L
angdon im lặng bước đằng sau Vittoria và Kohler khi họ quay vào cửa chính, nơi chuyến viếng thăm kỳ lạ của Langdon bắt đầu. Đôi chân Vittoria mềm mại uyển chuyển - như một thợ lặn Olympic - Langdon nghĩ, không nghi ngờ gì nữa sức mạnh này là nhờ sự linh hoạt và kiểm soát của yoga. Anh có thể nghe thấy hơi thở chậm rãi và khoan thai của cô, như thể bằng cách nào đó đang cố gắng thanh lọc nỗi đau của mình.
Anh muốn nói gì đó với cô, bày tỏ sự cảm thông của mình. Anh cũng cảm thấy sự trống rỗng đột ngột khi bất ngờ mất đi người cha. Anh nhớ hầu hết cảnh đám tang hôm ấy, trời đầy mưa và xám xịt. Hai ngày sau sinh nhật mười hai tuổi. Ngôi nhà chật ních những người mặc vest xám đến từ văn phòng, những người bắt tay anh và xiết quá chặt. Tất cả bọn họ đều lẩm bẩm những từ ngữ như bệnh tim và stress. Mẹ anh đùa qua làn nước mắt, rằng bà luôn có thể theo dõi được thị trường chứng khoán, bằng cách đơn giản là nắm chặt tay chồng mình... mạch đập của ông chính là băng tin điện báo hoàn hảo của riêng bà.
Có lần, hồi cha anh còn sống, Langdon nghe thấy mẹ mình cầu xin ông “hãy ngừng lại và hưởng thụ cuộc sống.” Năm đó, Langdon mua cho cha bông hoa hồng thủy tinh làm quà Giáng sinh. Đó là món quà xinh đẹp nhất Langdon từng thấy... nhất là khi mặt trời chiếu vào nó, hắt lên tường ánh cầu vồng rực rỡ sắc màu. “Đáng yêu quá,” cha anh đã nói vậy khi ông mở gói quà, hôn lên trán Robert. “Cùng tìm nơi an toàn đặt bình hoa nào.” Thế rồi cha anh thận trọng đặt hoa hồng lên giá sách đầy bụi, trong góc tối nhất của phòng khách. Vài ngày sau, Langdon bắc ghế rút bông hồng ra, mang trả lại cửa hàng. Cha anh không bao giờ nhận ra nó đã biến mất.
Tiếng “ting ting“ của thang máy ngắt Langdon khỏi dòng suy nghĩ. Vittoria và Kohler đứng trước mặt anh, đang sắp vào thang máy. Langdon ngập ngừng ngoài cánh cửa.
“Có chuyện gì thế?” Kohler hỏi, nghe có vẻ sốt ruột hơn là quan tâm.
“Không có gì.” Langdon đáp, ép mình tiến vào thang máy chật hẹp. Anh chỉ dùng thang máy khi thật sự cần thiết, vì thích dùng không gian rộng rãi của cầu thang bộ hơn.
“Phòng thí nghiệm của Tiến sĩ Vetra ở dưới lòng đất,” Kohler nói.
Tuyệt, Langdon nghĩ vậy khi bước qua khe cửa, cảm thấy một luồng gió giá buốt thốc lên từ dưới đường thông. Cánh cửa khép lại, thang máy bắt đầu đi xuống.
“Sáu tầng,” Kohler hờ hững nói, như một cái máy phân tích.
Langdon hình dung đường thông trống rỗng tối om bên dưới. Anh cố gắng chặn hết ý nghĩ tiêu cực, bằng cách nhìn chằm chằm bảng số tầng nhấp nháy. Lạ lùng làm sao, thang máy chỉ có hai điểm dừng. TẦNG TRỆT và LHC.
“LHC nghĩa là gì?” Langdon hỏi, cố gắng không tỏ ra căng thẳng.
“Large Hadron Collider,” Kohler đáp. “Một máy gia tốc hạt lớn.”
Máy gia tốc hạt? Langdon không hề quen thuộc thuật ngữ này. Lần đầu tiên anh nghe đến nó là trong bữa tối với các đồng nghiệp ở Dunster House tại Cambridge. Một lần, người bạn là nhà vật lý học của họ, Bob Brownell, đến ăn tối trong cơn phẫn nộ.
“Lũ khốn hủy bỏ nó rồi!” Brownell chửi thề.
“Hủy bỏ cái gì?” họ cùng hỏi.
“SSC!”
“Cái gì kia?”
“Máy Gia tốc Siêu Va đập!”
Ai đó nhún vai. “Tớ không biết Harvard đang sản xuất cái đấy.”
“Không phải Harvard!” anh ta thốt lên. “Bọn Mỹ ấy! Và đó sẽ là chiếc máy gia tốc hạt mạnh nhất thế giới. Một trong các dự án khoa học quan trọng nhất thế kỷ! Hai tỷ đô la ném vào nó, thế mà Thượng nghị viện hủy bỏ dự án! Bọn vận động hành lang Vành Đai Kinh Thánh chết tiệt này!”
Khi Brownell cuối cùng cũng bình tĩnh lại, anh ta giải thích rằng máy gia tốc hạt là một cái ống hình tròn lớn, các hạt hạ nguyên tử được gia tốc bên trong ống. Các nam châm trong ống hết bật lên rồi tắt đi rất nhanh nhằm “ép“ các hạt cứ thế xoay tròn, cho đến khi đạt các vận tốc cực hạn. Các hạt được gia tốc đầy đủ quay vòng trong ống hơn 289.000 km/giây.
“Nhưng đó gần như là vận tốc ánh sáng rồi còn gì,” một trong các giáo sư thốt lên.
“Chết tiệt là đúng thế,” Brownell đáp. Anh ta tiếp tục nói rằng bằng cách gia tốc hai hạt ngược chiều nhau quanh ống, sau đó cho chúng va chạm với nhau, các nhà khoa học có thể làm các hạt vỡ tan thành các bộ phận cấu thành, sau đó cái ta thu được là các thành phần căn bản nhất của tự nhiên. “Các máy gia tốc hạt,” Brownell tuyên bố, “là thiết bị tối quan trọng đối với tương lai của khoa học. Các hạt va chạm với nhau là chìa khóa để thấu hiểu các khối tạo dựng cơ bản của vũ trụ.”
Thi sĩ của Harvard, một người đàn ông trầm tĩnh tên là Charles Pratt, có vẻ không ấn tượng lắm. “Đối với tôi mà nói,” anh ta lên tiếng, “nó như một cách tiếp cận thô lỗ của người Neanderthal đối với khoa học... gần như là đập các đồng hồ vào nhau cho vỡ tan ra, để tìm hiểu cấu tạo bên trong.”
Brownell buông dĩa xuống, lao như tên bắn ra khỏi phòng.
*
Vậy là CERN có một máy gia tốc hạt? Langdon nghĩ, khi thang máy tới điểm đến. Một đường ống hình tròn để đập vỡ các hạt. Anh tự hỏi tại sao lại xây nó dưới lòng đất.
Khi thang máy dừng lại, Langdon nhẹ nhõm vì cảm thấy chân mình chạm đất. Nhưng khi cửa thang máy mở ra, cảm giác đó tan biến. Robert Langdon thấy mình một lần nữa lạc vào một thế giới ngoài hành tinh.
Hành lang kéo dài ra cả hai hướng trái phải dường như vô tận. Đó là một đường hầm xi măng mềm mại, đủ rộng cho một xe tải mười tám bánh chạy thoải mái. Nơi họ đứng, đèn thắp sáng rực rỡ, nhưng sâu xuống dưới hành lang hoàn toàn chìm trong bóng tối. Một ngọn gió ẩm thấp từ trong màn đêm thổi ra âm u - lời nhắc rợn tóc gáy rằng họ đang ở dưới lòng đất. Langdon gần như có thể cảm nhận được sức nặng của đất đá đang lơ lửng trên đầu anh. Trong phút chốc, anh trở lại là đứa bé chín tuổi... bóng tối đang ép buộc anh quay lại... trở về với năm giờ đồng hồ chìm trong bóng đêm, quá khứ vẫn ám ảnh anh cho đến giờ. Nắm chặt hai tay thành nắm đấm, anh cố gắng xua đi hồi ức ấy.
Vittoria vẫn im lặng khi ra khỏi thang máy, cô sải bước vào bóng tối không ngần ngừ, không chờ ai đi theo. Phía trên đầu, những ngọn đèn huỳnh quang nhấp nháy soi đường cho cô. Hiệu ứng thật đáng sợ, Langdon nghĩ, như thể đường hầm này là vật thể sống... đang đợi chờ từng bước chân của cô. Anh cùng Kohler đi theo, cách cô một quãng dài. Các ngọn đèn tự động tắt ngóm sau lưng họ.
“Máy gia tốc hạt này,” Langdon lặng lẽ nói. “Nằm đâu dưới đường hầm này vậy?”
“Nó kia kìa.” Kohler chỉ sang bên tay trái, nơi một chiếc ống mạ crom, bóng loáng nằm dọc theo bức tường trong của đường hầm.
Langdon xem xét cái ống, bối rối. “Đó là máy gia tốc à?” Thiết bị trông chẳng giống như anh hình dung. Nó thẳng đuột, đường kính khoảng 0,9 mét, mở rộng theo chiều ngang suốt chiều dài đường hầm trước khi biến mất vào bóng tối. Trông nó giống cống ngầm công nghệ cao hơn, Langdon nghĩ. “Tôi tưởng các máy gia tốc hạt đều hình tròn.”
“Máy gia tốc này có hình tròn,” Kohler nói. “Nhìn nó thẳng thế thôi, nhưng đó là ảo ảnh quang học. Chu vi đường hầm này lớn đến mức không cảm nhận được đường cong - như Trái Đất cũng vậy.”
Langdon sửng sốt. Đây là hình tròn à? “Nhưng... nó vĩ đại thật đấy!”
“LHC là cỗ máy to nhất thế giới.”
Langdon giả vờ ngạc nhiên. Anh nhớ tay lái xe của CERN có nói gì đó về một cỗ máy lớn xây dưới lòng đất. Nhưng mà...
“Đường kính của nó hơn tám kilomet... và dài hai mươi bảy kilomet.”
Đầu óc Langdon quay cuồng. “Hai mươi bảy kilomet?” Anh nhìn ông giám đốc chằm chặp, rồi quay lại nhìn vào đường hầm tối thui trước mặt. “Đường hầm này dài hai mươi bảy kilomet? Tức... tức là hơn mười sáu dặm!”
Kohler gật đầu. “Một hình tròn hoàn hảo. Nó mở rộng sang tận nước Pháp trước khi quay vòng lại tới điểm này. Các hạt được gia tốc đầy đủ sẽ quay tròn trong cái ống hơn mười nghìn lần nữa chỉ trong một giây, trước khi va chạm với nhau.”
Đôi chân Langdon như nhũn ra khi anh nhìn chằm chằm đường hầm khổng lồ. “Ngài đừng nói là CERN đã đào hàng triệu tấn đất đá, chỉ cho các hạt bé tí này va chạm đấy.”
Kohler nhún vai. “Đôi khi để tìm ra chân lý, nếu có phải dời núi cũng phải làm.”