L
úc này, chỉ có Langdon và Vittoria đứng bên ngoài cánh cửa kép dẫn vào chốn linh thiêng bên trong Kho Lưu trữ Bí mật. Trang trí trên hàng cột là sự pha trộn phi lý các tấm thảm treo phủ kín trên sàn đá cẩm thạch, với các máy quay an ninh không dây đang chĩa xuống họ từ những bức tượng thiên thần trẻ con có cánh trên trần. Langdon đặt tên cho nó là Phục hưng lỗi. Bên cạnh cổng vào hình vòm là một tấm biển đồng ghi.
NHÀ VÒM VATICAN
Người quản lý: Đức cha Jaqui Tomaso[51]
[51] Nguyên văn tiếng Ý: ARCHIVIO VATICANO
Curatore, Padre Jaqui Tomaso
Đức cha Jaqui Tomaso. Langdon nhận ra họ tên người quản lý này trong các bức thư từ chối trên bàn làm việc ở nhà anh. Ngài Langdon thân mến, tôi rất lấy làm tiếc khi viết bức thư này để từ chối...
Hối tiếc hả. Chết tiệt. Kể từ khi bắt đầu triều đại của Jaqui Tomaso, Langdon không bao giờ được thấy một học giả Mỹ nào không theo đạo Cơ Đốc mà có quyền tiếp cận các Kho Lưu trữ Bí mật của Vatican. Người gác đền, các sử gia đã gọi ông ta như thế. Jaqui Tomaso chính là vị thủ thư cứng rắn nhất thế giới.
Khi Langdon đẩy cửa mở và bước qua cánh cổng vòm vào chốn linh thiêng bên trong, anh có một chút mong đợi gặp Đức cha Jaqui mặc đồng phục quân đội, đầu đội mũ sắt đứng gác tay cầm khẩu bazooka. Tuy nhiên, không gian này vắng tanh.
Im lặng. Ánh sáng dịu mắt.
Nhà Vòm Vatican. Một trong những giấc mơ của cả đời anh.
Khi Langdon quét mắt khắp căn phòng linh thiêng, phản ứng đầu tiên của anh là một trong những cảm giác ngượng ngùng, nhận ra mình đúng là ngây ngô quá. Những hình ảnh ghi khắc trong đầu anh suốt bao nhiêu năm về căn phòng này không thể sai lệch hơn thế. Anh đã tưởng tượng những giá sách phủ bụi chất cao như núi, với những cuốn sách rách nát, các linh mục đang phân loại dưới ánh nến và những ô cửa sổ kính màu, các thầy tu đang miệt mài nghiên cứu những cuộn giấy...
Nhưng anh đã sai bét.
Ngay từ đầu, căn phòng có vẻ trông giống một nhà chứa máy bay chìm trong bóng tối, trong đó người ta đã xây dựng một tá sân chơi quần vợt biệt lập. Langdon dĩ nhiên biết những hàng rào bọc kính nghĩa là sao. Anh không ngạc nhiên khi thấy chúng, sự ẩm ướt và hơi nóng sẽ làm hư hỏng các lớp giấy da cừu và da bê cổ, cách bảo quản thích hợp đó là xây dựng những căn hầm kín đáo như thế này - những ô lập phương kín khí nhằm tránh hơi ẩm và axit không khí trong tự nhiên. Langdon đã từng ở trong các hầm kính như thế này nhiều lần, nhưng luôn luôn có cảm giác khó chịu... như kiểu bước vào một chiếc thùng kín mít, nơi khí oxy phụ thuộc vào sự cung cấp của một người thủ thư.
Các hầm kính tối om, thậm chí có cảm giác ma quái, viền quanh là những ánh đèn yếu ớt trên trần cuối mỗi giá sách. Langdon cảm nhận được những người khổng lồ hư ảo, những giá sách cao ngất hàng nọ tiếp hàng kia, nặng trĩu lịch sử. Đây là một bộ sưu tập quá tuyệt vời.
Vittoria dường như cũng choáng váng. Cô đứng bên cạnh anh, im lặng nhìn chằm chằm các ô lập phương trong suốt to đùng.
Thời gian không còn nhiều, không bỏ phí giây phút nào, Langdon lập tức quét mắt qua căn phòng có ánh sáng lờ mờ tìm một danh mục sách - một bách khoa toàn thư bìa cứng phân loại bộ sưu tập của thư viện theo danh mục. Nhưng anh chỉ thấy ánh sáng tỏa ra từ các máy tính trong phòng. “Có vẻ ở đây họ dùng phần mềm Biblion. Danh mục của họ vi tính hóa hết rồi.”
Vittoria mặt tràn đầy hy vọng. “Thế thì mọi việc nhanh hơn nhiều rồi.”
Langdon ước gì mình cũng có được sự nhiệt tình này như cô, nhưng anh cảm nhận được đây là tin xấu. Anh bước đến một máy vi tính và bắt đầu gõ. Những nỗi lo sợ của anh ngay lập tức được khẳng định. “Dùng phương pháp cũ sẽ tốt hơn nhiều.”
“Tại sao?”
Anh bước lui khỏi màn hình. “Bởi vì các cuốn sách thật sự không có khóa mã. Tôi không cho rằng các nhà vật lý học là những tin tặc bẩm sinh?”
Vittoria lắc đầu. “Tôi có thể bắt hến mở miệng, thật đấy.”
Langdon hít một hơi sâu, quay về phía bộ sưu tập kỳ lạ của các căn hầm trong suốt. Anh bước đến căn hầm gần nhất, liếc mắt vào nội thất bên trong. Bên kia lớp kính là các đồ vật không có hình dạng nhất định, Langdon nhận ra chúng trông như các giá sách bình thường, các thùng rác bằng giấy da và các bàn kiểm tra. Anh nhìn lên các tấm thẻ đang tỏa sáng cuối mỗi giá sách. Không khác gì các thư viện khác, các thẻ này có ghi rõ nội dung của giá sách đó. Anh đọc các đề mục khi đi xuống dọc tấm chắn bằng kính.
PIETRO IL ERIMITO... LE CROCIATE... URBANO II... LEVANT
“Chúng được dán nhãn,” anh nói, vẫn bước đi. “Nhưng chúng không chia tên tác giả theo thứ tự bảng chữ cái.” Anh không ngạc nhiên. Các kho lưu trữ cổ xưa gần như không bao giờ xếp theo thứ tự bảng chữ cái vì có quá nhiều tác giả không biết tên. Tựa sách cũng không khả thi vì nhiều tài liệu lịch sử là những lá thư, hay các mảnh giấy da dê không có tựa đề. Hầu hết được phân loại theo thứ tự thời gian. Tuy nhiên, rắc rối ở chỗ sự sắp xếp này có vẻ không theo thứ tự đó.
Langdon cảm thấy anh đang phí phạm thời gian quý giá. “Có vẻ như Vatican có hệ thống của riêng họ.”
“Ngạc nhiên làm sao.”
Anh lại xem xét các thẻ tên. Những tài liệu trải dài suốt mấy thế kỷ, nhưng anh nhận ra tất cả các từ khóa đều tương quan với nhau. “Tôi nghĩ chắc là phân loại theo chủ đề.”
“Theo chủ đề?” Vittoria hỏi, giống như một nhà khoa học bất mãn. “Có vẻ không khả quan.”
Thực ra... Langdon nghĩ, quan sát nó kỹ càng hơn. Đây có thể là cách phân loại sắc sảo nhất mình từng thấy. Anh đã luôn thúc giục sinh viên của mình hiểu toàn bộ tinh thần chung và các mô típ chung của một thời đại nghệ thuật, hơn là bị lạc lối trong các chi tiết vụn vặt về ngày tháng và các tác phẩm cụ thể. Có vẻ Kho Lưu trữ Bí mật Vatican được phân loại theo triết lý tương tự. Những khái quát...
“Mọi thứ trong căn hầm này,” Langdon nói, giờ anh cảm thấy tự tin hơn, “hàng đống tài liệu này có liên quan đến những cuộc Thập Tự chinh. Đó là chủ đề của căn hầm.” Anh nhận ra tất cả đều ở đây. Các bản tường thuật lịch sử, những lá thư, tác phẩm nghệ thuật, dữ liệu chính trị xã hội, phân tích hiện đại. Tất cả cùng ở một nơi... tạo điều kiện hiểu biết sâu hơn về một chủ đề. Tuyệt vời.
Vittoria cau mày. “Nhưng dữ liệu có thể liên quan đến nhiều chủ đề đồng thời.”
“Đó là lý do tại sao cần phải tra chéo bằng các thẻ tên.” Langdon chỉ tay qua kính về phía các tấm thẻ nhựa nhiều màu nằm giữa các tài liệu. “Chúng cho biết các tài liệu thứ cấp nằm đâu đó khác với chủ đề ban đầu của chúng.”
“Tất nhiên,” cô nói, rõ ràng không để tâm. Cô đứng hai tay chống nạnh, dò xét không gian rộng lớn. Rồi cô quay sang Langdon. “Vậy thì Giáo sư, tên cuốn sách Galileo chúng ta đang tìm là gì?”
Langdon không thể nhịn được cười. Anh vẫn không thể tin rằng mình đang đứng trong căn phòng này. Nó nằm trong này, anh nghĩ. Đâu đó trong bóng tối, đang đợi chờ.
“Đi theo tôi,” Langdon nói. Anh nhanh nhẹn bước xuống lối đi đầu tiên, xem xét các thẻ tên của từng căn hầm. “Còn nhớ tôi đã kể với cô thế nào về Con đường Khai sáng không? Cách Hội Illuminati tuyển mộ thành viên mới bằng bài thử thách tinh tế?”
“Cuộc săn tìm kho báu,” Vittoria nói, vẫn theo sát sau anh.
“Thách thức Hội Illuminati phải đối mặt là sau khi đặt các mốc, họ cần tìm ra cách nào đó nói với cộng đồng khoa học rằng con đường ấy tồn tại.”
“Logic đấy,” Vittoria nói. “Nếu không sẽ chẳng ai biết mà đi tìm nó.”
“Đúng, và thậm chí kể cả nếu họ biết con đường ấy tồn tại, các nhà khoa học cũng không có cách nào biết nó bắt đầu từ đâu. Rome quá rộng lớn.”
“Đúng rồi.”
Langdon đi xuống lối đi tiếp theo, vừa kiểm tra các thẻ vừa nói chuyện. “Khoảng mười lăm năm trước, vài sử gia tại Sorbonne và tôi đã khám phá ra một loạt các lá thư của Hội Illuminati, có chứa những chỉ dẫn đến segno.”
“Là dấu hiệu. Sự tuyên bố về con đường và nơi nó bắt đầu.”
“Phải. Và kể từ đó, có rất nhiều các chuyên gia nghiên cứu về Illuminati, có bao gồm tôi, đã khám phá những chỉ dẫn nữa đến dấu hiệu. Giờ đây, người ta chấp nhận một lý thuyết rằng có tồn tại đầu mối, và rằng nhóm Galileo đã cung cấp đầu mối cho cộng đồng khoa học, mà Vatican không hề biết.”
“Bằng cách nào?”
“Chúng tôi không chắc, nhưng nhiều khả năng nhất là các ấn phẩm sách giấy. Ông ta đã xuất bản kha khá đầu sách và bản tin trong nhiều năm.”
“Vậy mà Vatican không hề nghi ngờ. Nghe nguy hiểm nhỉ.”
“Đúng vậy. Tuy nhiên, các dấu hiệu đã được cung cấp.”
“Nhưng không ai từng thực sự tìm thấy nó?”
“Không. Thế nhưng lạ ở chỗ, bất cứ khi nào xuất hiện các ám chỉ về dấu hiệu - các nhật ký của Hội Tam Điểm, các tạp chí khoa học cổ xưa, các lá thư của Hội Illuminati - nó thường xuyên được nhắc đến bằng một con số.”
“666 à?”
Langdon mỉm cười. “Thực ra nó là 503.”
“Ý nghĩa là gì?”
“Không ai trong chúng tôi hiểu được. Tôi trở nên thích thú với số 503, cố gắng dùng đủ mọi cách tìm hiểu ý nghĩa trong con số ấy - tham khảo môn thần số, các ám chỉ trên bản đồ, các vĩ độ.” Langdon đến cuối lối đi, rẽ ngoặt vào góc, nhanh chóng vừa dò xét hàng thẻ tên kế tiếp vừa nói. “Trong nhiều năm, đầu mối duy nhất khả dĩ là con số 503 bắt đầu bằng số năm... một trong những con số thiêng của Hội Illuminati.” Anh ngừng lại.
“Điều gì đó mách bảo tôi rằng gần đây anh đã tìm ra nó và đó là lý do chúng ta ở đây.”
“Chính xác,” Langdon đáp, tự cho phép mình hưởng giây phút kiêu hãnh hiếm hoi vì thành quả lao động của mình. “Cô có biết đến một tác phẩm Galileo viết tên là Dialogo?[52]”
[52] Dialogo: Đối thoại.
“Tất nhiên. Cuốn sách nổi tiếng trong giới khoa học như một tác phẩm bán chạy về khoa học cơ bản.”
Tuy Langdon không hề thích dùng từ bán chạy, nhưng anh biết Vittoria nói đúng. Vào đầu những năm 1630, Galileo đã muốn xuất bản một cuốn sách chứng thực mô hình hệ mặt trời lấy mặt trời làm trung tâm của Copernic, nhưng Vatican sẽ không cho phép cuốn sách được ra mắt, trừ phi Galileo phải có bằng chứng thuyết phục tương đương về mô hình lấy Trái đất làm trung tâm của giáo hội - một mô hình Galileo biết là sai bét. Ông không còn lựa chọn nào khác ngoài việc thỏa mãn nhu cầu của giáo hội, xuất bản cuốn sách gồm hai phần tương đương cho cả hai mô hình một đúng một sai.
“Như cô có lẽ cũng biết,” Langdon nói, “bất chấp thỏa hiệp của Galileo, Dialogo vẫn bị xem là có quan điểm dị giáo, Vatican do đó liền quản thúc ông tại nhà.”
“Làm phúc phải tội vậy.”
Langdon mỉm cười. “Thì thế đấy. Nhưng Galileo không dễ gì đầu hàng. Trong khi bị quản thúc tại nhà, ông bí mật viết một bản thảo ít nổi tiếng hơn, mà các học giả thường lầm lẫn với Dialogo. Cuốn sách đó có tên là Discorsi.[53]”
[53] Discosi: Những bài luận.
Vittoria gật đầu. “Tôi từng nghe đến nó rồi. Luận về Thủy triều.”
Langdon ngừng phắt lại, kinh ngạc khi cô đã nghe nói đến một ấn bản bí mật về chuyển động của hành tinh và tác động của nó tới thủy triều.
“Này,” cô nói, “anh đang nói chuyện với một nhà vật lý hải dương học người Ý, có cha là người rất tôn thờ Galileo đấy.”
Langdon phá lên cười. Tuy nhiên, bây giờ người ta không hay săn tìm Discorsi nữa. Langdon giải thích rằng Discorsi chưa phải là tác phẩm duy nhất của Galileo trong thời gian bị quản thúc tại nhà. Các sử gia tin rằng ông còn viết một cuốn sách nhỏ bí ẩn nữa tên là Diagramma.
“Diagramma della Verita,” Langdon nói. “Biểu đồ Chân lý.”
“Chưa từng nghe qua.”
“Tôi không ngạc nhiên. Diagramma là tác phẩm bí mật nhất của Galileo - được cho là một dạng chuyên luận về các sự thật khoa học ông cho là đúng, nhưng không được phép chia sẻ rộng. Giống như một số các bản thảo trước của Galileo, Diagramma được một người bạn của ông tuồn lậu ra khỏi Rome và xuất bản tại Hà Lan. Cuốn sách nhỏ trở nên cực kỳ phổ biến trong giới khoa học ngầm ở châu Âu. Sau đó, Vatican nghe phong thanh về nó liền mở chiến dịch đốt sách.”
Vittoria có vẻ tò mò. “Và anh cho rằng Diagramma có chứa đầu mối à? Hay dấu hiệu. Thông tin về Con đường Khai sáng?”
“Diagramma là cách Galileo chuyển lời ra ngoài. Tôi chắc chắn điều đó.” Langdon tiến đến dãy căn hầm thứ ba, tiếp tục xem xét các thẻ tên. “Các nhà hoạt động đã và đang tìm kiếm một cuốn Diagramma suốt mấy năm nay rồi. Nhưng cùng với các vụ đốt sách của Vatican và chỉ số bảo quản thấp của cuốn sách thì dường như nó đã biến mất hoàn toàn khỏi thế gian.”
“Chỉ số bảo quản?”
“Độ bền ấy mà. Các nhà hoạt động đánh giá các tài liệu về tính toàn vẹn kết cấu theo thang điểm 10. Diagramma được in trên giấy cói. Giống như giấy ăn bây giờ. Tuổi thọ của nó không thể hơn một thế kỷ được.”
“Thế sao không dùng loại giấy bền hơn?”
“Yêu cầu của Galileo. Nhằm bảo vệ những người đi theo ông. Theo cách này, bất kỳ nhà khoa học nào có một bản khi bị bắt có thể thả nó xuống nước, cuốn sách nhỏ sẽ tan ra. Thật tuyệt để hủy bằng chứng, nhưng là cơn ác mộng đối với các nhà hoạt động. Họ tin rằng chỉ còn một bản Diagramma thôi sau thế kỷ XVIII.”
“Một bản?” Vittoria có vẻ như bị giật mình trong khoảnh khắc, khi liếc mắt nhìn quanh phòng. “Và nó ở đây?”
“Bị Vatican tịch thu khỏi tay Hà Lan ngay sau khi Galileo qua đời. Tôi đã làm đơn xin được xem nó suốt mấy năm nay rồi. Kể từ khi tôi nhận ra trong đó viết cái gì.”
Như thể đọc được suy nghĩ của Langdon, Vittoria bước sang bên kia lối đi, bắt đầu xem xét gian hầm liền kề, tiết kiệm thời gian của cả hai.
“Cảm ơn cô,” anh nói. “Tìm kiếm những thẻ tên có liên quan đến Galileo, khoa học, các nhà khoa học. Cô sẽ biết khi cô nhìn thấy nó.”
“Được rồi, nhưng anh vẫn chưa nói tôi nghe làm sao anh biết Diagramma có đầu mối. Có liên quan gì đến 503, con số anh liên tục thấy trong những lá thư Illuminati?”
Langdon mỉm cười. “Đúng. Phải mất một thời gian đấy, nhưng cuối cùng tôi cũng tìm ra 503 là một mật mã đơn giản. Rõ ràng nó chỉ lối đến Diagramma.”
Trong phút chốc, Langdon như sống lại thời điểm anh bất ngờ tìm ra nó. Hôm ấy là ngày 16 tháng Tám. Hai năm trước. Anh đang đứng bên bờ hồ tại lễ cưới của con trai một người đồng nghiệp. Những chiếc kèn túi kêu véo von trên mặt nước, khi đám rước dâu bất ngờ chọn lối vào độc đáo... băng qua hồ bằng thuyền. Con thuyền này được kết những tràng hoa. Có một con số La Mã được sơn đầy kiêu hãnh trên thân thuyền - DCII.
Bối rối trước dấu hiệu này, Langdon đã hỏi cha của cô dâu, “602 nghĩa là gì?”
“602 nào cơ?”
Langdon chỉ tay vào thuyền. “DCII là chữ số La Mã của 602.”
Ông ta phá lên cười. “Không phải chữ số La Mã đâu. Nó là tên thuyền đấy.”
“Tên là DCII à?”
Ông ta gật đầu. “Nghĩa là Dick và Connie II.”
Langdon thấy mình thật ngốc. Dick và Connie là tên cặp uyên ương. Con thuyền này rõ ràng đặt theo tên hai người. “Thế còn DCI sao rồi?”
Ông ta rên rỉ. “Nó chìm trong buổi tổng duyệt hôm qua mất rồi.”
Langdon bật cười. “Tôi rất tiếc.” Anh quay nhìn lại con thuyền. DCII, anh tự nhủ. Chẳng khác gì QEII thu nhỏ. Một giây sau, anh đã nghĩ đến nó.
Lúc này Langdon quay sang Vittoria. “Như tôi đã nói,” anh tiếp tục, “503 là một mật mã. Một mánh khóe của Hội Illuminati để che giấu con số La Mã thực sự. Con số 503 theo chữ số La Mã tức là...”
“DIII.”
Langdon ngước mắt lên. “Nhanh ghê nhỉ. Đừng bảo tôi cô hâm mộ Hội Illuminati đấy nhé.”
Cô bật cười. “Tôi dùng các chữ số La Mã để mã hóa các địa tầng dưới biển.”
Hèn gì, Langdon nghĩ. Chúng ta giống nhau cả thôi.
Vittoria nhìn chăm chú. “Vậy thì DIII có ý nghĩa gì?”
“DI, DII và DIII là những từ viết tắt rất cổ. Chúng được các nhà khoa học ngày xưa sử dụng để phân biệt ba tài liệu của Galileo vốn hay bị nhầm lẫn nhất.”
Vittoria hít một hơi thật nhanh. “Dialogo... Discorsi... Diagramma.”
“D Một, D Hai và D Ba. Tất cả đều mang tính khoa học. Gây tranh cãi. 503 là DIII. Diagramma. Cuốn thứ ba trong các cuốn sách của ông.”
Vittoria có vẻ bối rối. “Nhưng có một chuyện tôi không hiểu. Nếu dấu hiệu này, đầu mối này, sự quảng bá về Con đường Khai sáng này thực sự nằm trong cuốn Diagramma của Galileo, vậy tại sao Vatican không xem nó khi họ lấy lại tất cả các cuốn?”
“Có thể họ đã xem nhưng không để ý. Còn nhớ các mốc Illuminati không? Che giấu mọi thứ khỏi ánh mắt người thường? Sự dị hóa? Dấu hiệu này rõ ràng được giấu theo cùng một cách - người thường sẽ không thể nhận thấy. Với những ai không tìm kiếm nó thì nó vô hình. Và cũng vô hình với cả những ai không hiểu.”
“Ý nghĩa là gì?”
“Galileo che giấu ý nghĩa rất kỹ. Căn cứ theo ghi chép lịch sử, dấu hiệu được che giấu theo phương pháp Hội Illuminati gọi là lingua pura.”
“Ngôn ngữ thuần khiết?”
“Phải.”
“Toán học à?”
“Tôi đoán vậy. Có vẻ rất rõ ràng. Galileo rốt cục là một nhà khoa học và ông đang viết vì các nhà khoa học. Toán sẽ là một thứ ngôn ngữ logic để bố trí đầu mối. Cuốn sách nhỏ có tên là Diagramma, thế nên các biểu đồ toán học cũng là một phần của mật mã.”
Vittoria chỉ tỏ ra hy vọng một chút. “Tôi cho rằng Galileo có thể đã tạo ra mã toán học nào đó không bị giới tu sĩ nhận ra.”
“Cô có vẻ hoài nghi,” Langdon nói, bước xuống dãy giá sách.
“Không. Chủ yếu là vì anh cũng không chắc chắn. Nếu anh chắc chắn về DIII, vậy tại sao anh không công khai? Thế thì ai đó có quyền tiếp cận Kho Lưu trữ Bí mật Vatican có thể đã đến đây, và tìm hiểu cuốn Diagramma từ lâu lắm rồi.”
“Tôi không muốn công khai,” Langdon đáp. “Tôi đã cố gắng hết sức tìm kiếm thông tin và...” Anh ngừng lại, tỏ vẻ ngượng ngùng. “Anh thèm muốn vinh quang.”
Langdon thấy mình đỏ mặt. “Theo một cách nói nào đó. Chỉ là...“
“Đừng đỏ mặt thế. Anh đang nói chuyện với một nhà khoa học. Công khai hay là chết. Tại CERN, chúng tôi gọi tình huống đó là Chứng minh hay Bóp nghẹt.”
“Không chỉ là mong muốn trở thành người đầu tiên. Tôi cũng lo lắng rằng nếu những kẻ xấu tìm kiếm thông tin trong Diagramma, nó có thể biến mất.”
“Những kẻ xấu là Vatican à?”
“Thực chất họ không sai, nhưng giáo hội đã luôn luôn đánh giá thấp mối đe dọa của Illuminati. Vào đầu những năm 1900, Vatican đã đi xa đến mức nói rằng Hội Illuminati là điều bịa đặt bị phóng đại thái quá. Giới tu sĩ cảm thấy đúng ra các tín đồ Cơ Đốc giáo cần phải biết rằng có một phong trào phản Chúa rất mạnh mẽ đang thâm nhập vào các ngân hàng, hoạt động chính trị và các trường đại học của họ.” Thì hiện tại, Robert, anh tự nhắc mình. Có một lực lượng phản Chúa mạnh mẽ đang thâm nhập vào các ngân hàng, hoạt động chính trị và các trường đại học của họ.
“Vậy anh cho rằng Vatican hẳn sẽ chôn vùi bất kỳ bằng chứng nào chứng minh mối đe dọa Illuminati?”
“Hoàn toàn có khả năng. Bất cứ mối đe dọa nào, là thật hay tưởng tượng, đều làm suy yếu lòng tin vào sức mạnh của giáo hội.”
“Một câu hỏi nữa.” Vittoria chợt ngưng bặt, nhìn anh như thể anh là người ngoài hành tinh. “Anh có nghiêm túc không?”
Langdon ngừng lại. “Ý cô là sao?”
“Tôi muốn hỏi đây có thực sự là kế hoạch làm người hùng của anh không?”
Langdon không chắc liệu anh nhìn thấy sự hối tiếc thích thú hay nỗi kinh hoàng đáng sợ trong đôi mắt cô. “Ý cô là tìm kiếm Diagramma à?”
“Không, ý tôi là tìm kiếm Diagramma, xác định một dấu hiệu bốn trăm năm tuổi, giải mã một mật mã toán học nào đó và lần theo tác phẩm điêu khắc cổ mà chỉ các nhà khoa học xuất chúng nhất lịch sử mới có thể lần theo... tất cả trong vòng bốn giờ tới.”
Langdon nhún vai. “Tôi sẵn sàng nghe mọi lời góp ý mà.”