• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Thiền rải tâm từ
  3. Trang 18

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 17
  • 18
  • 19
  • More pages
  • 38
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 17
  • 18
  • 19
  • More pages
  • 38
  • Sau

Ngũ cái

Ngũ cái (pañca nīvaranāni) còn được gọi là năm triền cái và chúng được xếp vào một dạng phiền não, cho nên nó sẽ gây chướng ngại trong việc trưởng dưỡng chính định, làm cho ta sinh khởi nhiều nỗi khổ niềm đau, không thể hướng về chân lý. Năm triền cái này bao gồm:

1. Tham dục (kāmacchanda);

2. Sân nhuế (byāpāda);

3. Hôn trầm thụy miên (thāna-middha);

4. Trạo cử ác tác (uddhacca-kukkucca);

5. Nghi (vicikicchā);

Có một điều khá thú vị là năm triền cái này sẽ đối nghịch với năm thiền chi:

1. Tham dục - Nhất cảnh tính;

2. Sân nhuế - Hỷ;

3. Hôm trầm thụy miên - Tầm;

4. Trạo cử ác tác - Lạc;

5. Nghi - Tứ.

Nếu phân loại theo Tứ phạm trú1, thì chúng là những kẻ địch gần và trực tiếp nhất.

1 Tứ phạm trú (cattāri brahmavihārā), dịch theo nghĩa đen là “Bốn nơi an trú của trời Phạm thiên” hay còn được gọi là Tứ vô lượng tâm (catasso appamaññāyo): 1. Từ vô lượng (metta-appamaññā); 2. Bi vô lượng (karuṇā-appamaññā); 3. Hỷ vô lượng (muditā-appamaññā); 4. Xả vô lượng (upekkhā-appamaññā). Bốn tâm này chủ yếu đối trị với bốn phiền não: 1. Sân hận; 2. Ganh tị; 3. Buồn bực; 4. Ham muốn. Thiền quán Tứ vô lượng tâm giúp hành giả được tái sinh về cõi trời.

a6

Tu định trong Thiền Rải Tâm Từ sẽ có một số hạn chế nhất định, trước nhất ta cần phải nhận diện được nó, như thế mới tìm ra được cách đối trị thích hợp nhất.

1. Tham dục (kāmacchanda)

Tham dục là khởi tâm đắm nhiễm và chấp trước vào các đối tượng có sức hấp dẫn, cuốn hút khi ta tiếp xúc với chúng. Do đó, những thiền sinh mới thực hành thiền không nên rải tâm từ cho người yêu, vợ chồng hoặc những người khác giới tính.

Ví dụ nghĩ về những “thời khắc vui vẻ” khi đang hiện hữu cùng họ ở nơi nào đó. Một khi ý niệm này sinh khởi lên, phải nhanh chóng quán chiếu một cách có chính niệm, đồng thời để tâm quay trở về với trạng thái “tâm từ” đúng đắn. Nếu vẫn chưa làm được thì phải quay lại với lời phát nguyện đầu tiên, đó là rải tâm từ cho chính mình.

Tham dục được sinh ra bởi sự khát ái nơi tâm, thông thường rất ít người có thể nhận thấy được điểm này, ngược lại họ còn sa ngã vào cảm giác khoái lạc ấy. Ta không thể nào lấp đầy những dục lạc của các giác quan, ngược lại còn làm cho khát ái ngày một mạnh hơn. Chúng ta rất dễ để thói quen xấu này phát triển, đồng thời đắm chìm trong đó, lâu ngày dài tháng nó sẽ trở thành một thói quen cố hữu tự nhiên khó bỏ.

Vậy nên, chúng ta cần nhận thức được rằng mình không bao giờ thỏa mãn được tham ái, vì vậy cần phải giảm thiểu và từ bỏ nó. Khi ta nếm trải được mùi vị hỷ lạc của việc giải thoát, tham dục cũng sẽ không còn sinh khởi nữa, và tâm từ sẽ đem đến sự hỷ lạc thanh tịnh, cho nên pháp tu này thích hợp với rất nhiều người. Một khi từ bỏ được hết thảy mọi sự tham ái thì hành giả sẽ dễ dàng bước vào cảnh giới giải thoát hơn.

Thỉnh thoảng, chúng ta đắm chìm vào những cảm giác hỷ lạc của thiền định. Do niềm hỷ lạc này được diễn ra một cách rất tự nhiên nên ít người chú ý đến, vì vậy, cần phải cảnh giác với loại tham ái này, nhưng cũng đừng quá lo lắng vì hỷ cũng là một trong năm thiền chi, hơn nữa nó cũng được sinh khởi cùng lúc với tâm thiện và chắc chắn cũng sẽ bị vô thường chi phối.

Khi có được kinh nghiệm từ Thiền Quán, ta sẽ dễ dàng nhận diện được đâu là tham ái và đâu là hỷ lạc. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần thường xuyên quán xuyến tâm trạo cử1 cũng như tâm vắng lặng hiện đang sinh khởi. Hỷ lạc nếu sinh khởi cùng lúc với tham ái sẽ rất hỗn loạn và phức tạp. Một khi loại bỏ được tham ái, tâm ta sẽ dễ nhập định sâu hơn và lâu hơn, vì vậy mấu chốt vấn đề ở chỗ chính niệm. Nếu như bạn vẫn chưa tin tưởng được những điều vừa nêu, thì hãy sinh khởi tâm ly chấp2 và quan sát xem kết quả có được như thế nào.

1 Tâm trạo cử: Trạng thái tâm bị các niệm lăng xăng chi phối. Theo kinh điển Nikāya miêu tả, tâm này còn được gọi là “tâm lang thang”, vì mải mê suy nghĩ lan man hết chuyện này đến chuyện khác không dứt. Điều cần lưu ý là những niệm trạo cử không hẳn là niệm ác, nhưng cũng không phải là niệm thiện, chúng chỉ là những niệm trung tính.

2 Tâm ly chấp: Tâm xa lìa chấp trước, dính mắc vào bất kỳ các đối tượng, dù tốt hay xấu.

Ngoài ra, có một cách khác nữa là rải tâm từ cho một người khác hoặc tất cả chúng sinh trước khi quay về với đối tượng đầu tiên. Việc làm này sẽ khiến cho tâm từ dừng lại, đồng thời trạng thái định tạm thời cũng sẽ không còn nữa, nhưng không sao, bởi vì an toàn là trên hết. Đặc biệt khi có vị thầy hướng dẫn bên cạnh, ta sẽ hạn chế được vấn đề này rất nhiều. Nếu như tham ái vẫn còn quá mạnh thì hành giả cũng có thể chuyển sang Thiền Quán Bất Tịnh để đối trị lại chúng. Cách tốt nhất là Thiền Quán để sinh khởi chính định và chính niệm.

2. Sân nhuế (byāpāda)

Có người thắc mắc tại sao khi Thiền Rải Tâm Từ lại có thể sinh ra được sân nhuế? Mặc dù khi tâm từ đủ mạnh thì sân nhuế khó mà xuất hiện cho được, nhưng vấn đề ở chỗ trước khi ta có được khả năng ấy thì sân nhuế vốn dĩ là một kẻ địch trực tiếp rồi, nhất là đối với những người tâm hay sân hoặc đã từng bị tổn thương trước đây. Vì vậy, ta cần có những thao tác chuẩn bị như suy niệm hay rải tâm từ cho chính mình, cũng như cho các đối tượng khác, v.v. Chúng ta chỉ có thể thực hiện từng bước với sự nhẫn nại nhất có thể. Đối với những trường hợp khó hơn, cần phải rải tâm bị trước rồi mới đến rải tâm từ.

Có một số người do trước đây từng bị “vết thương lòng” quá lớn nên họ đã “khép kín” hết mọi cánh cửa hy vọng cho chính mình, lý do rất đơn giản dễ hiểu, bởi vì họ không muốn mình một lần nữa lại bị tổn thương và họ không thể nào chịu đựng nổi vết thương sau nằm chồng lên trên vết thương trước.

Khi rải tâm từ cho đối tượng này, hành giả cần phải đặc biệt cẩn trọng bởi vì người đó sẽ rất dè dặt hay sợ hãi khi “mở cửa lòng” trở lại do vết thương trong nội tâm của họ vẫn còn hiện hữu, họ đã mất hết niềm tin giữa người với người. Nếu cần thiết thì ta cũng có thể đưa đối tượng này vào dạng “chăm sóc” đặc biệt.

Một khi trong tâm hành giả chưa thật sự thoải mái, thư thái thì khó mà phát triển tâm từ hiệu quả. Việc cần thiết là làm sao để họ học được cách tha thứ và lòng bao dung, đồng thời hiểu được sân hận sẽ bị khuất phục trước tình thương vị tha vô bờ bến. Đừng khiếp sợ những cảm giác tiêu cực đó, ngược lại cần nhận diện và tiếp nhận nó hệt như ta vỗ về, ôm ấp một đứa trẻ đang khóc vào lòng. Thái độ cần phải thành khẩn, nếu không vết thương lòng của ai đó sẽ khó mà thuyên giảm và khỏi hẳn.

Sân nhuế được sinh khởi khi tiếp xúc với những đối tượng mà ta ghét bỏ. Vì vậy trong giai đoạn đầu, hành giả cần phải tránh rải tâm từ cho những đối tượng quá ghét hay có thù địch với mình. Bên cạnh đó, nếu có những thứ làm ta cảm thấy khó chịu, việc cần làm lúc này là hãy để mặc những cảm xúc tiêu cực đó “tự bơi” một thời gian, tới một lúc nào đó nó sẽ hết và trạng thái hỷ lạc sẽ đến một cách tự nhiên. Giả như vẫn chưa làm được, ta cũng có thể quay về nương tựa chính niệm nhằm để duy trì trạng thái cân bằng của tâm.

3. Hôn trầm thụy miên (thāna-middha)

Hôn trầm hay thụy miên là một trong những trạng thái của tâm lười nhác, yếu đuối. Khi cơ thể mệt mỏi, ăn quá no hay ngủ quá nhiều cũng sẽ dễ dẫn đến trạng thái này. Những hiện tượng vật lý vừa nêu rất dễ xử lý, chẳng hạn nên ngủ vừa đủ, ăn vừa no. Nhưng nếu như hôn trầm thụy miên đến từ hiện tượng tâm lý thì sẽ khó hơn nhiều cho việc giải quyết chúng.

Về mặt khoa học mà nói, ngủ vốn dĩ không thuộc về hôn trầm thụy miên cái, bởi vì nó chỉ là một trạng thái của việc ngủ nghỉ mà thôi. Khi tâm không sinh khởi thì ý niệm sẽ quay trở lại với trạng thái bị động. Thông thường, người ta rất khó phân biệt rõ giữa hai thứ này với nhau. Hôn trầm thụy miên khiến cho các giác quan của ta bị đóng lại, từ đó dẫn đến việc ngủ gật.

Khi nhận thức được mình đang bị hôn trầm thụy miên, hành giả có thể nghĩ về những tác hại của việc hôn trầm hay những lợi ích của sự tinh tấn, nghĩ về những khổ đau khi cái chết cận kề bên cạnh, từ đó giúp ta trân quý thời gian mà sẽ khẩn trương hơn, nỗ lực hơn. Suy niệm về Phật, Pháp, Tăng cũng sẽ giúp ích cho ta rất nhiều.

Bên cạnh đó, khi thực hành Thiền Rải Tâm Từ, suy niệm về những lợi ích của tâm từ hay tác hại của sân nhuế cũng có thể trợ giúp cho tâm ta an yên. Ngoài ra, chúng ta cũng nên cố gắng làm sinh khởi một số cảm xúc tích cực, hoặc tinh tấn phát bốn lời nguyện, hoặc đôi khi cũng có thể chuyển sang thiền hành, tất cả đều sẽ rất có ích.

Hay ta còn có thể thử một số cách đơn giản hơn như xoa hai lòng bàn tay tạo ra hơi ấm và áp vào mặt, vào mắt, vào tai, cũng như hít thở sâu vài lần, v.v.

4. Trạo cử ác tác (uddhacca-kukkucca)

Trạo cử ác tác là một trong những trạng thái làm tâm ta buông lung tán loạn, vì vậy khó mà an yên được, hệt như những con sóng nhấp nhô ngoài biển khơi, chưa từng bình lặng. Lo lắng và hối hận (nghĩa là vì chuyện đã làm hoặc chưa làm mà cảm thấy không vui) đều làm ảnh hưởng đến sự vắng lặng của nội tâm. Thông thường, tâm sẽ không nhẫn nại chờ đợi mà vội tìm cách giải quyết vấn đề ngay.

Tâm dao động bởi những chuyện vừa nêu thường là không rõ vì lý do gì, cũng có thể là do ta bận rộn chuyện mưu sinh chẳng hạn. Phàm việc gì cũng có nguyên nhân của nó cả, và ta nên dựa vào chính mình để tìm ra nguyên nhân thật sự để rồi tìm cách giải quyết vấn đề hợp lý. Sẽ rất hữu ích khi ta có thái độ đúng đắn đối với việc nhận thức cuộc sống hoặc thiền tập.

Ví dụ khi ta làm một việc gì đó với mong ước mình sẽ thành công, nhưng kết quả lại không như mong đợi, thế là bỗng nhiên cảm thấy mây đen bủa vây tâm trí ta. Hoặc giả như ta nhìn một chuyện nào đó với ánh mắt phán xét tiêu cực, mà đáng lẽ đúng hơn là chỉ nên thuần túy quan sát thực tướng của nó.

Trong quá trình Thiền Quán, ta cần phải nhận thức được rằng tâm an yên, vắng lặng đến từ sự rõ biết như thật, và cứ thế mà duy trì trạng thái này. Vì vậy, chúng ta cần phải an trú chính niệm ngay thời điểm ấy và tại nơi ấy. Còn trong quá trình Thiền Rải Tâm Từ, điều này giống hệt như mình đang rải tâm từ cho chính mình. Nếu như ý niệm ấy không bị trạo cử hay gấp rút, ta quan sát nó một cách chính niệm trên từng sát na mà buông bỏ trạo cử, sau đó quay về việc rải tâm từ cho đối tượng cần thiết. Khi tâm ta được an yên với việc tâm từ đang hiện hữu sự vắng lặng, hoan hỷ, thư thái và thoải mái, thì đương nhiên không nên lầm bầm những lời chúc nguyện một cách vội vã cứng nhắc.

Có khi nào ta tự hỏi: “Sao lại trạo cử?” Cái gì cũng có nguyên nhân của nó cả, một khi đã lần tìm ra được manh mối rồi, lúc này ta cần nghĩ đến việc tìm cách giải quyết vấn đề. Nếu tâm ta đang quá đỗi bất an và nguyên do đến từ những vấn đề trong gia đình hoặc tình cảm xáo trộn, lúc này có thể rải tâm từ đến những người thân, nhờ đó vấn đề cũng được tạm lắng xuống; nếu không, tốt nhất bạn nên tìm cho mình một vị thầy hướng dẫn thích hợp.

5. Nghi (vicikicchā)

Nghi ở đây chủ yếu chỉ cho sự nghi ngờ về phương pháp ta đang thiền quán. Lúc này, ta cần phải làm rõ mình đang thực lòng tìm cầu chân lý hay đang nghi ngờ, do dự khi mơ hồ không xác quyết? Do đó, cần phải xác định rõ hai việc vừa nêu. Đầu tiên là tìm đáp án một cách có trí tuệ, cho nên việc này rất đáng được khuyến khích; còn việc sau đích thị là nghi triền cái (vicikicchā nīvarana) - tìm đáp án với việc siêu tưởng ngoài năng lực của chính mình, hậu quả là gặp nhiều tác dụng phụ làm cho tâm bất an. Có lẽ khi chưa đạt được thành quả như dự tính thì nghi triền cái thường sinh khởi đồng hành với trạo cử.

Muốn giải quyết được vấn đề vừa nêu cần phải có tri kiến mới có thể sáng tỏ được mối nghi hoặc. Để làm được điều này, ta cần phải nghe được chính pháp với những thầy giáo thọ hoặc huynh đệ có kinh nghiệm tu tập dụng tâm lắng nghe và sẵn lòng hỗ trợ. Và trong khi thực hành Thiền Rải Tâm Từ cũng giống như vậy, một khi nhân duyên cơ bản đã hội tụ đủ thì quá trình tiến triển không còn là vấn đề, nghi triền cái cũng sẽ không nghiêm trọng như ta nghĩ. Giả như nghi triền cái hiện diện, cách thức xử lý vấn đề cũng hệt như trạo cử vậy: quan sát nó một cách tỉnh thức, bên cạnh đó nếu có dịp ta nên thỉnh giáo những vị thầy có kinh nghiệm để giải quyết vấn đề một cách thấu đáo và triệt để hơn.