• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Thiên thần và ác quỷ
  3. Trang 13

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 12
  • 13
  • 14
  • More pages
  • 120
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 12
  • 13
  • 14
  • More pages
  • 120
  • Sau

Chương 7

M

aximilian Kohler, giám đốc của CERN, thường được gọi sau lưng là König - ông vua. Đó là một danh hiệu bày tỏ sự kính sợ hơn là tôn trọng dành cho nhân vật điều hành cả cơ ngơi từ trên xe lăn. Số người thân thiết với ông không nhiều, nhưng câu chuyện kinh hoàng về nguyên nhân ông bị tàn tật khắp cả CERN đều biết, chỉ một số ít oán trách ông vì tính tình gay gắt... chứ không phải vì sự dâng hiến tận tụy của ông cho khoa học thuần túy.

Mới gặp gỡ ông giám đốc có vài phút, nhưng Langdon đã cảm thấy ông ta là người khép mình. Langdon thấy mình thực sự phải chạy bộ mới theo kịp chiếc xe lăn điện tử của Kohler, khi nó lặng lẽ tăng tốc tiến đến lối vào chính. Langdon chưa từng thấy chiếc xe lăn nào giống thế này - được trang bị cơ số các thiết bị điện tử bao gồm một điện thoại đa đường dây, một hệ thống nhắn tin, màn hình máy tính, thậm chí cả một máy quay phim cỡ nhỏ, có thể tháo rời. Đó là trung tâm chỉ huy di động của King Kohler.

Đi qua một cánh cửa cơ học, Langdon bước vào hành lang chính đồ sộ của CERN.

Thánh đường Kính, Langdon trầm ngâm, nhìn khắp thiên đường từ trên xuống dưới.

Phía trên, mái kính màu xanh nhạt tỏa sáng lung linh dưới ánh nắng chiều, hắt những tia nắng lên không trung đủ mọi hình dạng, mang lại cho căn phòng cảm giác hoành tráng. Các khoảng tối góc cạnh kéo dài xuống tựa như các mạch máu, chạy qua các bức tường gạch lát xuống đến sàn nhà bằng cẩm thạch. Không khí tạo cảm giác thanh sạch, thoáng mùi thuốc tiệt trùng. Một nhóm các nhà khoa học nhanh nhẹn di chuyển xung quanh, tiếng bước chân của họ vang vọng trong không gian.

“Lối này, ngài Langdon.” Giọng ông ta vang lên gần giống như trong máy phát ra. Trọng âm cứng nhắc và chính xác, hệt như những đường nét nghiêm nghị của ông ta. Kohler húng hắng ho, lau miệng bằng chiếc khăn tay trắng, khi đôi mắt xám vô hồn nhìn xoáy vào Langdon. “Làm ơn nhanh lên.” Chiếc xe lăn của ông ta dường như nhảy vọt qua mặt sàn lát đá.

Langdon sải bước, đi qua một chỗ có vẻ như vô số tiền sảnh tỏa nhánh ra cửa chính. Từng sảnh đều đang có những hoạt động nhộn nhịp. Các nhà khoa học thấy Kohler đều nhìn chằm chằm tỏ vẻ ngạc nhiên, dò xét Langdon như thể đang tự hỏi chắc anh là người đứng đầu một tập đoàn nào đó.

“Tôi rất xấu hổ phải thừa nhận,” Langdon đánh liều cố gắng bắt chuyện, “rằng tôi chưa từng nghe đến CERN.”

“Không ngạc nhiên,” Kohler đáp, câu trả lời nhát gừng của ông ta tạo hiệu ứng cay nghiệt. “Hầu hết người Mỹ đều không xem châu Âu là nhà tiên phong trong nghiên cứu khoa học. Trong mắt họ, chúng tôi chẳng là gì ngoài một quận mua sắm kỳ quặc - một khái niệm lạ kỳ nếu ngài cân nhắc đến quốc tịch của những con người như Einstein, Galileo và Newton.”

Langdon không biết phải trả lời sao. Anh rút ra tờ fax từ trong túi áo. “Người đàn ông trong ảnh này, ngài có thể...”

Kohler ngắt lời anh bằng cái phẩy tay. “Làm ơn. Không phải ở đây. Bây giờ, tôi sẽ dẫn ngài đi gặp người này.” Ông ta chìa tay ra. “Có lẽ tôi nên cầm tờ fax.”

Langdon trao lại tờ fax, im lặng cúi đầu bước theo.

Kohler quay ngoắt đi, tiến vào một tiền sảnh rộng được trang trí đầy những giải thưởng và tài liệu. Một tấm biển đặc biệt to chiếm cứ lối vào. Langdon bước chậm lại đọc dòng chữ đồng được chạm trổ khi họ bước qua.

GIẢI THƯỞNG ARS ELECTRONICA

Về Đổi mới Văn hóa trong Kỷ nguyên Số

Tặng cho Tim Berners Lee và CERN

Vì đã sáng tạo ra

MẠNG TOÀN CẦU

Mình sẽ bị nguyền rủa mất thôi, Langdon nghĩ khi đọc đoạn văn. Lão này không hề đùa. Langdon vốn luôn cho rằng ý tưởng về Mạng Toàn Cầu là sáng tạo của người Mỹ. Một lần nữa, kiến thức của anh bị giới hạn ở trang web đăng tải sách của mình và đôi ba lần khám phá trực tuyến Bảo tàng Louvre hoặc El Prado, trên chiếc máy Macintosh cũ rích của anh.

“Mạng Toàn Cầu,” Kohler nói, lại ho và lấy khăn lau miệng, “đã bắt đầu ở đây như một mạng lưới các điểm máy tính trong nhà. Nó cho phép các nhà khoa học từ nhiều phòng ban khác nhau chia sẻ cho nhau những phát hiện hàng ngày. Tất nhiên, cả thế giới đều tưởng rằng Mạng Toàn Cầu là công nghệ của người Mỹ.”

Langdon bước theo xuống hành lang. “Tại sao không công bố công khai?”

Kohler nhún vai, rõ ràng thấy chán nản. “Một sự ngộ nhận vặt vãnh về thứ công nghệ vặt vãnh. CERN còn vĩ đại hơn nhiều sự kết nối toàn cầu giữa các máy tính. Các nhà khoa học của chúng tôi tạo ra những điều kỳ diệu gần như mỗi ngày.”

Langdon ném sang Kohler cái nhìn nghi ngờ. “Những điều kỳ diệu?” Từ ngữ “điều kỳ diệu“ chắc chắn không phải là một phần vốn từ vựng trong Tòa nhà Khoa học Fairchild của Harvard. Những điều kỳ diệu chỉ dành cho Khoa Thần học.

“Ngài có vẻ hoài nghi,” Kohler nói. “Tôi tưởng ngài là một nhà biểu tượng học về tôn giáo. Ngài không tin vào những điều kỳ diệu à?”

“Tôi không chắc với những điều kỳ diệu lắm,” Langdon đáp.

Đặc biệt là những điều kỳ diệu diễn ra trong các phòng thí nghiệm khoa học.

“Có lẽ điều kỳ diệu là từ dùng sai. Tôi chỉ đang cố gắng nói ngôn ngữ của ngài.”

“Ngôn ngữ của tôi?” Langdon bỗng cảm thấy khó chịu. “Không muốn làm ngài thất vọng, nhưng tôi nghiên cứu biểu tượng tôn giáo - tôi là một học giả, không phải linh mục.”

Kohler bất ngờ chậm rãi quay lại, cái nhìn của ông ta dịu đi một chút. “Tất nhiên. Tôi là người đơn giản mà. Người ta không cần phải bị ung thư mới phân tích được các triệu chứng.”

Langdon chưa từng nghe ai ăn nói kiểu thế.

Khi họ đi xuống tiền sảnh, Kohler gật đầu đồng tình. “Tôi không nghĩ tôi và ngài sẽ hiểu rõ về nhau, ngài Langdon.”

Không hiểu sao Langdon nghi ngờ điều đó.

*

Khi cả hai cùng đi nhanh hơn, Langdon bắt đầu cảm thấy có tiếng gì ầm ầm phía trước. Tiếng ồn ngày một rõ hơn theo từng bước chân, dội lại qua những bức tường. Dường như nó xuất phát từ phía cuối tiền sảnh trước mặt.

“Cái gì thế?” Langdon cuối cùng cũng hỏi, buộc phải hét lên. Anh cảm tưởng như họ đang đến gần ngọn núi lửa đang hoạt động.

“Ống Rơi Tự do,” Kohler đáp, giọng ồm ồm của ông ta xóa tan bầu không khí ảm đạm. Nói xong ông ta chẳng giải thích gì thêm.

Langdon cũng không hỏi. Anh đã kiệt sức, Maximilian Kohler có vẻ không có hứng thú bày tỏ thêm lòng hiếu khách. Langdon tự nhắc mình lý do anh ở đây. Illuminati. Anh cho rằng đâu đó trong cái cơ sở khổng lồ này là một xác chết... xác chết bị đóng dấu một biểu tượng và vì nó anh vừa phải bay hơn năm nghìn kilomet đến đây.

Khi họ đến gần phía cuối hành lang, âm thanh đó gần như muốn xé rách màng nhĩ, khiến hai đế giày của Langdon rung lên. Họ đi vòng qua khúc quanh và một phòng quan sát xuất hiện phía bên phải. Bốn cánh cửa ốp kính dày được gắn vào một bức tường cong, như những ô cửa sổ của một tàu ngầm. Langdon dừng chân nhìn qua một trong các cánh cửa.

Giáo sư Robert Langdon từng được thấy nhiều điều lạ lùng trong đời, nhưng đây là điều lạ lùng nhất. Anh chớp mắt mấy lần, tự hỏi có phải mình bị ảo giác không. Anh đang nhìn chằm chằm một căn phòng hình tròn khổng lồ. Bên trong căn phòng, có mấy người đang trôi nổi như thể không trọng lượng. Ba người cả thảy. Một người vẫy tay và nhào lộn giữa không trung.

Lạy Chúa, anh nghĩ. Mình đang ở xứ sở của Phù thủy Oz.

Sàn nhà trong phòng là một tấm lưới đan, trông như một tấm lưới thép mỏng lớn. Có thể nhìn thấy bên dưới là hình ảnh mờ mờ của một cánh quạt lớn bằng kim loại.

“Ống rơi tự do,” Kohler nói, tạm dừng chân để đợi anh. “Nhào lộn trong nhà. Nhằm mục đích giảm stress. Đó là một đường hầm gió đứng.”

Langdon thích thú đứng nhìn. Một trong những người rơi tự do, một phụ nữ béo phị, khéo léo tiến về phía cửa sổ. Dù đang bị những luồng khí đẩy rất mạnh, nhưng bà ta vẫn cười toét và giơ ngón tay cái về phía Langdon. Anh gượng cười và đáp lại cử chỉ ấy, tự hỏi bà ta có biết rằng đó là biểu tượng dương vật cổ ám chỉ sức mạnh nam tính.

Langdon để ý người phụ nữ vóc dáng nặng nề, bà ta là người duy nhất mang theo một thứ có vẻ là cái dù nhỏ. Vạt rộng của lớp vải phủ chụp xuống bà ta như món đồ chơi. “Cái dù bé của bà kia để làm gì thế?” Langdon hỏi Kohler. “Đường kính của nó không thể hơn một mét.”

“Ma sát,” Kohler nói. “Làm giảm đi các khí động lực, để quạt có thể nâng bà ta lên.” Ông ta lại đi xuống hành lang. “Miếng vải một mét vuông này làm nhẹ sức nặng cơ thể gần hai mươi phần trăm.”

Langdon lơ đãng gật đầu.

Anh không hề ngờ rằng đêm muộn hôm đó, tại một đất nước cách đó hàng nghìn kilomet, thông tin này sẽ cứu mạng anh.