• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Thiên thần và ác quỷ
  3. Trang 15

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 14
  • 15
  • 16
  • More pages
  • 120
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 14
  • 15
  • 16
  • More pages
  • 120
  • Sau

Chương 9

X

ác chết nằm trên sàn trước mặt Langdon thật đáng sợ. Ông Leonardo Vetra quá cố nằm ngửa, bị lột truồng, làn da tím tái. Các xương cổ của ông ta đang thò ra ngoài nơi chúng bị gãy, đầu hoàn toàn bị vặn ngược ra đằng sau. Mặt ông ta đang úp xuống sàn, không nhìn thấy được. Ông ta nằm trên vũng nước tiểu đã đóng băng, lông xung quanh bộ phận sinh dục teo tóp lấm tấm sương giá.

Cố ngăn cơn buồn nôn, Langdon đưa mắt lên khuôn ngực nạn nhân. Cho dù Langdon đã nhìn trừng trừng hình vết thương cân đối này hàng tá lần trên tờ fax, nhưng vết bỏng nhất định còn ghê rợn hơn nhiều khi nhìn tận mắt. Lớp thịt phồng lên, bị nướng chín hiện ra rõ mồn một... cái biểu tượng được tạo hình chuẩn đến từng ly.

Langdon tự hỏi cơn buốt lạnh dọc toàn thân anh giờ đây là do điều hòa hay do sự kinh ngạc đến tột độ của anh trước thứ mà anh đang nhìn trừng trừng.

a3

Tim anh đập thình thịch khi vòng quanh cái xác, đọc ngược từ ngữ này, khẳng định lại chắc chắn về thuật đối xứng. Biểu tượng này thậm chí có vẻ khó hiểu hơn, khi giờ đây anh đang nhìn chằm chằm vào nó.

“Ngài Langdon?”

Langdon không nghe thấy tiếng gọi. Anh đang lạc trong một thế giới khác... thế giới của riêng anh, môi trường sống của riêng anh, một thế giới nơi lịch sử, huyền thoại và thực tế va chạm với nhau, tràn ngập các giác quan của anh. Não bộ anh bắt đầu hoạt động.

“Ngài Langdon?” Đôi mắt Kohler nóng ruột thăm dò.

Langdon không ngước mắt lên. Cả người anh giờ đang căng ra, tập trung hết sức. “Ngài đã biết được bao nhiêu rồi?”

“Chỉ là những gì tôi có thời gian đọc được trên trang web của ngài. Dòng chữ Illuminati có nghĩa là ‘những người được khai sáng’.

Nó là tên một kiểu Hội kín cổ nào đó.”

Langdon gật đầu. “Ngài từng nghe nói đến cái tên này chưa?”

“Chưa hề, cho đến khi thấy nó được nung trên ngực Vetra.”

“Vậy nên ngài đã tìm kiếm nó?”

“Phải.”

“Hẳn nhiên là từ này cho ra hàng trăm liên kết.”

“Hàng nghìn,” Kohler nói. “Tuy nhiên, trang web của ngài bao gồm những liên kết đến Harvard, Oxford, một nhà xuất bản danh tiếng, cũng như một danh sách các ấn phẩm có liên quan. Là một nhà khoa học, tôi hiểu rằng thông tin cũng có giá trị như nguồn dẫn của nó. Những thông tin của ngài dường như là xác thực.”

Đôi mắt Langdon vẫn chú mục vào xác chết.

Kohler không nói thêm gì nữa. Ông chỉ nhìn chằm chằm, rõ ràng chờ đợi Langdon đưa ra vài manh mối cho khung cảnh trước mặt họ.

Langdon ngước mắt lên, liếc nhìn xung quanh căn hộ đóng băng. “Có lẽ, chúng ta nên thảo luận chuyện này ở một nơi ấm áp hơn?”

“Căn phòng này ổn mà.” Kohler rõ ràng không biết đến cái lạnh. “Chúng ta sẽ nói chuyện ở đây.”

Langdon nhíu mày. Lịch sử Illuminati không phải là một lịch sử đơn giản. Nếu giải thích mọi thứ ở đây, mình sẽ chết cóng mất. Anh lại nhìn chằm chằm dấu sắt nung, một cảm giác kinh sợ mới lại trào lên.

Cho dù các ghi chép về biểu tượng Illuminati đã trở thành huyền thoại trong biểu tượng học hiện đại, nhưng không một giảng viên đại học nào thực sự nhìn thấy nó. Các tài liệu cổ đã mô tả biểu tượng này như một ambigram[13] - ambi có nghĩa là “cả hai“ - ngụ ý nó có thể đọc được theo hai chiều. Và cho dù các ambigram rất phổ biến trong biểu tượng học - các hình dấu thập ngoặc, âm dương, ngôi sao Do Thái, các hình thập giá đơn giản - ý tưởng rằng một từ ngữ có thể được thiết kế thành một ambigram dường như cực kỳ bất khả thi. Suốt nhiều năm trời, các nhà biểu tượng học hiện đại đã cố gắng luyện vẽ từ “Iluminati“ theo phong cách đối xứng hoàn hảo, nhưng đều thất bại trong đau khổ. Hầu hết các giảng viên đại học giờ đã quyết định sự tồn tại của biểu tượng này chỉ là huyền thoại.

[13] Ambigram là một nghệ thuật thiết kế logo chuyên nghiệp, với đặc điểm nổi bật là có thể đọc được thành một hoặc nhiều từ khác nhau khi bạn xoay logo theo nhiều góc nhìn khác nhau.

“Vậy Illuminati là những ai?” Kohler gặng hỏi.

Đúng, Langdon nghĩ, thực ra là ai? Anh bắt đầu câu chuyện của mình.

“Kể từ thuở sơ khai,” Langdon giải thích, “đã xuất hiện sự rạn nứt giữa khoa học và tôn giáo. Các nhà khoa học thẳng tính như Corpenic…“

“Đều bị giết,” Kohler xen vào. “Bị giáo hội giết chết vì tội phát biểu những chân lý khoa học. Tôn giáo luôn luôn phản đối khoa học.”

“Đúng. Nhưng vào những năm 1500, một nhóm người tại Rome đã phản đối giáo hội. Vài người trong số những nhân vật được khai sáng nổi tiếng nhất lịch sử ở Ý - các nhà vật lý học, toán học và thiên văn học - bắt đầu bí mật gặp gỡ, nhằm chia sẻ những mối quan tâm của họ về các bài giảng không chính xác của giáo hội. Họ lo sợ rằng sự độc quyền của giáo hội đối với “chân lý“ đe dọa sự khai sáng kiến thức trên toàn thế giới. Họ đã thành lập một nhóm chuyên gia khoa học đầu tiên trên thế giới, tự xưng mình là ‘những người được khai sáng.’ “

“Tức là Illuminati.”

“Phải,” Langdon nói. “Những tư duy hiểu biết nhất của châu Âu... tận hiến sức mình theo đuổi chân lý khoa học.”

Kohler chìm trong im lặng.

“Hẳn nhiên, Hội Illuminati bị Giáo hội Công giáo La Mã truy đuổi tàn bạo. Chỉ nhờ những nguyên tắc cực kỳ bảo mật mà các nhà khoa học này vẫn được an toàn. Trong giới học giả ngầm có lan truyền tin đồn, rằng Hội Illuminati tăng cường kết nạp các giảng viên đại học trên khắp châu Âu. Các nhà khoa học gặp nhau đều đặn tại Rome, ở một địa điểm cực kỳ tuyệt mật có tên là Giáo hội Khai sáng.”

Kohler húng hắng ho, cựa quậy trên xe lăn.

“Nhiều người trong Hội Illuminati,” Langdon nói tiếp, “đã muốn chống đối sự chuyên chế của giáo hội bằng những hành động bạo lực, nhưng thành viên được tôn kính nhất của họ thuyết phục họ không làm vậy. Ông ta là một người theo chủ nghĩa hòa bình, cũng như là một trong những nhà khoa học nổi tiếng nhất lịch sử.”

Langdon chắc chắn Kohler sẽ nhận ra người này. Ngay cả những ai không phải nhà khoa học cũng quen thuộc với nhà phi hành gia có số phận hẩm hiu này, người từng bị bắt và suýt bị giáo hội hành hình vì tuyên bố rằng Mặt trời, chứ không phải Trái Đất, mới là trung tâm của Thái dương hệ. Cho dù cơ sở cho học thuyết của ông là không thể tranh cãi, nhà thiên văn học này đã bị trừng phạt nghiêm khắc vì ngụ ý rằng Chúa đã đặt nhân loại vào đâu đó, nằm ngoài trung tâm vũ trụ của Người.

“Tên ông ta là Galileo Galilei,” Langdon nói.

Kohler ngước mắt lên. “Galilei ư?”

“Phải. Galileo là một thành viên của Hội Illuminati. Và ông ta cũng là một tín đồ Công giáo mộ đạo. Ông đã cố gắng làm mềm đi quan điểm của giáo hội đối với khoa học, bằng cách tuyên bố rằng khoa học không đánh giá thấp sự tồn tại của Chúa, mà giúp củng cố quan điểm đó. Có lần ông từng viết rằng khi ông nhìn các hành tinh đang xoay qua kính viễn vọng, ông có thể nghe thấy giọng nói của Chúa trong không gian âm nhạc của các tinh cầu. Ông kiên trì cho rằng khoa học và tôn giáo không phải là kẻ thù, mà là những đồng minh - hai ngôn ngữ khác nhau kể cùng một câu chuyện, về sự đối xứng và cân bằng... thiên đàng và địa ngục, đêm và ngày, nóng và lạnh, Chúa và quỷ Satan. Cả khoa học lẫn tôn giáo đều hoan hỉ với sự đối xứng của Chúa... sự cạnh tranh không ngừng giữa ánh sáng và bóng tối.” Langdon tạm dừng, giậm giậm chân để giữ ấm.

Kohler đơn giản chỉ ngồi trong xe lăn, mắt nhìn trừng trừng.

“Thật không may,” Langdon nói thêm, “sự đoàn kết giữa khoa học và tôn giáo không phải là điều giáo hội muốn.”

“Tất nhiên là không,” Kohler cắt ngang. “Sự thống nhất hẳn sẽ vô hiệu hóa tuyên bố của giáo hội, rằng họ là cửa ngõ duy nhất để loài người hiểu được Chúa. Nên giáo hội cố gắng xem Galileo như một kẻ theo dị giáo, cho rằng ông ta có tội và bắt ông ta phải bị quản thúc tại nhà lâu dài. Tôi hoàn toàn nhận thức được lịch sử khoa học, ngài Langdon. Nhưng tất cả những chuyện này đã qua hàng thế kỷ rồi. Nó thì liên quan gì đến Leonardo Vetra?”

Câu hỏi trị giá triệu đô la. Langdon không lòng vòng nữa. “Vụ bắt giữ Galileo khiến Hội Illuminati bị náo động. Những sai lầm đã xuất hiện và giáo hội đã phát hiện ra danh tính của bốn thành viên, họ liền bị bắt giữ và điều tra. Nhưng bốn nhà khoa học chẳng để lộ điều gì... ngay cả khi bị tra tấn.”

“Tra tấn ư?”

Langdon gật đầu. “Họ bị đóng dấu sắt nung. Ngay trên ngực. Bằng biểu tượng thập giá.”

Kohler trợn tròn mắt, ném cái nhìn khó nhọc sang thi thể của Vetra.

“Sau đó, các nhà khoa học bị sát hại dã man, thi thể của họ bị vứt trên các con phố thành Rome, như lời cảnh báo những người khác đang gia nhập Hội Illuminati. Với việc giáo hội tăng cường vây hãm, các thành viên Illuminati còn lại trốn sang Ý.”

Langdon tạm dừng để vào chủ đề chính. Anh nhìn thẳng vào đôi mắt vô hồn của Kohler. “Hội Illuminati từ đó rút vào hoạt động bí mật chặt chẽ, nơi họ bắt đầu pha trộn với các nhóm di tản khác trốn khỏi các cuộc thanh trừng của Công Giáo - các nhà thần học, nhà giả kim, nhà huyền bí học, những người theo Đạo Hồi và người Do Thái. Trải qua nhiều năm tháng, Hội Illuminati bắt đầu thu nhận các thành viên mới. Một Hội Illuminati mới xuất hiện. Đen tối hơn nhiều. Một Hội Illuminati phản Chúa sâu sắc. Họ ngày càng trở nên lớn mạnh hơn, vận dụng nhiều nghi lễ bí ẩn, cực kỳ bảo mật, thề nguyền rằng ngày nào đó họ sẽ lại trỗi dậy và trút đòn thù lên Công giáo La Mã. Quyền lực của họ mạnh đến mức giáo hội cho rằng họ là một lực lượng phản Chúa nguy hiểm nhất Trái Đất. Vatican đã tố cáo Hội kín này là Shaitan.”

“Shaitan?”

“Một từ của Hồi giáo. Mang nghĩa là ‘kẻ địch’... kẻ địch của Chúa. Giáo hội đã chọn một từ của Hồi Giáo để đặt tên cho tổ chức này, vì đó là thứ ngôn ngữ bị họ xem là dơ bẩn.” Langdon ngần ngừ. “Shaitan là cội rễ của một từ tiếng Anh phái sinh... Satan.”

Một nét khó chịu thoáng qua trên mặt Kohler.

Giọng Langdon trở nên lo âu. “Ngài Kohler. Tôi không biết cái dấu hiệu đó làm thế nào xuất hiện trên ngực người này... hay tại sao... nhưng ngài đang nhìn vào một biểu tượng thất truyền đã lâu, của một hội kín xấu xa hùng mạnh nhất và cổ xưa nhất thế giới.”