện có hai loại cơ bản: thực và không thực tế.
Nếu văn phát nguyện không thực tế, thì sẽ dẫn đến tham ái được sinh ra từ vọng tưởng. Đơn cử, “mong cho khi thực hành thiền tọa, tôi sẽ chứng ngộ được Niết bàn!” Nguyện này được xem là không thực tế, bởi vì rất hiếm người đạt được mong ước như vậy, trừ phi người đó đã tu nhiều đời nhiều kiếp, và vì nó không thực tế nên đây hầu như chỉ là mong ước viển vông.
Khi ta phát nguyện “mong thực hành thiền quán để dẫn đến Niết bàn”, câu này không có nghĩa là chúng ta mong muốn chỉ trong thời thiền này đạt đến cảnh giới Niết bàn, mà chẳng qua đây chỉ là đặt ra mục tiêu cho tâm ta mà thôi. Bên cạnh đó cũng có những mục tiêu thực tế hơn, phù hợp hơn như “mong cho toàn thân tôi buông thư...”. Chúng ta cần phải xác định được nội dung mà mình phát nguyện có chính niệm và không tham ái.
Tầm quan trọng kế tiếp của phát nguyện là chúng ta cần phải tin vào hiệu lực của việc làm này, chỉ có như vậy mới có thể đem đến hiệu quả thiết thực, và đối với người phát nguyện cũng như vậy.
Tôi còn nhớ một lần nọ ở Myanmar, tôi đã thực hành phép rải tâm từ cho một người bạn ở Malaysia. Một hồi sau đó, tôi nhận được cuộc gọi từ người bạn ấy hỏi là có phải tôi đã rải tâm từ cho vị đó hay không. Mặc dù mối quan hệ giữa hai chúng tôi cũng chưa thực sự thân cho lắm, nhưng do thần giao cách cảm nên thầy đó nói trong một quãng thời gian nhất định đã khởi tâm nghĩ về tôi (bình thường hầu như là không) và tự nhiên có được một cảm giác rất là hoan hỷ, điều này càng làm tôi kinh ngạc bội phần.
Tâm từ và tâm bị đều có thể chữa trị được những vấn đề nơi thân và tâm, điều này đã được khoa học hiện đại công nhận. Lời văn phát nguyện phải ngắn gọn, súc tích và rõ ràng thì tâm mới dễ từ.
Theo phương pháp truyền thống, chúng ta thường hay dùng bốn câu nguyện để rải tâm từ cho mình và người:
1. Mong cho bạn hoặc anh ấy / cô ấy bình an không còn mọi oan trái (Averā hontu)
Bình an là nhân tố cơ bản để có được sự an lạc. Theo quan điểm của đạo Phật, trong thế gian vô thường này chỉ có chứng đắc Niết bàn mới chính là hạnh phúc đích thực. Tuy quan điểm này khiến cho con người hoang mang, lo lắng nhưng đây mới là sự thật. Khi hiểu và đồng ý với quan điểm này nghĩa là bạn đã tiến bộ rất nhiều so với trước đây. Bước kế tiếp là hướng về đó mà tu.
Oan trái hiểm nguy được nhắc đến ở đây chủ yếu đến từ nội tại và ngoại tại.
Nội tại: Phiền não và bất thiện nghiệp trong mỗi chúng ta.
Ngoại tại: Có người muốn hại bạn hoặc là những tai nạn bất ngờ ảnh hưởng đến tính mạng của bạn.
Hai loại oan trái đến từ nội tại và ngoại tại này đều có mối quan hệ hỗ tương mật thiết lẫn nhau. Khi ta giữ chính niệm hoặc rải tâm từ, tâm sẽ tịnh hơn, lúc ấy thậm chí là sau đó, tâm không còn phiền não nữa. Vì rằng phiền não là nguyên nhân căn bản của khổ đau và nó khiến chúng sinh trôi lăn trong ba cõi. Khi giữ được chính niệm với tâm từ và tâm bị, chúng ta có thể phòng hộ được mọi oan trái đến từ bên ngoài.
Theo một số lời văn phát nguyện rải tâm từ thì tâm từ chính là sức mạnh bảo hộ thân tâm. Truyện kể như sau: Khi Bồ tát có tâm từ thì cung tên không thể nào hại được, nhưng khi tâm từ vắng mặt thì vết thương phát tác. Từ đó thấy được lợi ích cơ bản của tâm từ chính là khiến cho những thứ độc hại như: lửa, thuốc độc, vũ khí, v.v. không thể tiếp cận hành giả được. Do đó định lực kiên cố là điều rất quan trọng.
Ưu điểm của nguyện này chính là giúp hành giả giảm thiểu được những oan trái xảy ra trong đời sống. Trong quá trình tu thiền, ít nhiều ta sẽ đạt được một cảm giác thư thái, thoải mái, dễ chịu và hạnh phúc. Nhờ có được lợi lạc thiết thực như vậy, cho nên người ta mới dấn thân phụng hiến cho lý tưởng sống cao đẹp và thanh tịnh.
2. Mong cho tâm của bạn hoặc anh ấy / cô ấy an yên, không còn phiền não (Abyāpajjā hontu)
Tôi dùng hai từ “vắng lặng” để thay cho “an lạc” nhằm nói lên các tầng thứ sâu cạn khác nhau. Vắng lặng ở đây gần nghĩa với Chỉ (samātha) hơn, và nó có liên quan đến tâm thanh tịnh. Ai trong chúng ta cũng đều mong muốn loại bỏ hoặc khắc phục được nỗi khổ tâm lý với những cảm xúc tiêu cực như: sợ hãi, căng thẳng, tuyệt vọng, tức giận, ưu buồn, tham ái, vọng tưởng, tà kiến, v.v. Chúng ta cần phải nhận diện được sự hiện hữu của những cảm xúc vừa nêu thì mới có thể xử lý chúng được. Trừ khi ta biết quán chiếu thực tướng các cảm xúc ấy một cách mạnh mẽ nhất, triệt để nhất, nếu không chỉ biết mỗi việc cứng nhắc cho rằng không có “tôi”, không có cái “của tôi” thì cũng chẳng có lợi ích gì nhiều. Hơn thế nữa, chúng ta nên phân định rõ ràng việc thực hành Thiền Rải Tâm Từ một cách có hệ thống, linh động và mang đến hiệu quả tốt nhất.
3. Mong cho thân của bạn hoặc anh ấy / cô ấy khỏe mạnh, không còn đau đớn (Anighā hontu)
Nguyện này mong muốn cho đối tượng được rải tâm từ cảm nhận được sự thoải mái nơi toàn thân. Có một sự thật cần phải nhìn nhận, đó chính là “khổ thân” (sự khổ nơi thân), sau đó thấy được nỗi “khổ về thân” nếu được trị liệu đúng cách thì sẽ hết. Hơn thế nữa ta phải biết trân trọng và giữ gìn sức khỏe, vì điều này mang đến một năng lượng an lành. Nghĩa là nguồn năng lượng khỏe mạnh từ thân liên quan mật thiết đến việc nghỉ ngơi, sự sống và tuổi thọ, v.v.
4. Mong cho thân tâm của bạn hoặc anh ấy / cô ấy được khỏe mạnh, bình yên (Sukhi attānam)
Nguyện này mang tính thông dụng, bao hàm hết thảy các mặt khác. Điều này có liên quan đến đời sống tương lai của một người, cũng như những lợi ích tu hành hằng ngày của người ấy. An lạc cả thân và tâm chủ yếu đến từ việc chuẩn mực, hợp lý trong các sinh hoạt thường nhật như: ăn uống, ngủ nghỉ, vệ sinh, làm việc, v.v. nhằm để duy trì cuộc sống khỏe mạnh, vui vẻ, không bệnh tật. Nói tóm lại, ta cần phải sống cho có chất lượng thì thân tâm mới an lạc được.
Ngoại trừ điều nguyện thứ tư ra, thì ba nguyện còn lại đều chứa đựng cả hai mặt tích cực và tiêu cực của nó. Chúng ta cần phải nhận diện và xử lý cả hai điều này. Nói một cách dễ hiểu là chúng ta cần phải sống sao cho mọi thứ được toàn vẹn, vắng lặng, khỏe mạnh và hạnh phúc, v.v. Chỉ nhận diện nhiêu đó thôi cũng đã tốt hơn rất nhiều rồi. Bên cạnh đó, đôi khi có những sự việc hiểm nguy kề cận trước mặt, lúc này ta nên nhìn trực diện vào mặt tiêu cực sẽ phù hợp với thực tế hơn.
Trong lúc tu tập Thiền Rải Tâm Từ, bạn cũng có thể quán tưởng về đối tượng mà bạn rải tâm từ đang hiện hữu trước mặt mình. Khi tâm từ của bạn bắt đầu tuôn chảy thì bốn lời nguyện này sẽ giúp cho tâm luân chuyển liên tục và xuyên suốt hơn. Ngoài ra, bạn cũng có thể phát nguyện thêm một lần nữa với tâm thái đúng đắn, như thế cũng đủ để sinh khởi tâm từ rồi, đây chính là nguồn năng lượng đến từ mình và hướng về đối tượng cần được sẻ chia.
Khi bạn bắt đầu với lời nguyện đầu tiên “mong cho bạn bình yên...” thì dòng chảy năng lượng này cũng sẽ hướng về người đó, hình thành nên một lớp màng bảo vệ, không chỉ ở bên ngoài thân, mà còn tận đến bên trong tâm nữa. Đồng thời, có thể dòng chảy năng lượng tích cực sẽ khiến trong bạn và đối tượng được bạn rải tâm từ cùng xuất hiện một cảm giác thư thái, thoải mái, bình yên và hạnh phúc khôn xiết.
Kế đến nguyện thứ hai, cảm nhận từ tâm của bạn đến tâm của người được rải tâm từ với những trạng thái như an yên và hỷ lạc, đồng thời bạn cũng sẽ cảm nhận được sự bình yên của người đó.
Khi đến nguyện thứ ba, hình dung ra một nguồn năng lượng bao trùm khắp toàn thân người được rải tâm từ, từ cảm giác thư thái dễ chịu cho đến một sức sống vô hạn. Nếu có bộ phận nào trên cơ thể cần chăm sóc, chúng ta sẽ tập trung hơn vào phần đó.
Nguyện cuối cùng cũng khá thông dụng với việc hướng tâm từ về ai đó một cách liên tục, mãi cho đến khi cả hai bạn được đắm chìm trong sự che chở, bao bọc của biển từ mênh mông với sự bình yên sâu lắng.
Cần lưu ý rằng nguồn năng lượng tỉnh thức mà ta lan tỏa có thể ở dạng vật lý, và cũng có thể là một dạng tâm lý. Một số người còn miêu tả nó với dạng ánh sáng, một dạng mà ta có thể cảm nhận một cách cụ thể được. Nhưng không được quên, mục đích quan trọng của ta là đang rải tâm từ. Nhiệm vụ thiết yếu lúc này là giữ tâm sao cho vắng lặng thanh tịnh, đồng thời trưởng dưỡng định sâu và mạnh hơn. Phần này khi ứng dụng không nên nóng vội, nếu không việc thiền tập sẽ đi lệch hướng và giảm đi hiệu quả.
Mục đích của bốn lời phát nguyện này nhằm để phát khởi tâm từ, vì vậy mỗi một nguyện đều hàm chứa nội dung thúc đẩy phát khởi từ tâm. Khi tâm từ được sinh khởi, ta cố gắng duy trì nó lâu nhất trong khả năng có thể. Khi ta phát lời nguyện thứ nhất (al), tâm từ sinh khởi và phát triển, cứ thế duy trì tâm từ đến khi nó giảm và mất hẳn; tiếp đến là phát nguyện thứ hai (a2), nguyện thứ ba (a3) và nguyện thứ tư (a4) cũng giống như vậy. Tâm từ được duy trì liên tục luân phiên lâu nhất. Tiếp sau đó ta lại trở về với nguyện thứ nhất (al), vòng tuần hoàn này có thể lặp đi lặp lại nhiều lần.
Điểm cần lưu ý nữa là, đối với một vài lời phát nguyện có thể sẽ rất hữu dụng, vì vậy ta nên vận dụng nhiều hơn một chút; còn những lời phát nguyện ít hiệu dụng hơn thì hạn chế dùng cũng được, thậm chí là không dùng tới cũng không sao cả. Miễn sao tâm từ cần phải được hướng cho đối tượng được rải tâm từ một cách vắng lặng tự nhiên nhất.
Nếu như thêm vài lời phát nguyện thì sao, hoặc thay đổi thứ tự thì như thế nào? Tôi nghĩ, chỉ cần bốn lời phát nguyện này là đã đủ lắm rồi. Đối với những thiền sinh mà nói, nhiều nguyện quá sẽ làm cho họ rối loạn. Có thể nói bốn lời nguyện này đã hàm chứa hầu hết những điều thiết thực trong đời sống. Đương nhiên, ta cũng có thể uyển chuyển thêm hoặc bớt một số nguyện hoặc giữ nguyên.
Ví như đối với một số em học sinh đang chuẩn bị thi cử, ta “mong em thi tốt.”; còn với những người đang chịu khổ vì mắc bệnh hiểm nghèo, ta “mong anh / chị thuyên giảm bệnh.. Còn tôi thường hay nguyện “mong tâm từ của anh / chị tăng trưởng” hoặc “mong bạn Thiền Quán tiến bộ”. Những lời nguyện vừa nêu đều có liên quan đến việc tu trì thiền định và đương nhiên cũng rất hiệu nghiệm trong thực tế.