C
ách sắp xếp bên trong Căn hầm Kho Lưu trữ số 10 không giống như Langdon hy vọng và có vẻ không thể tìm được bản thảo Diagramma như các ấn bản tương tự của Galileo. Không được tiếp cận phần mềm Biblion vi tính hóa và danh mục tra cứu, Langdon và Vittoria gặp bế tắc.
“Anh có chắc Diagramma ở đây không?” Vittoria hỏi.
“Chắc chắn. Nó là một danh sách được xác nhận ở cả Văn phòng Tuyên truyền...[56]”
[56] Nguyên văn tiếng Ý: Uficcio della Propaganda delle Fede...
“Được rồi. Miễn là anh chắc chắn thế.” Cô đi sang bên trái, còn anh tìm phía bên phải.
Langdon bắt đầu tìm kiếm theo cách thủ công. Anh cần phải hết sức kiềm chế mới không dừng lại đọc từng kho báu anh đi qua. Bộ sưu tập thật đáng giá. Người Thí nghiệm... Sứ Giả Ánh Sao... Những Lá Thư Viết Vội... Thư gửi Phu nhân Đại Công tước Christina... Lời xin lỗi tới Galileo,...
Cuối cùng, chính Vittoria là người tìm ra kho báu phía sau căn hầm. Giọng nói khàn khàn của cô hét toáng lên, “Diagramma della Verità!”.
Langdon lao qua đám sương mù đỏ rực đến chỗ cô. “Ở đâu?”
Vittoria đưa tay chỉ, ngay lập tức Langdon nhận ra sao anh lại không tìm ra nó sớm hơn. Bản thảo nằm trong hộp đựng, chứ không nằm trên giá sách. Hộp đựng là đồ vật phổ biến để bảo quản các trang giấy rời. Nhãn dán trên mặt trước hộp đựng khiến người ta không còn nghi ngờ gì nội dung bên trong.
BIỂU ĐỒ CHÂN LÝ[57]
[57] Nguyên văn tiếng Ý: DIAGRAMMA DELLA VERITA.
Galileo Galilei, 1639
Langdon quỳ thụp xuống, tim anh đập như trống dồn. ”Biểu đồ.” Anh ném sang cô cái cười rộng ngoác. “Làm tốt lắm. Giúp tôi kéo cái hộp này ra nào.”
Vittoria quỳ xuống cạnh anh, cùng ráng sức kéo cái hộp ra. Khay kim loại đựng cái hộp tiến về phía họ trên những con lăn, làm lộ ra nắp hộp.
“Không có khóa à?” Vittoria hỏi, có vẻ ngạc nhiên khi chỉ có một cái chốt đơn giản.
“Không bao giờ. Các tài liệu đôi khi cần phải được sơ tán thật nhanh. Trong trường hợp có lũ lụt hoặc hỏa hoạn.”
“Vậy mở nó ra thôi.”
Langdon không đợi phải giục thêm một lần nữa. Giấc mơ của cả cuộc đời học thuật đang ở ngay trước mắt anh và bầu không khí ngày càng mỏng trong căn phòng khiến anh không muốn chần chừ thêm một phút giây nào nữa. Anh nhanh chóng mở chốt và nhấc nắp lên. Bên trong, nằm ngay ngắn dưới đáy thùng đựng, là một túi nhỏ bằng vải bông màu đen. Độ thoáng khí của loại vải này là điều kiện tiên quyết để bảo quản cuốn sách bên trong. Cho cả hai tay vào hộp giữ cái túi nằm ngang, Langdon nhấc nó ra khỏi hộp.
“Tôi tưởng phải là một rương kho báu cơ,” Vittoria nói. “Trông nó giống cái bao gối.”
“Đi theo tôi,” anh nói. Giơ cái túi trước mặt như một vật tế linh thiêng, Langdon bước vào giữa căn hầm, nơi anh tìm thấy cái bàn kiểm tra tài liệu lưu trữ có bề mặt kính trong. Cho dù vị trí trung tâm này nhằm mục đích giảm thiểu mang đi mang lại các tài liệu trong căn hầm, các nhà nghiên cứu vẫn đánh giá cao tính riêng tư do các giá sách xung quanh mang lại. Những khám phá làm nên sự nghiệp đều ra đời trong các căn hầm hàng đầu thế giới và hầu hết các học giả không thích đối thủ của mình dòm qua lớp kính khi họ làm việc.
Langdon đặt cái túi lên bàn và mở dây buộc. Vittoria đứng bên cạnh anh. Lục lọi trên một khay đựng công cụ của nhân viên kho lưu trữ, Langdon tìm thấy một cái nhíp có đệm nỉ, vốn được họ đặt tên là các chũm chọe tí hon - những cái nhíp ngoại cỡ có gắn vật kim loại phẳng trên mỗi tay kẹp. Khi cơn hưng phấn tăng lên, Langdon sợ rằng vào bất kỳ lúc nào anh cũng có thể tỉnh khỏi giấc mơ này, tại Cambridge với một chồng các bài thi cần chấm. Hít thật sâu, anh mở túi. Những ngón tay run rẩy trong đôi găng tay cotton, anh thọc cái nhíp vào túi.
“Cứ thoải mái đi,” Vittoria nói. “Nó là giấy thôi, không phải phóng xạ plutonium[58].”
[58] Plutonium (hay còn gọi là Plutoni) là một nguyên tố hóa học hiếm, có tính phóng xạ cao với ký hiệu hóa học Pu và số nguyên tử 94. Nó là một kim loại thuộc nhóm actini với bề ngoài màu trắng bạc và bị xỉn khi tiếp xúc với không khí, tạo thành một lớp phủ mờ khi bị ôxy hóa.
Langdon lướt cái kẹp quanh chồng tài liệu bên trong túi, thận trọng dùng lực đều nhau. Sau đó, thay vì kéo các tài liệu ra, anh giữ chúng ở nguyên chỗ cũ trong khi tháo túi ra - một quy trình bắt buộc của các nhân viên kho lưu trữ, nhằm giảm thiểu ma sát tác động lên hiện vật. Phải đến khi cái túi được tháo ra và sau khi bật đèn lên để khám nghiệm bên dưới mặt bàn, anh mới dám thở lại.
Vittoria lúc này trông như một bóng ma, ngọn đèn bên dưới lớp kính hắt ánh sáng lên mặt cô. “Những tờ giấy nhỏ,” cô nói, giọng tôn kính.
Langdon gật đầu. Chồng giấy trước mặt họ trông như những trang giấy rời từ một cuốn tiểu thuyết nhỏ bìa mềm nào đó. Langdon có thể thấy tờ giấy trên cùng là tờ bìa viết bằng bút mực hoa mỹ, ghi rõ tựa đề, ngày tháng và tên của Galileo do chính tay ông viết.
Vào khoảnh khắc đó, Langdon quên hết những khu phố chật hẹp, quên sự kiệt sức của anh, quên đi tình hình khủng khiếp đã mang anh tới đây. Anh chỉ đơn giản là nhìn trừng trừng vào kỳ quan này. Những cuộc chạm trán gần gũi với lịch sử luôn khiến Langdon cảm thấy tê liệt vì sùng kính... như thể nhìn thấy những nét cọ của bức Mona Lisa.
Lớp giấy cói màu vàng câm lặng khiến Langdon tin chắc về tuổi thọ và sự chân thật của nó. Nếu bỏ qua sự phai nhạt không thể tránh khỏi, tài liệu này đúng là ở trong điều kiện bảo quản tuyệt hảo.Hơi có dấu vết tẩy trắng bằng chất nhuộm. Giấy cói bị rách và bị dính không đáng kể. Nhưng nói gì thì nói... điều kiện bảo quản không thể chê được. Anh xem xét đường nét chữ viết hoa mỹ trên trang bìa, tầm nhìn của anh mờ dần đi do thiếu độ ẩm. Vittoria không nói gì.
“Lấy hộ tôi con dao nhỏ.” Langdon chỉ tay vào cái khay đựng đầy các công cụ phục vụ công việc lưu trữ tài liệu bằng thép không gỉ cạnh Vittoria. Cô đưa nó cho anh. Langdon cầm dụng cụ trong tay. Đúng là một dụng cụ tốt. Anh rà ngón tay qua bề mặt để loại bỏ hết tĩnh điện, rồi thận trọng hết sức, anh đưa con dao vào dưới tờ bìa rồi lật trang.
Trang đầu tiên được viết bằng chữ viết thường, nghệ thuật thư pháp nhỏ xíu, được cách điệu hóa đến gần như không thể đọc nổi. Ngay lập tức Langdon nhận thấy chẳng có biểu đồ hay con số nào trên trang này. Nó là một bài luận.
“Thuyết mặt trời là trung tâm,” Vittoria nói, biên dịch đề mục trên trang một. Cô đọc lướt qua bài viết. “Có vẻ Galileo đang phản đối mô hình lấy Trái Đất là tâm tới cùng. Nhưng mà viết bằng tiếng Ý cổ, không dịch ra nổi đâu.”
“Quên nó đi,” Langdon nói. “Chúng ta đang đi tìm kiếm sự thật. Ngôn ngữ thuần khiết.” Anh dùng dao lật tiếp trang sau. Một bài luận khác. Không có toán hay biểu đồ. Hai bàn tay Langdon bắt đầu đổ mồ hôi bên trong găng tay.
“Chuyển động của các Hành tinh,” Vittoria nói, biên dịch tựa đề.
Langdon cau mày. Nếu vào một ngày khác, Langdon hẳn sẽ thích thú được đọc nó, mô hình các quỹ đạo hành tinh không thể tin nổi của NASA, được quan sát qua các kính viễn vọng công suất lớn, được cho là tương đồng nhất với các tiên đoán ban đầu của Galileo.
“Không có toán học,” Vittoria nói. “Ông ấy đang nói về các chuyển động nghịch hành và các quỹ đạo elip hay cái gì gì đó.”
Các quỹ đạo elip. Langdon nhớ lại rằng phần nhiều rắc rối của Galileo bắt đầu khi ông mô tả chuyển động hành tinh theo hình elip. Vatican đã tán tụng sự hoàn hảo của hình tròn, một mực cho rằng chuyển động của vũ trụ chắc chắn phải là hình tròn. Tuy nhiên, Hội Illuminati của Galileo cũng nhìn thấy sự hoàn hảo trong hình elip, tôn sùng tính đối ngẫu toán học trong điểm hội tụ kép của hình elip. Hình elip của Hội Illuminati vẫn nổi bật đến tận ngày nay trong các họa tiết chạm khảm và hình minh họa của Hội Tam Điểm hiện đại.
“Trang tiếp đi,” Vittoria nói.
Langdon lật trang.
“Chu kỳ của mặt trăng và chuyển động thủy triều,” cô nói. “Không số. Không biểu đồ.”
Langdon lại lật trang. Không có gì hết. Anh lật liên tục mười hai trang hoặc hơn. Không có gì. Không có gì. Không có gì.
“Tôi tưởng ông này là nhà toán học,” Vittoria nói. “Chỉ toàn là bài viết.”
Langdon cảm thấy không khí trong phổi anh ngày càng mỏng dần. Những tia hy vọng trong anh cũng đang cạn dần. Tập tài liệu đang ngày càng mỏng đi.
“Chẳng có gì ở đây cả,” Vittoria nói. “Không có toán. Chỉ có vài ngày tháng, vài con số tiêu chuẩn, nhưng chẳng có vẻ gì là đầu mối cả.”
Langdon lật sang trang cuối cùng rồi thở dài. Nó cũng là một bài luận.
“Cuốn sách ngắn quá,” Vittoria vừa nói vừa nhíu mày.
Langdon gật đầu.
“Merda, như dân thành Rome chúng tôi hay nói.”
Chết tiệt, đúng thật, Langdon nghĩ. Hình của anh phản chiếu trên lớp kính có vẻ đang chế nhạo, chẳng khác gì hình ảnh nhìn lại anh trừng trừng sáng hôm nay từ ô cửa sổ nhô ra. Một hồn ma già cỗi. “Chắc phải có cái gì đó,” anh nói, sự tuyệt vọng khô khốc trong giọng nói của anh khiến chính anh cũng ngạc nhiên. “Dấu hiệu phải ở đâu đó trong này. Tôi biết mà!”
“Có thể anh đã sai về DIII?”
Langdon quay phắt lại, nhìn cô chằm chằm.
“Được rồi,” cô nhượng bộ, “DIII có ý nghĩa hoàn hảo. Nhưng có thể nào đầu mối không phải là toán?”
“Ngôn ngữ thuần khiết[59]. Còn có thể là gì nữa?”
[59] Nguyên văn tiếng Ý: Lingua pura
“Nghệ thuật chăng?”
“Ngoại trừ việc không có biểu đồ hoặc hình vẽ trong sách.”
“Tôi chỉ biết là ngôn ngữ thuần khiết ám chỉ đến cái gì đó ngoài tiếng Ý. Toán học xem ra có vẻ logic.”
“Tôi đồng ý.”
Langdon không cam chịu thất bại nhanh như thế. “Các con số chắc phải được viết bằng chữ viết thường. Toán học phải được thể hiện bằng từ ngữ, thay vì các phương trình.”
“Sẽ phải mất thêm thời gian đọc hết các trang.”
“Thời gian là thứ chúng ta không có. Chúng ta sẽ phải chia công việc ra.” Langdon lật lại các trang sách từ đầu. “Tôi biết đủ tiếng Ý để tìm ra số.” Sử dụng con dao, anh chia chồng tài liệu như kiểu người ta chia bài, rồi đặt nửa tá trang đầu tiên trước mặt Vittoria. “Nó nằm đâu đó trong này thôi. Tôi chắc đấy.”
Vittoria cúi xuống, lật trang đầu tiên bằng tay.
“Dao!” Langdon nói rồi lấy cho cô một con dao khác từ trên khay. “Phải dùng dao.”
“Tôi đeo găng rồi còn gì,” cô làu bàu. “Có thể gây hư hỏng đến đâu chứ?”
“Thì cứ dùng dao đi.”
Vittoria cầm con dao lên. “Anh có đang cảm thấy giống tôi không?”
“Căng thẳng à?”
“Không. Mà là thiếu dưỡng khí.”
Langdon chắc chắn cũng đang cảm thấy thế. Không khí đang ngày càng mỏng hơn anh tưởng tượng. Anh biết họ phải đẩy nhanh tốc độ lên. Các câu đố của tài liệu lưu trữ không mới mẻ đối với anh, nhưng thông thường anh phải mất vài phút để giải đáp. Không nói thêm lời nào, Langdon cúi đầu xuống bắt đầu dịch trang đầu tiên của tập tài liệu.
Mày hiện ra đi, khốn kiếp! Hiện ra đi!