K
hi Kohler và Langdon xuất hiện từ cửa hậu khu phức hợp chính của CERN, bước vào ánh mặt trời Thụy Sỹ khắc nghiệt, Langdon cảm thấy như thể mình được đưa về nhà. Khung cảnh trước mặt anh trông như khuôn viên của liên minh Trường Đại học Ivy League.
Một con dốc cỏ mọc đầy, trải dài xuống các vùng đất thấp rộng rãi, nơi các cụm cây phong mọc rải rác thành các hình vuông, bao quanh là các con đường mòn và khu dân cư. Những người trông giống học giả mang theo hàng chồng sách, chạy ra chạy vào các tòa nhà. Như thể muốn nhấn mạnh bầu không khí của trường đại học, hai người ăn mặc theo phong cách hippi, tóc dài đang chơi trò ném đĩa Frisbee[9] qua lại, trong khi vẫn thưởng thức bản Giao hưởng Số 4 của Mahler đang phát om sòm từ một cửa sổ khu dân cư.
[9] Frisbee: trò chơi ném đĩa rất phổ biến đối với trẻ em Mỹ.
“Đây là các khu dân cư của chúng tôi,” Kohler giải thích khi ông tăng tốc xe lăn xuống đường mòn dẫn về các tòa nhà. “Ở đây, chúng tôi có hơn ba ngàn nhà vật lý học. Chỉ riêng CERN đã tuyển dụng quá nửa các nhà vật lý hạt riêng biệt - những trí tuệ sáng suốt nhất Trái Đất - ngài nên gọi họ là người Đức, người Nhật, người Ý và người Hà Lan. Các nhà vật lý của chúng tôi là đại diện của hơn năm trăm trường đại học và sáu mươi quốc gia.”
Langdon kinh ngạc. “Bằng cách nào họ giao tiếp được với nhau?”
“Tiếng Anh, dĩ nhiên rồi. Thứ ngôn ngữ toàn cầu của khoa học.”
Langdon từng luôn nghe nói toán là ngôn ngữ toàn cầu của khoa học, nhưng anh quá mệt nên không muốn tranh cãi, chỉ ngoan ngoãn đi theo Kohler xuống đường mòn.
Đang đi được nửa đường, một thanh niên chạy bộ ngang qua. Trên chiếc áo phông của cậu ta in một thông điệp: CÓ GUT ẮT THÀNH CÔNG!
Langdon nhìn theo cậu ta, thắc mắc: “Gut sao?”
“Thuyết Thống Nhất Chung,” Kohler giải đáp. “Là thuyết vạn vật.”
“Tôi hiểu,” Langdon nói, nhưng anh có hiểu gì đâu.
“Ngài có hiểu về vật lý hạt riêng biệt không, ngài Langdon?”
Langdon nhún vai. “Tôi hiểu về vật lý nói chung - những vật thể rơi, đại loại vậy.” Những tháng năm tập luyện nhảy cầu giúp anh có hiểu biết kha khá về sức mạnh của gia tốc trọng lực. “Vật lý hạt riêng biệt là nghiên cứu về các nguyên tử, đúng không?”
Kohler lắc đầu. “Các nguyên tử giống như các hành tinh nếu so với thứ chúng ta đang nói. Chúng tôi thì quan tâm đến các hạt nhân của nguyên tử - chỉ bằng một phần mười nghìn kích cỡ của nguyên tử.” Ông ta lại húng hắng ho, có vẻ như bị ốm. “Các nhà vật lý học của CERN ở đây có một mục tiêu, tìm ra câu trả lời cho những câu hỏi loài người đang tìm kiếm kể từ khi vạn vật sinh sôi. Như chúng ta đến từ đâu? Cấu tạo của chúng ta là gì?”
“Và những câu trả lời này nằm trong phòng thí nghiệm vật lý?”
“Ngài có vẻ ngạc nhiên?”
“Đúng vậy. Câu hỏi dường như mang tính tâm linh.”
“Ngài Langdon, mọi câu hỏi đều từng mang tính tâm linh. Kể từ khi vạn vật sinh sôi, tâm linh và tôn giáo thường được viện đến lấp đầy những khoảng cách khoa học không thể hiểu thấu. Mặt trời mọc hay lặn từng bị xem là do thần Helios và cỗ xe lửa thần kỳ tạo ra. Các trận động đất và sóng thủy triều là cơn phẫn nộ của thần Poseidon. Khoa học giờ đây chứng minh những vị thần này chỉ là hư cấu. Sớm thôi, tất cả những vị thần đều sẽ được chứng minh là hư cấu. Chỉ còn vài câu hỏi nữa thôi, và đều là những câu hỏi khó tiếp thu. Chúng ta đến từ đâu? Chúng ta đang làm gì ở đây? Ý nghĩa của sự sống và vũ trụ là gì?”
Langdon kinh ngạc. “Và CERN đang cố trả lời tất cả những câu hỏi này?”
“Đúng vậy. Chúng là những câu hỏi chúng tôi đang trả lời.”
Langdon chìm trong im lặng khi hai người đi qua khu dân cư hình vuông. Đang đi, một chiếc đĩa Frisbee bay đến phía trên, dừng lại rơi xuống ngay trước mặt họ. Kohler tảng lờ nó và đi tiếp.
Một giọng nói cất lên từ phía bên kia sân. “Làm ơn!”[10]
[10] Nguyên văn tiếng Pháp: S’il vous plait
Langdon nhìn quanh. Một ông già tóc bạc cao tuổi mặc áo sơ mi trường Đại học Paris vẫy tay về phía anh. Langdon nhặt chiếc đĩa lên, ném trả lại rất điêu luyện. Ông già bắt được chiếc đĩa bằng một ngón tay, tung hứng lên xuống vài lần trước khi tung chiếc đĩa qua vai cho đồng đội.
“Cảm ơn![11]“ ông ta nói với Langdon.
[11] Nguyên văn tiếng Pháp: Merci
“Chúc mừng ngài,” Kohler nói khi Langdon cuối cùng cũng bắt kịp. “Ngài vừa chơi ném đĩa với Georges Charpak, người đoạt giải Nobel vì sáng tạo ra buồng tỷ lệ nhiều dây.”[12]
[12] Ông đã nghiên cứu chi tiết quá trình ion hóa trong chất khí, và sáng tạo ra buồng dây, một đầu thu chứa khí trong đó các dây được bố trí dày đặc để thu các tín hiệu điện gần các điểm ion hóa, nhờ đó có thể quan sát được đường đi của hạt.
Langdon gật đầu. Ngày may mắn của tôi.
*
Langdon và Kohler phải mất ba phút nữa mới tới được điểm đến - một khu nhà ở rộng lớn, được chăm sóc kỹ càng, lọt thỏm trong một lùm cây dương lá rung. So với các khu nhà ở, kết cấu này có vẻ xa hoa hơn. Tấm biển đá chạm trổ phía trước ghi dòng chữ: Tòa nhà C.
Cái tựa gợi liên tưởng phết, Langdon nghĩ.
Nhưng bất chấp cái tên khô khan, Tòa nhà C vẫn lý tưởng xét theo cảm nhận về phong cách kiến trúc của Langdon - ôn hòa và vững chắc. Mặt tiền tòa nhà lát gạch đỏ, hàng chấn song trang trí công phu và bao quanh là các hàng rào chạm khắc đối xứng. Khi hai người di chuyển lên lối đi lát đá tiến đến lối vào, họ đi qua cổng vào là hai cái cột bằng đá cẩm thạch. Ai đó đã dán một mẩu giấy lên một trong hai cột.
ĐÂY LÀ CỘT IONIC
Trò đùa vẽ tường của nhà vật lý học? Langdon trầm ngâm, xem xét cây cột và tự cười thầm. “Tôi nhẹ nhõm khi thấy ngay cả các nhà vật lý tuyệt vời cũng phạm sai lầm.”
Kohler nhìn sang, “Ý ngài là sao?”
“Bất kỳ ai viết mẩu giấy này cũng đều phạm sai lầm. Đây không phải là cột trang trí theo kiểu Ionic. Các cột Ionic thống nhất về chiều rộng. Cái cột này có dạng hình nón. Tức là Doric - kiểu trang trí tương tự của Hy Lạp. Một lỗi chung.”
Kohler không cười. “Người viết mẩu giấy muốn đùa thôi, ngài Langdon. Ionic nghĩa là ion - các hạt chứa điện tích. Hầu hết các vật thể đều chứa chúng.”
Langdon quay lại nhìn cái cột và rên lên.
Anh vẫn cảm thấy mình ngu ngốc khi bước ra từ thang máy, trên tầng thượng của Tòa nhà C. Anh đi theo Kohler xuống một hành lang được trang bị đầy đủ thiết bị cần thiết. Lối trang trí thật tuyệt - đồ gỗ dạng xoắn ốc, cái bình hoa để dưới sàn bằng sứ và chiếc đi văng màu anh đào - kiểu thuộc địa truyền thống của nước Pháp.
“Chúng tôi muốn các nhà khoa học lâu năm của mình thấy thoải mái,” Kohler giải thích.
Rõ rồi, Langdon nghĩ. “Vậy người đàn ông trên tờ fax sống trên này à? Một trong số các nhân viên cấp cao của ngài?”
“Hoàn toàn đúng,” Kohler đáp. “Anh ta đã không gặp tôi sáng nay theo lịch và cũng không trả lời tin nhắn của tôi. Tôi lên đây tìm anh ta, thì thấy anh ta chết trong phòng khách.”
Langdon bỗng cảm thấy lạnh sống lưng khi biết mình sắp thấy một xác chết. Dạ dày anh xưa nay vốn không phải là tốt lắm. Đó là điểm yếu anh khám phá ra hồi còn là sinh viên nghệ thuật, khi giáo viên kể với cả lớp rằng, Leonardo De Vinci trở thành chuyên gia về cơ thể người bằng cách khai quật các tử thi và mổ xẻ hệ cơ của họ.
Kohler đi trước dẫn đường đến đầu kia tiền sảnh. Chỉ có một cánh cửa. “Tầng áp mái, như ngài sẽ nói vậy.” Kohler tuyên bố, gạt nhẹ một giọt mồ hôi trên trán.
Langdon dò xét cánh cửa cô độc bằng gỗ sồi trước mặt. Bảng tên ghi rõ:
LEONARDO VETRA
“Leonardo Vetra,” Kohler nói, “sẽ tròn năm mươi tám tuổi vào tuần tới. Anh ta là một trong các nhà khoa học ưu tú nhất trong thời đại chúng ta. Cái chết của anh ta là tổn thất nặng nề đối với khoa học.”
Trong thoáng chốc, Langdon nghĩ anh nhận thấy xúc cảm trên gương mặt cứng rắn của Kohler. Nhưng nó lập tức biến mất nhanh như khi nó xuất hiện. Kohler thọc tay vào túi, lôi ra một vòng đeo chìa khóa to.
Bất chợt, Langdon có một ý nghĩ lạ lùng. Tòa nhà dường như vắng tanh. “Mọi người đâu hết rồi?” anh hỏi. Sự thiếu vắng các hoạt động là điều anh không ngờ tới, nếu xét đến chuyện họ sắp bước vào một hiện trường án mạng.
“Các cư dân đang ở trong phòng thí nghiệm,” Kohler vừa đáp vừa tìm chìa khóa.
“Ý tôi là cảnh sát cơ,” Langdon nói rõ. “Họ về hết rồi à?”
Kohler dừng tay, chìa khóa đang sắp tra vào ổ khóa. “Cảnh sát sao?”
Đôi mắt Langdon nhìn thẳng vào mắt ông giám đốc. “Cảnh sát. Ngài đã gửi cho tôi tờ fax chụp ảnh vụ án mạng. Ngài chắc phải gọi cảnh sát rồi chứ.”
“Chắc chắn tôi không gọi cho họ.”
“Cái gì?”
Đôi mắt xám của Kohler trở nên sắc lẹm. “Tình thế phức tạp lắm, ngài Langdon.”
Langdon cảm thấy e ngại. “Nhưng... chắc chắn ai đó khác nữa biết chuyện này!”
“Phải. Con gái nuôi của Leonardo. Cô ấy cũng là một nhà vật lý tại CERN này. Cha con cô ấy cùng làm trong một phòng thí nghiệm. Họ là đồng nghiệp. Cô Vetra tuần này đang đi nghiên cứu thực địa. Tôi đã thông báo cho cô ấy về cái chết của cha mình, vào lúc ta nói chuyện thế này, cô ấy đang trên đường về.”
“Nhưng một người đã bị sát...”
“Một cuộc điều tra chính thức sẽ diễn ra,” Kohler nói, giọng kiên quyết. “Tuy nhiên, chắc chắn sẽ cần phải khám xét phòng thí nghiệm của Vetra, một không gian được xem là riêng tư nhất của cha con họ. Thế nên tất cả sẽ phải đợi đến khi cô Vetra về đây. Tôi cảm thấy mình ít nhất phải suy xét chín chắn chuyện này vì cô ấy.”
Kohler xoay chìa khóa.
Khi cánh cửa bật mở, một luồng khí buốt giá tràn vào tiền sảnh, nhằm trúng mặt Langdon. Anh lùi lại trong bối rối. Anh nhìn chằm chằm một thế giới xa lạ qua ngưỡng cửa. Căn hộ trước mặt anh ngập trong lớp sương mù dày màu trắng. Sương mù cuộn thành những xoáy lốc đầy khói quanh đồ đạc và bao phủ căn phòng trong màn sương đục.
“Cái quái...?” Langdon lắp bắp.
“Hệ thống làm lạnh Freon,” Kohler đáp. “Tôi đã đóng băng căn hộ để bảo quản xác.”
Langdon cài cúc chiếc áo vest cho đỡ lạnh. Mình đang ở xứ Oz, anh nghĩ. Và mình quên xừ đôi giày ma thuật rồi.