• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Thời khắc
  3. Trang 14

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 13
  • 14
  • 15
  • More pages
  • 27
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 13
  • 14
  • 15
  • More pages
  • 27
  • Sau

Bà Dalloway

Clarissa cắm tá hồng vàng vào một chiếc lọ rồi mang nó vào phòng khách, đặt lên bàn cà phê, lùi lại ngắm nghía, sau đó thử dịch chiếc lọ sang trái vài phân. Bà sẽ giành cho Richard bữa tiệc tuyệt nhất. Bà sẽ cố tạo nên thứ gì đó trần tục, thậm chí vặt vãnh, nhưng hoàn hảo theo cách riêng của nó. Bà sẽ chú ý để xung quanh ông là những người thực sự tôn trọng và ngưỡng mộ ông (tại sao bà lại mời Walter Hardy, sao bà lại có thể yếu đuối đến thế?); bà sẽ đảm bảo ông không bị quá mệt. Đây là phần đóng góp của bà, món quà của bà. Bà có thể dành cho ông điều gì nữa?

Đang trên đường quay vào bếp thì hệ thống liên lạc nội bộ đổ chuông. Có thể là ai nhỉ? Nhiều khả năng là một người giao hàng bà đã quên mất, hay người cung cấp thực phẩm. Bà bấm nút đàm thoại.

“Ai đấy?” Bà hỏi.

“Louis. Louis đây.”

“Louis? Thật sao?”

Clarissa bấm nút mở cửa cho ông vào. Tất nhiên là Louis rồi. Không ai khác, một người New York chính cống lại càng không, chỉ đơn giản bấm chuông cửa mà không gọi điện trước. Chẳng ai làm thế cả. Bà mở cửa, bước ra ngoài lối đi với cảm giác chờ đợi dâng trào tới mức gần như khiến bà quay cuồng, một cảm giác thật mãnh liệt và khác thường, khó lòng biết được trong bất kỳ bối cảnh nào khác, đến mức trước đây ít lâu bà đã đi tới quyết định chỉ đơn giản đặt tên nó là Louis. Chính cảm giác Louis này mang trong mình những dư âm của hiến dâng và tội lỗi, của sự hấp dẫn, một nhân tố rõ ràng của nỗi sợ phải hiện diện trước mặt người khác và một hy vọng thuần khiết không phai mờ, như thể mỗi lần Louis xuất hiện là lần cuối cùng ông cũng mang tới một tin tốt đến mức không thể mường tượng ra phạm vi hay thậm chí, bản chất cụ thể của nó.

Thế rồi, một lúc sau, vòng qua chỗ ngoặt của lối đi, chính là Louis. Tới nay đã, bao lâu nhỉ, hơn năm năm rồi, nhưng ông vẫn y nguyên như trước. Vẫn mái tóc bạc trắng dựng đứng lên như bị nhiễm điện, vẫn dáng đi háo hức và kiểu cách, vẫn cách ăn mặc cẩu thả nhưng trông lại rất ổn. Vẻ đẹp từng trải của một con sư tử đã biến mất một cách đột ngột đến ngạc nhiên gần hai thập kỷ trước và Louis này - tóc bạc, gân guốc, đầy những cảm xúc bị kiềm chế - xuất hiện giống với cách một người đàn ông nhỏ thó, chẳng gây được chút ấn tượng nào có thể sẽ nhảy xuống từ tháp pháo một chiếc xe tăng để tuyên bố rằng chính ông ta, chứ không phải chiếc xe, đã san phẳng ngôi làng của bạn. Louis, nỗi khao khát xa xưa, hóa ra vẫn luôn là thế này: một thầy giáo dạy kịch nghệ, một người vô hại.

“Thế đấy, anh đây”, ông nói.

Ông và Clarissa ôm hôn nhau. Khi Clarissa buông ông ra, bà thấy đôi mắt xám cận thị của Louis đang ướt. Ông vẫn luôn mau nước mắt. Clarissa, người đa cảm hơn, đầy phẫn nộ hơn, dường như chẳng bao giờ khóc, dù bà vẫn muốn khóc.

“Anh về thành phố khi nào vậy?” Bà hỏi.

“Hôm kia. Anh ra ngoài đi dạo và nhận ra mình đang đi trên con đường nơi em sống”.

“Em rất vui được gặp anh.”

“Anh cũng rất vui được gặp em”, Louis nói và đôi mắt ông lại ướt nhòa.

“Anh lựa chọn thời điểm đúng lúc đến mức không thể tin được. Bọn em sẽ tổ chức bữa tiệc cho Richard vào tối nay.”

“Thật sao? Nhân dịp gì vậy?”

“Anh ấy giành được giải Carrouthers. Anh không nghe nói gì sao?”

“Giải gì cơ?”

“Một giải thưởng dành cho các nhà thơ. Một sự kiện rất quan trọng. Em rất ngạc nhiên là anh không biết gì về nó.”

“Vậy đấy. Xin chúc mừng Richard.”

“Em hy vọng anh sẽ tới. Anh ấy sẽ rất vui nếu thấy anh.”

“Có thật vậy không?”

“Thật chứ. Tất nhiên rồi. Tại sao chúng ta lại đứng giữa lối đi thế này nhỉ? Anh vào đi.”

Trông bà ấy già hơn, Louis thầm nghĩ trong lúc ông đi theo Clarissa vào trong căn hộ (tám bước, rẽ, rồi thêm ba bước nữa). Trông bà ấy già hơn, Louis kinh ngạc nghĩ thầm. Cuối cùng chuyện đó cũng xảy ra. Những quá trình biến chuyển về di truyền này thật đáng chú ý, cái cách mà một cơ thể có thể tồn tại qua quãng thời gian dài hầu như không chút thay đổi, từ thập kỷ này qua thập kỷ khác, rồi chỉ sau vài năm đầu hàng tuổi tác. Louis ngạc nhiên nhận ra ông cảm thấy phiền muộn đến thế, ít thỏa mãn đến thế, trước sự ra đi đột ngột của tuổi thanh xuân kéo dài tới mức không tự nhiên mà Clarissa từng sở hữu. Đã bao lâu ông mơ mộng viển vông về nó rồi nhỉ? Đó là sự báo thù của ông, là cách tính sổ duy nhất có thể. Trong suốt từng ấy năm cùng Richard, với tất cả từng ấy tình yêu và nỗ lực, Richard dành những năm cuối cùng của cuộc đời mình viết về một người phụ nữ có một căn nhà trong thành phố ở đường West Tenth. Richard sáng tác ra một cuốn tiểu thuyết tập trung khai thác triệt để vào một người phụ nữ (cả một chương dài hơn năm mươi trang nói về chuyện mua đồ sơn móng tay, mà cuối cùng cô ta quyết định không thực hiện nữa!) còn anh chàng Louis W. già nua bị đẩy xuống hàng nhân vật phụ. Louis W. được dành cho một cảnh, tương đối ngắn, trong đó anh ta than vãn về sự thiếu thốn tình yêu trên thế giới. Đó là tất cả; đó chính là phần thưởng, sau hơn mười hai năm; sau khi sống cùng Richard trong sáu căn hộ khác nhau, ôm lấy anh ta, làm tình cùng anh ta đến kiệt sức; sau hàng nghìn bữa ăn cùng nhau; sau chuyến đi tới Ý cùng một giờ trải qua dưới bóng cây đó. Sau tất cả những chuyện đó, Louis xuất hiện và sẽ được nhớ tới, như một gã đàn ông phiền muộn hay than vãn về tình yêu.

“Anh đang ở đâu?” Clarissa hỏi.

“Cùng James, trong một nhà trọ rẻ tiền.”

“Anh ấy vẫn ở đó sao?”

“Vài món đồ của cậu ta vẫn còn ở đó. Anh đã thấy một hộp mì nui hình nơ bướm mà anh còn nhớ đã mua cho cậu ta ngoài cửa hàng chừng năm năm trước. Cậu ta cố chối rằng không phải là cái hộp ấy, nhưng nó có một vết lõm ở góc mà anh nhớ rất rõ.”

Louis đưa một đầu ngón tay ấn lên mũi (bên trái, bên phải). Clarissa quay lại đối diện với ông. “Nhìn anh xem”, Clarissa nói và họ lại ôm hôn nhau lần nữa. Hai người ôm chặt lấy nhau gần như trọn một phút (đôi môi ông áp lên vai trái bà và ông quay sang áp môi lên cả vai phải của bà nữa). Clarissa là người buông ra trước.

“Anh muốn uống chút gì không?” Bà hỏi.

“Không. À mà có. Một cốc nước nhé?”

Clarissa đi vào bếp. Bà ấy vẫn không thể thấu hiểu được, vẫn cư xử ôn tồn đến mức làm ông phát bực lên được. Clarissa ở ngay chỗ này, Louis nghĩ, trong suốt quãng thời gian đã qua. Bà đã trải qua một ngày, rồi một ngày nữa, đi xem kịch, đi dự tiệc.

Quả thực, ông thầm nghĩ, có quá ít tình yêu trên thế giới.

Louis bước bốn bước để đi vào phòng khách. Ông lại ở đây, trong căn phòng lớn mát mẻ nhìn xuống vườn, với chiếc trường kỷ êm ái và những tấm thảm hảo hạng. Ông đổ lỗi cho Sally về căn hộ. Đây là ảnh hưởng của Sally, sở thích của Sally. Sally và Clarissa sống trong một bản sao hoàn hảo của một căn hộ thượng lưu tại West Village; bạn có thể hình dung ra ngay tay trợ lý của ai đó rảo bước qua với một cặp tài liệu: ghế bành bọc da kiểu Pháp, có; bàn hiệu Stickley27, có; giấy dán tường màu vải lanh có in hoa văn cây cỏ, có; giá sách được trang trí bằng các món đồ nhỏ quý giá mua từ nước ngoài, có. Thậm chí cả những thứ lập dị - chiếc khung gương trang trí bằng vỏ sò mua ngoài chợ trời, chiếc rương Nam Mỹ cũ kỹ bong tróc có vẽ hình các nàng tiên cá tinh ranh - cũng có vẻ được tính toán kỹ, như thể vị giám đốc nghệ thuật đã nhìn qua tất cả và nói, “Vẫn chưa đủ thuyết phục, chúng ta cần thêm những thứ khác để chúng ta biết những con người này thực sự là ai”.

27 L & J.G. Stickley: Một hãng đồ gỗ có trụ sở tại New York (Mỹ).

Clarissa quay lại với hai cốc nước (soda, đá và chanh) và vừa trông thấy bà, Louis chợt ngửi thấy mùi không khí - mùi của thông và cỏ, vị hơi mằn mặn của nước - tại Wellfleet hơn ba mươi năm về trước. Tim ông đập nhanh hơn. Bà đã già đi nhưng - không thể bác bỏ điều này - vẫn có vẻ cuốn hút; vẫn còn vẻ khêu gợi, mạnh mẽ, quý phái. Bà trông vẫn mảnh mai. Bằng cách nào đó, ở bà vẫn tỏa ra một hơi hướng lãng mạn nhưng đầy trắc trở và khi ngắm nhìn bà lúc này, ở ngoài năm mươi tuổi, trong căn phòng sang trọng tranh tối tranh sáng này, Louis nghĩ tới các bức ảnh chụp những người lính trẻ, những cậu nhóc với khuôn mặt cương nghị nghiêm trang trong bộ quân phục; những cậu bé chết trước tuổi hai mươi và tiếp tục sống như hiện thân của sự hứa hẹn bị bỏ phí, trong những cuốn album ảnh hay trên những chiếc bàn, đẹp đẽ và tự tin, không bị ảnh hưởng bởi số phận bạc bẽo của mình, như là những công việc chỉ đủ sống qua ngày và những kỳ nghỉ vật vờ đầy thất vọng. Lúc này, Clarissa làm Louis liên tưởng tới một người lính. Dường như bà đang nhìn ra thế giới già cỗi từ một cõi xưa trong quá khứ; bà dường như cũng buồn bã, ngây thơ và bất khả chiến bại như những kẻ đã khuất trong các bức ảnh.

Bà đưa cho Louis một cốc nước. “Trông anh khá đấy”, bà nói. Khuôn mặt vào tuổi trung niên của Louis vẫn phảng phất khuôn mặt thời trẻ: cái mũi khoằm và đôi mắt nhạt màu luôn có vẻ ngạc nhiên; đôi lông mày mảnh; cái cổ hằn lên những mạch máu mạnh mẽ dưới một cái cằm rộng, xương xẩu. Ông vốn được sinh ra để trở thành một nông dân, khỏe mạnh như cỏ dại, để dãi dầu sương gió và những gì tuổi tác mất năm mươi năm để làm, cày bừa gặt hái hẳn sẽ làm được chỉ trong nửa thời gian đó.

“Cảm ơn em”, Louis nói.

“Em có cảm giác như thể anh đã ở rất xa.”

“Đúng là đã như thế. Thật tốt khi được quay trở lại.”

“Năm năm”, Clarissa nói. “Em không thể tin là anh thậm chí không ghé thăm New York lấy một lần.”

Louis uống liền ba ngụm nước. Ông đã quay lại New York vài lần trong năm năm vừa qua, nhưng không gọi cho bà. Dù chưa bao giờ quyết tâm không gặp lại Clarissa hay Richard, song đúng là trên thực tế ông không hề gọi điện cho hai người. Có vẻ như thế đơn giản hơn.

“Anh quay về để ở lại”, Louis nói. “Anh đã phát chán với những trò dạy dỗ này rồi, anh đã quá già và quá kém cỏi. Anh quá nghèo. Anh đang nghĩ tới việc tìm một công việc lương thiện nào đó.”

“Thật chứ?”

“Ồ, anh không biết. Đừng lo, anh sẽ không quay lại trường để lấy bằng MBA hay làm điều gì tương tự đâu.”

“Em cứ nghĩ anh đã phải lòng San Francisco rồi cơ đấy. Em từng nghĩ bọn em sẽ không bao giờ được trông thấy anh nữa.”

“Mọi người đều trông đợi ta phải lòng San Francisco. Thật là ngán ngẩm.”

“Louis, Richard bây giờ rất khác so với trước đây.”

“Kinh khủng lắm phải không?”

“Em chỉ muốn anh chuẩn bị tinh thần.”

“Em đã gần gũi với anh ấy, trong suốt những năm vừa qua”, Louis nói.

“Vâng. Đúng thế.”

Bà ấy là một phụ nữ đẹp, Louis thầm đi đến quyết định. Clarissa chính xác là thế, không hơn không kém. Clarissa ngồi xuống trường kỷ và sau một khoảnh khắc do dự, Louis bước tới năm bước và ngồi xuống bên bà.

“Tất nhiên anh đã đọc qua cuốn sách”, ông nói.

“Anh đọc rồi ư? Tốt quá.”

“Chẳng phải nó hơi kỳ quặc sao?”

“Vâng. Đúng thế.”

“Thậm chí anh ấy còn chẳng bận tâm đổi tên em đi.”

“Đó không phải là em”, bà nói. “Đó là mơ mộng của Richard về một người phụ nữ nào đó thoáng có nét giống em.”

“Đó là một cuốn sách kỳ cục và quái đản.”

“Dường như có nhiều người nghĩ như thế.”

“Cảm tưởng như nó phải dài đến mười nghìn trang. Chẳng có gì xảy ra cả. Thế rồi, bam. Cô ta tự sát.”

“Mẹ anh ấy.”

“Anh biết. Nhưng dẫu sao. Hoàn toàn bất ngờ.”

“Anh nhất trí với hầu hết mọi lời phê bình. Họ đã đợi suốt từng ấy thời gian và để đón nhận cái gì nhỉ? Hơn chín trăm trang toàn chuyện yêu đương lăng nhăng, đúng thế, với một cái chết đột ngột ở đoạn kết. Người ta nói nó được viết ra một cách đẹp đẽ.”

Louis rời mắt khỏi bà. “Những bông hồng này đẹp quá”, ông nói.

Clarissa cúi người về phía trước, hơi dịch bình hoa về bên trái. Chúa ơi, Louis thầm nghĩ, bà ấy đã đi quá vị thế của một người vợ rồi. Bà ấy đã trở thành mẹ của chính mình.

Clarissa bật cười. “Nhìn em đi nào”, bà nói. “Một bà già loay hoay vời những bông hồng.”

Bà ấy luôn làm ta ngạc nhiên bằng cách biết nhiều hơn những gì ta nghĩ bà ấy biết. Louis tự hỏi có phải những biểu hiện khéo léo, ra dáng bà chủ của Clarissa đều được tính toán trước. Dường như có những lúc bà ấy đã đọc được suy nghĩ của ta. Bà ấy tước vũ khí của ta bằng cách nói rằng nhìn chung tôi biết những gì anh đang nghĩ và tôi đồng ý, tôi thật lố bịch, tôi kém xa những gì đáng ra tôi phải là và tôi cũng muốn mọi thứ khác đi, song dường như tôi không thể giúp được chính mình. Ta sẽ nhận ra ta đang dịch chuyển, gần như trái lại ý muốn của chính mình, từ chỗ khó chịu với bà ấy sang an ủi, giúp bà ấy quay trở lại với màn trình diễn của mình, để bà ấy lại có thể thoải mái và ta có thể bắt đầu cảm thấy khó chịu.

“Vậy là”, Louis nói. “Richard đang ốm nặng.”

“Vâng. Cơ thể anh ấy không còn ở trạng thái khủng khiếp như trước nữa, nhưng tâm trí anh ấy dường như hơi bất ổn. Em sợ rằng bệnh của anh ấy đã tiến triển tới mức phải dùng những loại thuốc kiểu như thuốc kháng protease.”

“Hẳn phải khủng khiếp lắm.”

“Anh ấy vẫn là chính mình. Ý em là, vẫn còn tồn tại một sự ổn định, một phong thái Richard, điều này thì chẳng có chút thay đổi nào.”

“Thế thì tốt. Ít nhất cũng còn điều gì đó.”

“Anh còn nhớ đụn cát lớn ở Wellfleet không?” Bà hỏi.

“Tất nhiên rồi.”

“Hôm trước em từng nghĩ khi chết chắc em sẽ muốn tro của mình được rải ở đó.”

“Thật bệnh hoạn”, Louis nói.

“Nhưng anh cứ nghĩ về những chuyện này đi. Làm sao có thể không nghĩ ngợi chứ?”

Khi đó Clarissa từng tin và ngày hôm nay bà vẫn tin đụn cát ở Wellfleet, theo một nghĩa nào đó, đồng hành cùng bà mãi mãi. Cho dù chuyện gì xảy ra đi nữa, bà vẫn sẽ luôn có nó. Bà sẽ luôn đứng trên một đụn cát cao vào mùa hè. Bà sẽ luôn trẻ trung, khỏe mạnh tới mức không thể bị hủy diệt, hơi choáng váng, mặc trên người chiếc áo vải bông của Richard trong khi anh thân mật quàng một tay quanh cổ bà và Louis đứng hơi tách ra bên cạnh, ngắm nhìn những con sóng.

“Khi đó anh đã rất giận em”, Louis nói. “Đôi lúc anh không muốn nhìn mặt em nữa.”

“Em đã cố gắng tỏ ra tử tế. Em đã cố cởi mở.”

Louis nói, “Có một lần anh đã lái xe tới đó. Tới ngôi nhà. Anh không nghĩ từng kể chuyện này với em”.

“Không. Anh chưa kể.”

“Lúc đó là ngay trước khi anh chuyển tới California. Anh đang dự một cuộc hội thảo ở Boston, một thứ kinh khủng gì đó về tương lai ngành sân khấu, chỉ đơn thuần là một đám khủng long già to mồm rỗng tuếch họ gom lại để đám sinh viên vừa tốt nghiệp có thứ gì đó để cười nhạo và sau đó anh thấy ngán ngẩm đến nỗi đã thuê một chiếc xe và lái tới Wellfleet. Anh hầu như chẳng gặp khó khăn nào để tìm ra nó.”

“Có lẽ em sẽ không muốn biết đâu.”

“Không, nó còn ở đó và trông vẫn y như cũ. Nó đã được làm mới lại chút ít. Lớp sơn mới, em biết đấy và ai đó đã thêm vào một khoảng sân cỏ, trông thật kỳ dị giữa khu rừng, giống như một tấm thảm trải sàn khổ lớn vậy. Nhưng ngôi nhà vẫn đứng đó.”

“Là những gì anh biết”, Clarissa nói.

Hai người ngồi im lặng trong tích tắc. Có vẻ còn tồi tệ hơn khi ngôi nhà vẫn còn đứng vững. Còn tồi tệ hơn khi ánh sáng và sau đó là bóng tối, rồi lại đến ánh sáng đi vào và rời khỏi những căn phòng đó mỗi ngày, khi mưa tiếp tục rơi xuống chiếc mái đó, khi vẫn còn có thể thăm lại tất cả nơi ấy.

Clarissa nói, “Đến lúc nào đó em cũng nên trở lại nơi ấy. Em rất thích lại được đứng trên những đụn cát”.

“Nếu đó là nơi em nghĩ em muốn tro của mình được rắc xuống, thì đúng đấy, em nên quay lại.”

“Không, anh nói đúng, em nghĩ u ám quá. Mùa hè làm em bị nó ám ảnh. Em cũng không biết em muốn rải tro của mình ở đâu nữa.”

Đột nhiên, Clarissa muốn kể lại toàn bộ cuộc đời bà với Louis. Bà muốn trải nó xuống sàn nhà dưới chân Louis, tất cả những khoảnh khắc sống động, vô nghĩa không thể được gọi là những câu chuyện. Bà muốn ngồi cùng Louis và lướt qua chúng.

“Vậy đấy”, bà nói. “Kể cho em nghe thêm chút nữa về San Francisco đi nào.”

“Đó là một thành phố nhỏ xinh đẹp với những nhà hàng lớn và chẳng có gì diễn ra cả. Phần lớn sinh viên của anh là những gã ngốc. Thực sự là anh sẽ quay về New York sớm nhất có thể.”

“Tốt. Thật tốt khi lại có anh ở đây.”

Clarissa đặt tay lên vai Louis và dường như họ sẽ cùng đứng dậy, không nói gì, lên trên lầu vào phòng ngủ và cùng nhau cởi quần áo ra. Dường như họ sẽ vào phòng ngủ và cởi quần áo ra, không phải như những người tình, mà như những võ sĩ giác đấu đã sống sót rời khỏi đấu trường, nhận ra bản thân họ nhuộm đầy máu, tả tơi xơ xác, nhưng đầy sức sống một cách thần kỳ trong khi tất cả những người khác đã chết. Họ sẽ nhăn mặt trong lúc cởi tấm giáp che ngực và ống chân ra. Họ sẽ nhìn nhau một cách trìu mến và kính nể, họ sẽ nhẹ nhàng ôm hôn nhau trong lúc New York ồn ã trôi qua dưới khung cửa sổ, trong khi Richard ngồi trong chiếc ghế của ông lắng nghe những giọng nói và Sally dùng bữa trưa trong trung tâm thành phố với Oliver St. Ives.

Louis đặt chiếc ly của ông xuống, cầm nó lên, rồi lại đặt xuống. Ông gõ bàn chân xuống tấm thảm, ba lần.

“Tuy vậy chuyện này cũng hơi rắc rối một chút”, ông nói. “Em biết đấy, anh đã yêu.”

“Thật sao?”

“Tên cậu ấy là Hunter. Hunter Craydon.”

“Hunter Craydon. Tốt thôi.”

“Năm ngoái cậu ấy là sinh viên của anh”, Louis nói.

Clarissa ngả người ra sau, thở dài sốt ruột. Đây chắc là anh chàng thứ tư, ít nhất nếu tính theo những người bà biết. Bà muốn thộp lấy Louis và nói, “Anh cần phải biết cách già đi khá hơn thế này. Em không thể chịu được phải thấy anh nghĩ về mình nhiều đến thế, rồi lại trao tất cả cho một cậu con trai nào đó chỉ vì tình cờ cậu ta lại đẹp trai và trẻ trung”.

“Có lẽ cậu ấy là sinh viên có năng khiếu nhất anh từng dạy”, Louis nói. “Cậu ấy đã thực hiện những tác phẩm trình diễn về sự trưởng thành khi bạn là một người da trắng đồng tính ở Nam Phi. Mạnh mẽ đến mức không thể tin được.”

“Được rồi”, Clarissa nói. Bà không thể nghĩ ra được gì khác để nói. Bà thấy ái ngại cho Louis, thấy vô cùng sốt ruột và dẫu vậy, bà nghĩ, Louis đang yêu. Ông đang yêu một chàng trai trẻ. Ông năm mươi ba tuổi và vẫn còn tất cả cuộc đời phía trước, tình dục và những cuộc tranh luận ngớ ngẩn, đó là một nỗi thống khổ.

“Cậu ấy thật đáng kinh ngạc”, Louis nói. Và trước sự ngạc nhiên hoàn toàn của chính mình, ông bắt đầu khóc. Chỉ đơn giản là nước mắt bắt đầu trào ra đủ nhiều, nóng hổi trên đôi mắt ông. Những cơn xúc động bồng bột như thế này vẫn liên tục xâm chiếm lấy ông. Một bài hát có thể làm được điều đó, thậm chí cả bộ dạng của một con chó già. Chúng rồi cũng qua. Chúng thường trôi qua. Tuy nhiên, lần này nước mắt bắt đầu rơi xuống gần như trước khi ông biết nó sẽ xảy ra và trong khoảnh khắc, một phần con người ông (cũng chính là phần cơ thể vẫn đếm các bước đi, những cái vỗ tay) tự nói với chính nó, Ông ấy đang khóc, thật lạ làm sao. Louis cúi người về phía trước, gục mặt vào hai bàn tay. Ông nức nở.

Sự thật là ông không yêu Hunter và Hunter cũng không yêu ông. Họ đang có một mối quan hệ, chỉ là một mối quan hệ mà thôi. Ông không thể nghĩ về cậu ta trong hàng giờ liền. Hunter có những bạn trai khác, cả một tương lai đã được lên kế hoạch và khi cậu ta một mình bước tiếp con đường đời, Louis buộc phải thừa nhận, một cách riêng tư, rằng ông sẽ chẳng mấy nhớ nhung tiếng cười rít lên nhức óc của Hunter, những chiếc răng cửa sứt mẻ và những quãng lặng thinh hờn dỗi của cậu ta.

Có quá ít tình yêu trên thế giới.

Clarissa áp lòng bàn tay xoa lên lưng Louis. Sally đã nói gì nhỉ? Chúng ta chẳng bao giờ gây gổ. Trong một bữa ăn tối ở đâu đó, khoảng một năm trước hay lâu hơn. Bữa ăn có một loại cá gì đó, như những chiếc mề đay dày cộp giữa một vũng nước sốt màu vàng (dường như lúc đó mọi món đều nằm giữa một vũng nước sốt màu vàng). Chúng ta chẳng bao giờ gây gổ. Đúng thế. Họ cãi cọ vặt vãnh, họ hờn dỗi, nhưng họ không bao giờ gào thét lớn tiếng hay khóc lóc, chưa bao giờ đập vỡ lấy một cái đĩa. Dường như họ vẫn chưa tranh cãi, rằng họ vẫn còn quá mới cho một cuộc chiến tranh toàn diện, rằng vẫn còn những lục địa chưa được khai phá nằm phía trước một khi họ đã vượt qua được các cuộc thương lượng ban đầu và cảm thấy đủ chắc chắn về sự gắn bó của người kia để có thể thoải mái bùng nổ. Bà có thể đang nghĩ gì lúc đó nhỉ? Bà và Sally sắp kỷ niệm mười tám năm sống bên nhau. Họ là một đôi chưa bao giờ tranh cãi.

Trong lúc xoa lưng Louis, Clarissa thầm nghĩ, Hãy mang em đi cùng anh. Em muốn một mối tình có kết cục bi đát. Em muốn những đường phố về đêm, gió và mưa, không ai bận tâm em đang ở đâu.

“Anh xin lỗi”, Louis nói.

“Không sao đâu. Vì Chúa, hãy nhìn tất cả những gì đã xảy ra.”

“Anh thấy mình đúng là một tên khốn.” Ông đứng dậy, bước tới khung cửa ra vào kiểu Pháp (bảy bước). Qua làn nước mắt, ông có thể thấy rêu bám trên những máng xối thấp bằng đá, chiếc chậu đồng thau đựng nước sạch, trên đó có một chiếc lông màu trắng duy nhất đang nổi bồng bềnh. Ông không thể nói được tại sao mình lại khóc. Ông đã trở lại New York. Dường như ông đang khóc vì khu vườn kỳ lạ này, vì bệnh tật của Richard (tại sao Louis lại được trừ ra?), vì căn phòng này có Clarissa, vì mọi thứ. Dường như ông đang khóc vì một Hunter chỉ đơn thuần có vẻ bề ngoài giống với con người thực. Anh chàng Hunter khác này có một vẻ lớn lao dữ dội và bi kịch, trí thông minh thực sự, cách nhìn nhận khiêm tốn. Louis khóc vì chàng trai ấy.

Clarissa đi theo. “Không sao đâu”, bà lặp lại.

“Ngu ngốc”, Louis lẩm bẩm. “Ngu ngốc.”

Tiếng chìa khóa xoay trong ổ vang lên ngoài cửa trước. “Julia đấy”, Clarissa nói.

“Khỉ thật.”

“Đừng lo. Nó từng thấy đàn ông khóc rồi.”

Đó là cô con gái trời đánh của bà ấy. Louis xốc thẳng hai vai lên, bước sang bên tránh khỏi cánh tay Clarissa. Ông tiếp tục nhìn xuống vườn, cố gắng đưa khuôn mặt mình vào vòng kiểm soát. Ông nghĩ về những đám rêu. Ông nghĩ về những đài phun nước. Đột nhiên ông thấy thực sự quan tâm tới rêu và đài phun nước.

Thật lạ làm sao, giọng nói thì thầm. Tại sao ông lại nghĩ về những thứ như thế?

“Xin chào”, Julia lên tiếng sau lưng ông. Không phải là “chào”. Cô bé vẫn luôn là một cô gái nhỏ nghiêm nghị, thông minh nhưng khác thường, quá khổ, đầy giễu cợt châm chọc.

“Chào, con yêu”, Clarissa nói. “Con còn nhớ bác Louis chứ?”

Louis quay lại đối mặt với cô gái. Được thôi, cứ để cô nàng thấy ông vừa khóc. Mẹ kiếp.

“Tất nhiên là con nhớ”, Julia nói. Cô bước về phía ông, chìa bàn tay ra.

Cô bé bây giờ chắc đã mười tám tuổi, mà cũng có thể mười chín. Cô gái ưa nhìn, lanh lợi đến không ngờ, khiến Louis thầm lo những giọt nước mắt sẽ lại tuôn ra. Lần cuối cùng ông gặp cô bé là khi cô chừng mười ba tuổi, với đôi vai thõng thượt, bối rối vì chính mình. Giờ đây cô bé vẫn không xinh đẹp, sẽ chẳng bao giờ xinh đẹp, nhưng đã có được một chút bóng dáng của người mẹ, chút phong thái cương quyết quý giá. Cô gái ưa nhìn, tự tin theo phong cách của một vận động viên trẻ, đầu cắt ngắn tới gần như cạo trọc, nước da hồng hào.

“Julia”, ông nói. “Thật vui được gặp cháu.”

Cô gái nắm chặt lấy bàn tay ông. Cô đeo một chiếc khuyên bạc mảnh mai trên mũi. Cô tràn đầy nhựa sống và mạnh mẽ, dư thừa sức khỏe, giống như một thôn nữ Ireland lý tưởng vừa từ ngoài cánh đồng quay về. Cô gái chắc phải thừa hưởng tất cả từ ông bố (Louis từng mơ màng viển vông về người đàn ông này, hình dung ra anh ta như một chàng trai trẻ tóc vàng vạm vỡ, rắn rỏi, có lẽ là một diễn viên hay họa sĩ, một người tình, một kẻ tội phạm, một anh chàng tuyệt vọng, tới mức phải đi bán dịch thể của chính mình, máu cho ngân hàng máu và tinh trùng cho ngân hàng tinh trùng). Anh ta hẳn phải cao lớn, Louis thầm nghĩ, vạm vỡ, giống như một nhân vật trong thần thoại của người Celt, vì ở đây, lúc này là Julia, cho dù trong chiếc áo ba lỗ, quần soóc và đôi ủng kiểu quân đội màu đen, vẫn trông có vẻ như cô đang ôm một bó lúa mạch dưới một cánh tay và một chú cừu mới sinh dưới cánh tay bên kia.

“Xin chào, bác Louis”, cô nói. Cô nắm lấy tay ông nhưng không lắc. Tất nhiên rồi, cô biết ông vừa khóc. Dường như cô không mấy ngạc nhiên. Vậy cô đã được nghe nói gì về ông rồi?

“Anh phải đi đây”, ông nói.

Bà gật đầu. “Anh sẽ ở lại đây bao lâu?” Bà hỏi.

“Chỉ vài ngày thôi. Nhưng anh sẽ quay lại. Rất vui được gặp em. Tạm biệt, Clarissa.”

“Năm giờ”, Clarissa nói.

“Gì cơ?”

“Bữa tiệc. Nó bắt đầu lúc năm giờ. Anh làm ơn đến nhé.”

“Tất nhiên anh sẽ đến.”

Julia lên tiếng, “Tạm biệt, bác Louis”.

Cô là một cô bé dễ mến mười chín tuổi nói xin chào và tạm biệt, chứ không phải “chào” và “biệt”. Cô có hai hàm răng nhỏ hiếm có và rất trắng.

“Tạm biệt.”

“Anh sẽ tới, đúng không nào?” Clarissa nói. “Hứa với em là anh sẽ tới.”

“Anh hứa. Tạm biệt.” Ông rời khỏi căn hộ, vẫn còn thoáng rưng rưng, bực bội với Clarissa, phải lòng Julia một cách mơ hồ, lố bịch (ông, một người chưa bao giờ bị phụ nữ thu hút, chưa bao giờ - ông vẫn còn rùng mình, sau bấy nhiêu năm, mỗi khi nhớ lại lần cố gắng tệ hại, vô vọng ông từng thử với Clarissa, chỉ đơn giản để níu giữ một chỗ bên Richard). Ông hình dung ra cảnh mình bỏ chạy, cùng Julia, khỏi căn hộ ghê sợ, trang nhã đó; đưa chính ông và cô gái rời xa khỏi những bức tường màu vải lanh với những hoa văn cây cỏ, khỏi Clarissa và những ly nước soda có bỏ vài lát chanh của bà. Ông bước theo lối đi sáng mờ mờ (hai mươi ba bước), qua cánh cửa dẫn tới tiền sảnh, rồi qua cánh cửa ngoài, ra đường West Tenth. Mặt trời hiện ra chói chang như một ngọn đèn chĩa thẳng vào mặt ông. Ông nhẹ nhõm hòa mình vào những con người của thế giới: một người đàn ông có bộ dạng như một con chồn sương đang dắt hai con chó đi dạo, một ông béo mồ hôi nhễ nhại mặc bộ đồ màu xanh sẫm, một phụ nữ đầu trọc lốc (mốt thời trang hay hóa trị liệu?) đang tựa người vào tòa nhà nơi Clarissa sống, nhai đầu một điếu thuốc lá, khuôn mặt có một vết bầm tím mới tinh. Louis sẽ quay lại đây, quay lại thành phố này; ông sẽ sống trong một căn hộ ở West Village, ngồi tại Dante với một tách espresso và một điếu thuốc lá vào các buổi chiều. Ông không già, vẫn chưa già. Tối hôm kia, ông đã dừng xe giữa sa mạc Arizona và đứng dưới các vì sao cho tới khi có thể cảm nhận thấy sự hiện diện của chính tâm hồn mình, hay bạn có thể gọi nó bằng bất cứ cái tên nào khác, cái phần vốn từng là một đứa trẻ và sau đó đã đứng - dường như chỉ một khoảnh khắc sau - giữa không gian im lìm của sa mạc dưới các chòm sao. Ông suy nghĩ về chính mình với sự trìu mến lơ đãng, về chàng trai trẻ Louis Waters, người đã trải qua thời tuổi trẻ cố gắng được sống cùng Richard, người từng có lúc tự mãn, có lúc phẫn nộ trước sự tôn thờ không biết mệt mỏi Richard dành cho đôi tay và cái đó của cậu ta và cũng là người cuối cùng đã rời khỏi Richard, mãi mãi, sau một cuộc cãi cọ tại nhà ga xe lửa ở Rome (có phải nguyên do cụ thể là lá thư Richard nhận được từ Clarissa, hay vì cảm giác hết hứng thú của Louis khi là thành viên được cưng chiều và cũng kém chói sáng nhất?). Anh chàng Louis đó, mới chỉ hai mươi tám tuổi nhưng hoàn toàn tin chắc vào độ tuổi đã quá già nua của mình cũng như những cơ hội đã bỏ lỡ, bèn quyết định rời bỏ Richard, nhảy lên một chuyến tàu tới Madrid. Dường như vào lúc đó, khi đoàn tàu chuyển bánh (người bán vé đã cho ông biết, đầy phẫn nộ, nơi ông đang đi tới) ông đã cảm thấy hài lòng một cách kỳ lạ. Ông đã được tự do. Giờ đây ông chẳng còn nhớ gì về những ngày lang thang không mục đích ở Madrid, ông thậm chí còn chẳng nhớ rõ về anh chàng người Ý (có thực tên anh ta là Franco không nhỉ?), người cuối cùng đã thuyết phục ông từ bỏ dự định yêu Richard để ngả sang những mối đam mê đơn giản hơn. Điều ông còn nhớ chính xác là ông ngồi trên một đoàn tàu hướng tới Madrid, cảm nhận thứ hạnh phúc mà ông hình dung tâm hồn có thể cảm nhận, hoàn toàn tự do tách khỏi thể xác trần tục, nhưng vẫn sở hữu những tính chất cốt lõi của bản thể. Ông bước đi theo hướng đông về phía trường đại học (bảy mươi bảy bước cho tới góc đường). Ông đứng đợi để qua đường.