• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Thiền rải tâm từ
  3. Trang 23

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 22
  • 23
  • 24
  • More pages
  • 38
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 22
  • 23
  • 24
  • More pages
  • 38
  • Sau

Thiền định và thiền định tự tại

Thiền định (jhāna) là cảnh giới sâu của định. Trong kinh thường miêu tả các cảnh giới ấy với các thuật ngữ như Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền. Những cảnh giới này thuộc về an chỉ (appanā), một trạng thái tâm hoàn toàn hợp nhất với đối tượng. Thời gian tương hợp có thể lâu dài và liên tục đến bảy ngày với sự tỉnh thức của Ngũ căn, với các trạng thái ngưng bặt hết hẳn mọi ý niệm. Tất cả các trần cảnh như: sắc, thanh, hương, vị, xúc của thân cũng không còn, kể cả ý căn cũng chỉ có Tợ tướng (patibhāga nimitta), tức là đối tượng hiện thời.

Khi tâm dung hợp với đối tượng được quán chiếu, thì sẽ không còn ý niệm tán loạn. Sự vi tế này (sâu hơn giấc ngủ) được những hành giả có kinh nghiệm lâu năm miêu tả nó như đang trong trạng thái “trống rỗng”.

Khi đã thuần thục kỹ thuật này, ta mới có thể nhận biết được trạng thái thiền trong khi nhập định và xuất định. Do mỗi hành giả có được những sự trải nghiệm khác nhau ở mỗi tầng thiền, cho nên các vị ấy khi miêu tả lại cảnh giới mình chứng đắc cũng có phần không giống nhau. Vì vậy, có thể nói những kinh nghiệm thiền mà ta nghe được đều chỉ là khái niệm (pabbatti) mà thôi.

Cảnh giới thiền thật sự là thế nào, người ngoài chẳng thể thấu rõ được. Thật là vô minh khi chỉ biết mỗi lý thuyết mà nói về cảnh giới tu chứng của nhà thiền! Nếu muốn biết chắc thật thì mỗi hành giả cần phải tự thân trải nghiệm thực tế, hệt như trong kinh Đức Phật thường nói: “Như người uống nước, nóng lạnh tự biết”.

Theo kinh tạng Nikāya, tầng thứ thiền định được chia làm bốn loại, nhưng trong Luận A tỳ đàm (Abhidhamma) lại phân làm năm loại. Ở đây, tôi không có ý tranh luận về sự sai biệt giữa bốn tầng thiền hay năm tầng thiền, do đó tôi xin kiến nghị bạn hãy tìm cho mình một người hoặc nhiều người có kinh nghiệm hành thiền lâu năm với nền tảng Phật học vững chắc để thảo luận cho rõ.

Cảnh giới cao nhất có thể đạt tới khi tu tập Thiền Rải Tâm Từ, Thiền Rải Tâm Bi và Thiền Rải Tâm Hỷ là Tam thiền, còn Thiền Rải Tâm Xả thì đạt được tới Tứ thiền.

Năm thiền chi tương ứng với mỗi tầng thiền như sau:

Sơ Thiền: Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc, Nhất cảnh tính

Nhị Thiền: Hỷ, Lạc, Nhất cảnh tính

Tam Thiền: Lạc, Nhất cảnh tính

Tứ Thiền: Nhất cảnh tính, Xả

Chúng ta cần phải nắm vững mỗi tầng thiền, như thế mới có thể tiến đến cảnh giới thiền cao và sâu hơn.

Khi ta xác định mình đã trải nghiệm được thiền định, sau đó cần kiên định (adhitthāna), điều này sẽ giúp cho hành giả được tự tại hơn. Tự tại được nói đến ở đây, chủ yếu có năm hướng như sau:

1. Chuyển hướng tự tại

Sau khi hành giả xuất định, lập tức có thể chọn lựa an trú vào một trong năm thiền chi (coi đó làm đối tượng) một cách tự do tự tại. Luân phiên thứ tự liên tục từng loại thiền chi lại với nhau.

2. Nhập định tự tại

“Nhập định” ở đây chỉ cho định tâm chuyển từ cõi Dục giới sang cõi Sắc giới. Đầu tiên ta cần phải rõ biết thiền định là gì và cũng cần phải đạt được những thiền chi. Sự tự tại từ kiên định (adhitthāna) cũng rất quan trọng. Một khi mọi thứ đã được chuẩn bị sẵn sàng, Ngũ căn hay Ngũ lực sẽ được phát triển thành Cận hành định. Tiếp đó, kết hợp sức mạnh của ý chí với định lực của thiền tập hướng về nơi mà ta cần hướng đến. Lúc này, tâm sẽ hướng đến trạng thái thiền định sâu và hòa tâm làm một đối với đề mục đã được chọn trước, hệt như một vận động viên nhảy cầu, với cảm giác buông bỏ hết thảy.

3. Kiên định tự tại

Một năng lực kiên định khi thiền tọa, muốn an trú bao lâu đều tùy thích. Như Đức Phật Thích Ca đã từng ngồi thiền liên tục trong 49 ngày đêm cho đến khi chứng đắc đạo quả mới thôi. Việc quan trọng trước tiên là cần có những bước chuẩn bị kỹ lưỡng, một khi đã nhập định rồi thì hành giả có thể duy trì thời lượng thiền tọa.

Công tác chuẩn bị ở đây có nghĩa là: Trong thời gian ngồi thiền không để người khác quấy nhiễu, tạm gác lại những việc khác sang một bên. Tắm rửa sạch sẽ cũng giúp cho hành giả ngồi được thoải mái hơn và lâu hơn. Và quan trọng nữa là ta phải hạ quyết tâm ngồi yên trong thời gian dài đã được quy định. Nếu hội đủ những yếu tố vừa nêu, thì ta có thể an trú được trong định. Thường thì hành giả tự mình tinh tấn bằng cách tăng dần thời lượng ngồi thiền, ngồi yên không nhúc nhích trong thời gian càng lâu càng tốt.

4. Xuất định tự tại

“Xuất định” ở đây có nghĩa là ra khỏi trạng thái thiền định, điều này cần dựa vào thời gian thực khi ta ngồi thiền. Đầu tiên xác định là mình có thể ngồi yên được trong bao lâu (trú định tự tại). Kế đến, ta có thể căn cứ vào yêu cầu thực tế của mỗi thời khóa thiền đã được quy định mà hoàn thành thời khóa ấy.

Ví dụ: Ta có thể nhờ người hộ thiền tới gõ cửa phòng mình khi tới giờ xả thiền. Vì vậy, mức độ của năng lực này còn tùy thuộc vào thời lượng thiền định thực tế của mỗi hành giả, bên cạnh đó sai số một chút cũng không sao, chủ yếu dựa vào ý chí và khả năng của mỗi hành giả.

5. Tỉnh thức tự tại

“Tỉnh thức” ở đây có nghĩa là quán sát khi xả thiền, không phải là suy nghĩ, mà là thấy biết các thiền chi xuất hiện trong trạng thái thiền định một cách như thật. Do đó, cần phải quán sát thật kỹ ngay sau khi ra khỏi định. Có hai cách để thực hành như sau:

a) Quán sát tâm thức trên từng sát na

Cần phân biệt rõ thiền chi nào hoặc cả nhóm thiền chi nào vừa xuất hiện trong khi nhập định. Bên cạnh đó, khi mới ngồi thiền ta khó mà nắm bắt được mọi thứ, do đó cần phải lắng nghe sự hướng dẫn của những vị thiện tri thức có kinh nghiệm thiền phong phú và bản thân mỗi hành giả cần phải tinh tấn hành thiền cho đến khi thuần thục mới thôi.

b) Quán sát nhờ vào sự kiên định

Năm thiền chi được sinh khởi nhiều hay ít còn tùy thuộc vào sự nỗ lực và tâm kiên định của từng hành giả nữa. Với sức mạnh có được từ ý chí, hành giả ắt sẽ tự trải nghiệm được cả năm thiền chi xuất hiện cùng một lúc (cảnh giới Sơ thiền) hay giảm dần chỉ còn mỗi Nhất cảnh tính và Xả (cảnh giới Tứ thiền).

Điều này rất giống với “Chuyển hướng tự tại” vừa nêu trên, hệt như làm cho tâm hướng đến các thiền chi một cách tự tại. Nhờ vào tỉnh thức mà ta có thể tự mình rõ biết hiện đang ở thiền chi nào, kể cả những cảm nhận thô về thiền chi kế tiếp. Ví dụ: Khi ta rõ biết được Tầm và Tứ là nền tảng cơ bản cho việc tiến vào Nhị thiền, kế đến rõ biết Hỷ sẽ tiến vào Tam thiền, kế nữa là Lạc và xả bỏ Lạc để nhập vào trạng thái Tứ thiền.

Hành giả cần phải rõ biết liên tục nhiều lần như vậy, đồng thời cũng nên cẩn thận không được quá thiên lệch, nếu không sẽ phát hiện ra mình có quá nhiều khiếm khuyết mà sinh ra tâm trạng không thoải mái; kết quả là khó mà nhập định được mặc dù đã cố gắng hết sức.

Ta cũng có thể phát nguyện để có thể thấy được những cảnh giới của thiền:

- Mong tôi đạt được thiền chi thứ nhất (Tầm)!

- Mong tôi đạt được thiền chi thứ hai (Tứ)!

- Mong tôi đạt được thiền chi thứ ba (Hỷ)!

- Mong tôi đạt được thiền chi thứ tư (Lạc)!

- Mong tôi đạt được thiền chi thứ năm (Nhất cảnh tính)!

Sau khi thấy rõ được năm thiền chi này, có nghĩa là hành giả đã chứng đắc được Sơ thiền. Hành giả tiếp bước vào Nhị thiền. Sau Nhị thiền, hành giả lần nữa thấy được sự tổ hợp của những thiền chi. Tam thiền và Tứ thiền cũng đồng một nguyên lý như vậy.

Khi hành giả đạt được bốn mục trong năm mục tự tại, nên y theo cách thức như sau để được viên mãn hơn:

1) Hướng thuận: 1-2-3-4

2) Hướng nghịch: 4-3-2-1

3) Hướng thuận nghịch: 1-2-3-4-4-3-2-1

4) Hướng nhảy vọt: 1-3-2-4

5) Hướng giao thoa: 1-2-1-2-3-2-3-4-3-4-3-2-3-2-1-2

Cách thức thiền tập như vậy sẽ giúp cho hành giả thuần thục những tâm và tâm sở của mình hơn bao giờ hết, nghĩa là chứng đắc những thứ ấy một cách dễ dàng và uyển chuyển khi biết cách luân phiên qua lại.