Định được dịch từ tiếng Pāli là samādhi. Trong Thanh tịnh đạo luận (Visuddhimagga) giải thích định là sự hợp nhất giữa tâm thiện (thanh tịnh) với một đối tượng nào đó (sở duyên). Thuật ngữ “định” ở đây nói lên hàm nghĩa của một tầng thứ sâu cạn nào đó.
Vì vậy, mỗi hành giả cần phải nỗ lực trưởng dưỡng định ở ba tầng thứ như sau:
1. Định là chỉ
Thuật ngữ “chỉ” (samātha) dùng để nhấn mạnh sự thanh tịnh. Phiền não vốn đến từ tham sân si, chúng bao gồm những đặc tính của trạo cử; còn vắng lặng là trạng thái đối ngược lại với loạn động, và đây cũng là mục tiêu mà mỗi hành giả hướng đến. Muốn có được tâm vắng lặng an yên, điều cần thiết là phải có được chính định.
2. Định là nhất cảnh tính
Nhất cảnh tính (ekaggatā) là từ đồng nghĩa với định, đều có nghĩa là nhất tâm hay an trú nơi một đối tượng nào đó. Nhân duyên thanh tịnh cần phải xuất hiện trước thì nhất cảnh tính mới có thể sinh ra được sức mạnh và lan tỏa thích hợp. Như ánh sáng tỏa chiếu khắp nơi thì cường độ sáng sẽ rất yếu, một khi tập trung vào một chỗ thì sức mạnh của nó rất là lớn, đây chính là “tâm” định.
3. Định là thanh tịnh
Sân nhuế thuộc về thô, tâm từ thuộc về tế.
Tham ái thuộc về thô, xuất ly thuộc về tế.
Ngu si thuộc về thô, sáng suốt thuộc về tế.
Ngoài những định vừa nêu ra, còn có những trạng thái sâu và tĩnh hơn nhiều so với trạng thái tâm thanh tịnh. Ví dụ: Tâm xả vi tế hơn tâm hỷ, đây là điều cơ bản để phân biệt được các tầng thứ khi nhập định, và đây cũng chính là “tâm” vừa sâu lắng lại vừa vi diệu.
TẠI SAO CẦN PHẢI TU ĐỊNH?
Có rất nhiều nguyên do để hành giả tu định. Trước khi bắt tay thực hiện, ta cần xác định rõ mục đích của mình là gì, bởi vì điều này sẽ quyết định phương hướng cũng như sự tiến bộ của mỗi người.
Đương nhiên mục đích tu định không thể xuất phát từ sự ích kỷ riêng tư. Nếu động cơ đáng nghi hoặc bất thiện, ắt sẽ xuất hiện sự va chạm hoặc xảy ra nhiều vấn đề. Mục đích thiền tập là để cho tâm mình được thanh tịnh và đạt đến sự tịch tĩnh đúng nghĩa. Những việc này không có nghĩa là sẽ không có ích gì cho cuộc sống đời thường. Việc dễ thấy nhất, đó là thiền tập giúp ta giải quyết được những áp lực của tự thân. Áp lực chính là kết quả của tâm bất thiện, còn tịch tĩnh hoàn toàn trái nghĩa với áp lực. Nếu có quá nhiều áp lực hay phiền não, thì cần nhiều sự thanh tịnh vắng lặng để khắc phục vấn đề.
Một người có chính định là một người có nội tâm vắng lặng và bình yên. Do có được sự bình yên, nên ta có thể xử lý được những vấn đề trong cuộc sống một cách hiệu quả nhất.
Có khá nhiều cách để giảm thiểu áp lực, cũng như đem đến hạnh phúc cho ta trong cuộc sống.
Ví dụ: Một số kỹ thuật trị bệnh rất cần tới định, một khi định đủ rồi tự nhiên sẽ sinh ra tư duy và sự sáng tạo, vì vậy cho dù có xảy ra chuyện gì đi nữa thì việc quan trọng nhất là phải có chính định. Tất nhiên, phiền não luôn hiện hữu khắp nơi trong cuộc sống hằng ngày, nếu không biết cách chuyển hóa ta rất dễ sinh tâm chấp trước, thậm chí chấp trước vào định, từ đó dẫn đến vô số chuyện phức tạp chồng chéo, đan xen lẫn nhau.
Một mục đích khác để tu định cũng có liên quan đến bản thân, đó là mở ra cảnh giới vắng lặng chân thật, hàm chứa hỷ lạc đến từ thiền định. Một khi đã nếm được mùi vị an lạc giải thoát, thì dục lạc thế gian cũng giảm thiểu và mất đi. Phương pháp tu này bảo đảm cho ta sinh vào cõi trời cao hơn.
Khi đã thành tựu được định cơ bản, có thể chúng ta sẽ đạt được một số thần thông như Tha tâm thông, Thần túc thông, v.v. Những điều này quả thật rất hấp dẫn và từ đó một sự chấp trước mãnh liệt cũng đồng hành tiến bước theo. Có một điều cần khẳng định rằng, dù ta chưa thể chứng ngộ được định ở tầng thứ cao nhất, nhưng định ở tầm thấp vẫn có thể giúp ta rời khỏi ba đường ác.
Lý do thiết yếu nhất để ta tu định, đó chính là nó làm nền tảng cho việc tu tuệ, và điều này giúp ta đặt chân tới thế giới giải thoát, vì vậy đây là một mục đích thuần khiết và thánh thiện. Những người con Phật tu định chỉ với một mục đích duy nhất là như vậy. Trước khi từ chỉ (samātha) tiến đến quán (vipassanā), chúng ta cần phải bồi dưỡng định ở những tầng thứ khác nhau. Điều này còn tùy thuộc vào tình hình thực tế của mỗi người như hoàn cảnh môi trường hay không gian và thời gian nữa.
CÁC TẦNG THỨ CỦA ĐỊNH
Nhờ vào ý chí kiên định và nỗ lực tu thiền, hành giả dần sẽ đạt được những tầng thứ của định. Chủ yếu có ba trạng thái như sau:
1. Biến tác định (parikamma samādhi)
Giai đoạn này chủ yếu là bước chuẩn bị cho việc luyện tập. Nhờ nỗ lực học tập các kỹ năng, ta sẽ đạt được nhất cảnh tính ở một mức độ nào đó như vừa tụng niệm vừa rải tâm từ.
Đối tượng lúc này là Biến tác tướng1, đây là đối tượng đầu tiên. Nếu như thêm phần tư duy, thì có thể lưu lại trong tâm và trở thành Thủ tướng”.2
1 Biến tác tướng (parikamma nimitta): Chuyên chú vào một đề mục khi thiền định. Ví dụ như khi theo dõi hơi thở (ānāpāna sati) hay quét toàn thân (scan body).
2 Thủ tướng (uggaha nimitta): Định ở tầng thứ sâu, lúc này có thể sẽ xuất hiện ánh sáng thoắt ẩn thoắt hiện, và ánh sáng chính là Thủ tướng.
2. Cận hành định (upacāra samādhi)
Khi tâm của ta an trú trên một đề mục tu chỉ nào đó và hòa quyện cả hai thành một, được gọi là Cận hành định. Lúc này, ta có thể khẳng định được mình đã khắc phục được ngũ cái, kế đến là hướng về An chỉ định. Tâm ở trạng thái này vô cùng vi diệu, hệt như đang ngủ vậy. Các đối tượng của năm căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) đều không còn hiện khởi nữa, vì vậy cần phải lưu ý là không được ngủ gật. Tinh tấn duy trì định lực trong trạng thái tuôn chảy như suối nguồn, ví dụ như tâm từ. Trong kinh miêu tả, cảnh giới của Thiền Rải Tâm Từ giúp cho hành giả ngăn ngừa và đoạn trừ được phiền não, điều này có nghĩa là tâm từ sẽ được rải cho đối tượng cần được rải và hợp nhất cả hai lại với nhau. Với trạng thái này, ta không thể nào phân biệt được tâm từ chia cho mình và người là bao nhiêu, hoặc ai là người thân ai là kẻ oán.
Ở tầng thứ như vậy, đối tượng mà tâm từ hướng đến được gọi là Tợ tướng1, tướng này là một khái niệm thuần túy đến từ Thủ tướng ở dạng nguyên sơ nhất, thường rất sáng và trong suốt. Tợ tướng tùy thuộc vào những trạng thái khác nhau của định mà có những biến đổi nhất định. Định càng sâu, Tợ tướng sẽ càng thuần khiết thanh tịnh, nhưng đối tượng của Thiền Rải Tâm Từ sẽ không hiện lên được rõ ràng từng li từng tí như đối tượng khi ta quán tưởng hình ảnh.
1 Tợ tướng (patibhāga nimitta): Tâm ta định sâu hơn nữa với các đề mục như theo dõi hơi thở, quét toàn thân, rải tâm từ, v.v. Lúc này Thủ tướng (uggaha nimitta) sẽ trở nên trong suốt và phát sáng, kế nữa là chứng được cảnh giới Sơ thiền trong An chỉ định (appanā samādhi).
3. An chỉ định (appanā samādhi)
Một khi định đã đủ sâu, tâm ta tự nhiên sẽ hợp nhất được với đề mục mà mình đang thiền quán. Cứ thế duy trì trạng thái định liên tục, tự nó sẽ hướng ta đến một tầng thứ định cao hơn. Căn bản định vốn là một cảnh giới sâu lắng và mạnh mẽ vô cùng, nó giống như đại dương sâu thẳm với muôn vàn kỳ thú. Do đó, hành giả chỉ cảm nhận được điều kỳ diệu này khi xuất thiền mà thôi. Vì vậy, những bậc đại thiền sư đều miêu tả trạng thái ấy là vô cùng vi diệu, là bất khả thuyết. Kể cả khi ta nhập vào An chỉ định cũng khó mà cảm nhận được, nhất là khi nó chỉ xuất hiện ở một vài sát na cực ngắn. Nếu như tần suất của trạng thái này xuất hiện nhiều lần, cả quá trình như thế sẽ rõ hơn rất nhiều, đối tượng ở đây được nhắc đến vẫn là Tợ tướng trong Cận hành định. Căn bản định sẽ có những tầng thứ ở dạng thô và tế khác khau.
Ngoài ra, còn có một loại định được gọi là Sát na định (khanika samādhi), định này chỉ xuất hiện trong lúc Thiền Quán. Sát na biến hóa đến từ nền tảng thực tướng sát na, nghĩa là lấy thực tướng làm đối tượng cho nhất cảnh tính, và cường độ của nó ngang với Cận hành định. Vì nội dung quyển sách này muốn truyền tải là Thiền Rải Tâm Từ, nên tôi tạm ngưng tại đây, không phân tích sâu hơn nữa.