Trong lúc lái chiếc Chevrolet dọc theo đường cao tốc Pasadena, giữa những quả đồi đôi chỗ vẫn còn trơ trụi sau trận cháy năm trước, cô cảm thấy như mình đang mơ, hay chính xác hơn, như thể cô đang nhớ đến một giấc mơ diễn ra cách đây đã khá lâu. Mọi thứ cô thấy đều có vẻ như được găm vào ngày hôm nay giống như những con bướm khô bị găm lên một tấm bảng. Giữa những sườn đồi màu đen lác đác vài ngôi nhà trát vữa, như được vẽ bằng phấn màu. Bầu trời mờ sương xanh trắng. Laura lái xe rất thành thạo, không quá chậm hay quá nhanh, đều đặn quan sát gương chiếu hậu. Ngồi trong một chiếc xe hơi mà cô lại mơ mình đang ngồi trong một chiếc xe hơi.
Cô gửi con trai ở nhà bà Latch cuối phố. Chuyến ra khỏi nhà lang thang được quyết định vào phút chót này có liên quan tới sinh nhật chồng cô.
Cô hoảng hốt - cô cho rằng “hoảng hốt” là từ thích hợp để mô tả tâm trạng đó. Cô cố gắng nằm xuống ngả lưng vài phút trong lúc con trai đang ngủ trưa, cô cố thử đọc một chút, nhưng không thể tập trung được. Cô nằm trên giường, hai bàn tay cầm cuốn sách, cảm thấy trống rỗng, kiệt sức vì đứa trẻ, chiếc bánh và nụ hôn. Theo cách nào đó, tất cả quy về ba yếu tố đó và trong khi nằm trên chiếc giường đôi, các mành cửa đã được kéo lại, đèn đầu giường bật sáng, cố đọc sách, cô thầm tự hỏi, liệu bị điên có phải là thế này không? Cô chưa bao giờ hình dung ra nó giống thế này - khi cô nghĩ tới một người (một phụ nữ giống như cô) bị mất trí, cô đã hình dung ra những tiếng la hét đinh tai, những tiếng khóc than, những ảo giác; nhưng vào khoảnh khắc đó, dường như rõ ràng có một cách khác, lặng lẽ hơn nhiều; một cách làm người ta chết lặng, vô vọng, nhạt nhẽo, nhiều đến mức một cảm xúc mạnh mẽ như nỗi buồn cũng là một sự nhẹ nhõm.
Vậy là cô ra khỏi nhà trong vài giờ. Cô đã không hành động một cách vô trách nhiệm. Cô đảm bảo chắc chắn rằng đứa trẻ có người để mắt đến. Cô đã nướng một chiếc bánh, bỏ các tảng thịt bò dùng để nướng ra cho rã đông, nhặt đậu. Sau khi đã làm xong tất cả những việc đó, cô cho phép mình ra ngoài. Cô sẽ có mặt ở nhà đúng giờ để nấu bữa tối và cho con chó của Kitty ăn. Nhưng lúc này, ngay lúc này, cô đang đi tới một nơi (nơi nào?) để được ở một mình, được giải thoát khỏi đứa con, khỏi ngôi nhà, khỏi bữa tiệc nhỏ cô sẽ tổ chức tối nay. Cô đã mang theo cuốn sổ tay của mình, cùng với cuốn Bà Dalloway. Cô đi tất dài, mặc một chiếc áo sơ mi và váy, đeo đôi hoa tai ưa thích của mình. Cô thoáng cảm thấy hài lòng một cách ngớ ngẩn trước ngoại hình của mình và sự sạch sẽ của chiếc xe. Một chiếc sọt rác nhỏ màu xanh sẫm, không có chút rác rưởi nào, ôm lấy trục xe đúng như một chiếc yên ôm khít lấy một con ngựa. Thật lố bịch, cô biết, nhưng dẫu vậy cô vẫn thấy được an ủi trong sự ngăn nắp không chê vào đâu được này. Cô sạch sẽ và ăn mặc đẹp, rồi lái xe đi.
Ở nhà, chiếc bánh sinh nhật mới chờ đợi dưới một chiếc hộp đựng bánh bằng nhôm có núm cầm bằng gỗ hình một quả sồi. Đó là một bước tiến bộ so với chiếc bánh đầu tiên. Chiếc bánh này đã được phủ kem hai lần, không có vụn nào dính trên kem (cô đã tham khảo cuốn sách dạy nấu ăn thứ hai và được biết những người thợ làm bánh nói tới lớp kem thứ nhất như là “lớp vụn” và một chiếc bánh nên được phủ kem lần thứ hai). Trên chiếc bánh này có dòng chữ “Chúc mừng sinh nhật Dan” bằng những chữ cái màu trắng duyên dáng, không bị các cụm hoa hồng màu vàng đè lên. Đó là một chiếc bánh đẹp, hoàn hảo theo cách riêng của nó, thế nhưng nó vẫn làm Laura thất vọng. Trông nó vẫn có vẻ nghiệp dư, nó vẫn có gì đó không ổn. Chữ “h” trong “Chúc” vẫn chưa đúng như cô hy vọng và hai trong số các bông hồng bị lệch.
Cô đưa tay lên chạm vào đôi môi, nơi cái hôn của Kitty từng lưu lại trong chốc lát. Cô không mấy bận tâm về cái hôn, về việc nó có và không có hàm ý gì, ngoại trừ việc nó động viên được Kitty ít nhiều. Tình yêu luôn sâu sắc - có ai muốn hiểu mọi khía cạnh cụ thể của nó? Laura khao khát Kitty. Cô khao khát sức mạnh, tâm trạng thất vọng bồng bột và vui vẻ của cô gái, thứ ánh sáng hồng, vàng không ngừng thay đổi sắc thái tỏa ra từ cái tôi bí mật của cô gái và mùi hương sinh động, đượm mùi dầu gội đầu của mái tóc. Laura cũng khao khát Dan, theo một cách đen tối và ít tế nhị hơn, một cách ít nhiều bị ám ảnh bởi sự tàn nhẫn và nỗi hổ thẹn. Nhưng dù gì đó vẫn là khao khát, sắc nhọn như một mẩu xương. Cô có thể hôn Kitty trong bếp và vẫn yêu chồng cô. Cô có thể mường tượng ra khoái cảm say mê từ đôi môi và những ngón tay của chồng mình (liệu có phải cô khao khát sự ham muốn của anh?) và vẫn mơ được hôn Kitty lần nữa vào một ngày nào đó, trong một căn bếp hay trên bãi biển trong lúc lũ trẻ hò hét lướt sóng, trong một lối đi trong lúc họ ôm trên tay những chồng khăn tắm được gấp lại, khẽ bật cười, khơi gợi, vô vọng, phải lòng chính sự liều lĩnh của bản thân nếu không phải lòng nhau, khẽ nói suỵt, tách rời khỏi nhau thật nhanh, tiếp tục bước đi.
Điều Laura hối tiếc, điều gần như cô không thể chịu đựng được, là chiếc bánh. Nó làm cô bối rối, nhưng cô lại không thể chối bỏ nó. Nó chỉ đơn giản là đường, bột và trứng - một phần hấp dẫn của chiếc bánh nằm ở sự không hoàn hảo không thể tránh khỏi của nó. Cô biết thế, tất nhiên cô biết. Dẫu vậy cô đã hy vọng tạo ra thứ gì đó tinh tế hơn, đáng chú ý hơn, so với kết quả đã tạo ra, bất chấp bề mặt nhẵn mịn và lời chúc được đặt chính xác vào giữa của nó. Cô muốn (cô thú nhận với chính mình) một chiếc bánh như trong mơ được thể hiện ra dưới hình hài một chiếc bánh thực sự; một chiếc bánh hàm chứa cảm nhận không thể chối bỏ được và sâu sắc về sự thoải mái, sự hào phóng. Cô muốn nướng được một chiếc bánh cho phép xua tan phiền muộn, dù chỉ trong thoáng chốc. Cô muốn tạo ra thứ gì đó tuyệt tác; thứ gì đó thực sự tuyệt tác, ngay cả với những người không yêu quý cô.
Cô đã thất bại. Cô ước gì mình không bận tâm về chuyện ấy. Có điều gì đó, cô thầm nghĩ, không ổn với cô.
Cô chuyển sang làn đường bên trái, nhấn chân ga. Vào lúc này, ngay lúc này, cô có thể là bất cứ ai, đi bất cứ đâu. Cô có một bình xăng đầy, tiền trong ví. Trong một giờ đồng hồ hay hai, cô có thể đi bất cứ đâu cô muốn. Sau đó, tiếng chuông báo động sẽ vang lên. Tới chừng năm giờ, bà Latch sẽ bắt đầu lo lắng và muộn nhất đến sáu giờ bà sẽ bắt đầu gọi điện thoại. Nếu về muộn đến thế, Laura sẽ phải có những lời giải thích, nhưng ngay lúc này và ít nhất trong hai giờ đồng hồ nữa, cô thực sự được tự do. Cô là một phụ nữ ngồi trên một chiếc xe, chỉ vậy thôi.
Khi lên tới đỉnh dốc ở Chavez Ravine và khu trung tâm thành phố ngoằn ngoèo lờ mờ hiện ra, cô phải đưa ra một lựa chọn. Trong nửa giờ vừa qua, chỉ cần hướng tới trung tâm Los Angeles một cách mơ hồ là đủ, nhưng giờ đây nó đã hiện ra - những tòa nhà cũ hơn với vóc dáng thấp bè vững chắc, bộ khung của những tòa nhà mới hơn, cao hơn đang vươn lên - tất cả ngập trong ánh nắng đều đặn trắng lóa ban ngày, dường như không phải tỏa ra từ trên trời xuống đất mà từ chính bầu không khí, như thể những phần tử vô hình trong không gian đang phát ra một thứ lân quang ổn định, hơi mờ như sương. Đây là thành phố và Laura phải đi vào nó, theo làn đường bên trái, hoặc chuyển qua làn bên phải và bỏ qua nó hoàn toàn. Nếu làm vậy, nếu cô chỉ đơn giản tiếp tục lái xe đi, cô sẽ tới khu vực rộng lớn, bằng phẳng trải dài những nhà máy và những khu chung cư thấp tầng bao quanh Los Angeles trong bán kính hàng trăm dặm theo mọi hướng. Sẽ không thể rẽ sang phải và cuối cùng tìm đường tới Beverly Hills hay tới bãi biển tại Santa Monica, nhưng cô không muốn mua sắm và cũng chẳng mang gì theo cho bãi biển. Có ít nơi để rẽ vào tới mức đáng ngạc nhiên trong khung cảnh bao la mù sương này và thứ cô cần - một nơi nào đó riêng tư, yên ả, nơi cô có thể đọc, có thể nghĩ - lại không hề sẵn có. Nếu cô tới một cửa hiệu hay nhà hàng, cô sẽ phải làm bộ - cô sẽ phải vờ cần hay muốn thứ gì đó mà cô chẳng hề quan tâm đến. Cô sẽ phải đi đứng theo đúng phép lịch sự, sẽ phải xem các món hàng, từ chối những lời đề nghị giúp đỡ, hoặc cô sẽ phải ngồi xuống một cái bàn, gọi thứ gì đó, thưởng thức nó, rồi đi. Nếu cô chỉ đơn thuần đỗ xe lại đâu đó rồi ngồi ở đó, một phụ nữ đơn độc, cô sẽ trở thành đích ngắm cho những tên tội phạm và những người sẽ tìm cách bảo vệ cô chống lại chúng. Cô sẽ bị phơi bày quá nhiều, trông cô sẽ quá lập dị.
Thậm chí một thư viện cũng là nơi quá đông người và công viên cũng thế.
Cô lái xe sang làn đường bên trái và lái vào thành phố. Dường như cô đã đi tới quyết định một cách rất tự nhiên, như thể cách này cũng rõ rệt như phố Figueroa, với những khung kính cửa hiệu và vỉa hè râm mát của nó. Cô sẽ thuê phòng trong một khách sạn. Cô sẽ nói (tất nhiên) rằng cô ở lại đó một đêm, rằng chồng cô sẽ sớm tới cùng cô. Chừng nào cô thanh toán tiền phòng, có gì sai nếu chỉ sử dụng nó trong hai giờ?
Dường như đó là một hành động hoang phí, bất cẩn tới mức làm cô choáng váng và hồi hộp như một cô bé con. Phải, sẽ thật lãng phí - một phòng khách sạn cho cả một đêm, trong khi tất cả những gì cô muốn là ngồi ở đó trong chừng hai giờ đồng hồ - nhưng lúc này tiền bạc cũng không đến nỗi ngặt nghèo và cô luôn chi tiêu cho gia đình tương đối tiết kiệm. Thực ra thì một phòng khách sạn có thể tốn bao nhiêu tiền nhỉ? Không nhiều đến mức ấy.
Mặc dù nên tới một chỗ rẻ tiền - một nhà nghỉ, ở đâu đó ngoài ngoại ô - nhưng cô không thể ép mình làm vậy. Như thế sẽ có vẻ quá lén lút, quá bẩn thỉu. Nhân viên tiếp tân thậm chí có thể coi cô là một ả gái điếm chuyên nghiệp, anh ta có thể đưa ra các câu hỏi. Những nhà nghỉ loại đó nằm ngoài vốn sống của cô, nhiều khả năng chúng có những luật ứng xử hoàn toàn xa lạ với cô, vậy là cô lái xe tới Normandy, một tòa nhà lớn màu trắng nằm cách đó vài khối nhà. Normandy là một tòa nhà đồ sộ, sạch sẽ, ấn tượng. Nó có hình chữ V - hai khối nhà mười tầng màu trắng thành đôi cánh bao lấy một khu vườn có đài phun nước. Nó có dáng vẻ sạch sẽ đáng tôn trọng, nó nhắm tới khách du lịch và thương gia, những người mà sự hiện diện tại đó thậm chí không tạo nên một chút bí hiểm dù thoáng qua nào. Laura dừng xe lại dưới một mái che mạ vàng trên đó có gắn tên khách sạn bằng những chữ cái cao, mảnh mai mạ vàng. Mặc dù đang giữa ban ngày, không gian phía dưới mái che có chút gì đó của ánh trăng ban đêm, một thứ ánh sáng trắng trong trẻo. Những cây lô hội trồng trong chậu ở hai bên cánh cửa kính đen dường như đang ngạc nhiên vì sự hiện diện của chúng ở đó.
Laura để chiếc xe lại cho người phục vụ, nhận vé xe, rồi bước qua những cánh cửa kính nặng nề. Gian tiền sảnh im lìm, lạnh lẽo. Một chiếc chuông ở ngoài xa rung lên, rõ ràng và chừng mực. Laura đồng thời cảm thấy vừa dễ chịu vừa mất bình tĩnh. Cô bước qua tấm thảm dày màu xanh tới quầy tiếp tân. Khách sạn này, gian tiền sảnh này, chính là thứ cô muốn - sự mát mẻ, sự vắng bóng mọi thứ mùi một cách hoàn toàn, những người khẩn trương đến và đi một cách vô cảm. Ngay lập tức, cô cảm thấy như mình là một con người của nơi này. Nơi này thật thoải mái, thật vô lo. Dẫu vậy, cùng lúc, cô ở đây trong những hoàn cảnh giả tạo hay, thậm chí còn tệ hơn, không thể giải thích được - cô tới đây, một cách lén lút, để chạy thoát khỏi một chiếc bánh. Cô định nói với nhân viên tiếp tân rằng chồng cô đã bị muộn vì lý do bất khả kháng và sẽ tới cùng hành lý của họ sau khoảng một giờ nữa. Cô chưa bao giờ nói dối như thế trước đây, chưa từng với một người cô không quen biết hay yêu thương.
Việc làm thủ tục tại quầy tiếp tân hóa ra lại dễ dàng một cách đáng ngạc nhiên. Nhân viên tiếp tân, một người đàn ông trạc tuổi cô, với giọng nói ngọt ngào và nước da cháy nắng, rõ ràng không ngờ vực gì mà thậm chí còn không buồn tính tới khả năng ngờ vực. Khi Laura hỏi, “Ông có phòng trống không?”. Anh ta chỉ đơn giản trả lời không chút do dự, “Vâng, chúng tôi có. Bà cần một phòng đơn hay phòng đôi?”.
“Một phòng đôi”, cô nói. “Cho chồng tôi và tôi. Anh ấy sắp đến, cùng với hành lý của chúng tôi.”
Người tiếp tân đưa mắt nhìn ra phía sau cô, tìm kiếm một người đàn ông đang vật lộn với những chiếc va li. Mặt Laura nóng bừng, nhưng cô không dao động.
“Thực ra, chồng tôi sẽ tới sau một hay hai giờ nữa. Anh ấy có việc phải làm, vậy nên chồng tôi bảo tôi tới đây trước. Để xem có phòng trống không.”
Cô áp tay xuống mặt quầy bằng đá hoa cương đen để trấn tĩnh lại. Dường như câu chuyện của cô hoàn toàn không hợp lý. Nếu cô và chồng cô đang di du lịch, tại sao họ lại có hai chiếc xe? Tại sao họ không gọi điện tới trước?
Tuy vậy, người tiếp tân chẳng biểu hiện chút do dự nào. “Tôi e là tôi chỉ còn phòng dưới các tầng thấp. Có được không ạ?”
“Vâng, tốt thôi. Chỉ một tối thôi mà.”
“Vậy là được. Để tôi xem nào. Phòng 19.”
Laura ký vào bản đăng ký bằng tên thật (một cái tên giả nghe có vẻ quá lạ lẫm, ám muội), trả tiền trước (“Có thể chúng tôi sẽ đi rất sớm vào buổi sáng, chúng tôi chắc sẽ rất vội, tốt hơn tôi nên giải quyết chuyện đó luôn”). Cô nhận chìa khóa.
Rời quầy tiếp tân, cô hầu như không thể tin mình đã làm được việc đó. Cô đã có chìa khóa, đi qua cửa vào. Các cánh cửa dẫn tới thang máy, ở phía cuối tiền sảnh, có những quả đấm bằng đồng, phía trên mỗi quả đấm là một hàng chữ số màu đỏ lấp lánh chạy ngang và để tới chỗ chúng, cô đi qua một loạt trường kỷ và ghế tựa trống không; những cây cọ tí hon trồng trong chậu chìm trong giấc ngủ mát mẻ; và phía sau lớp kính, hiệu thuốc và quán cà phê, nơi vài người ngồi đọc báo ở quầy, nơi một phụ nữ lớn tuổi mặc đồng phục phục vụ màu hồng nhạt và đội một bộ tóc giả màu đỏ dường như đang nói gì đó hài hước và một chiếc bánh trứng đường hương chanh to với dáng vẻ gần như châm biếm, bị khuyết đi hai lát, đang nằm trên một chiếc bệ dưới nắp đậy bằng nhựa trong suốt hình vòm.
Laura bấm nút gọi thang máy, rồi bấm nút chọn tầng của mình. Dưới một tấm gương gắn trên tường thang máy là bức ảnh món trứng Benedict28 mà người ta có thể yêu cầu tại khách sạn cho tới hai giờ chiều. Cô nhìn vào bức ảnh, nghĩ đến việc vừa quá muộn một chút để gọi món trứng Benedict. Cô đã bồn chồn trong một quãng thời gian quá dài và cho dù tâm trạng đó không tan biến đi song dường như bản chất của nó đã đột ngột thay đổi. Tâm trạng bồn chồn, cùng với cơn bực bội và cảm giác thất vọng về bản thân, cô đều nhận ra một cách rõ ràng, nhưng lúc này chúng đang ở một nơi khác. Quyết định vào thuê phòng trong khách sạn này, đi lên tầng trong chiếc thang máy này, dường như đã cứu thoát cô theo cách morphine cứu giúp một bệnh nhân ung thư, không phải bằng cách xóa bỏ căn nguyên của sự đau đớn mà chỉ đơn thuần làm cho cảm giác đau không còn hành hạ nữa. Gần như thể cô đã được một người chị em vô hình tháp tùng, một người phụ nữ trái tính trái nết đầy giận dữ và hay buộc tội, một người phụ nữ bị chính mình làm bẽ mặt và chính người phụ nữ này, người chị em không may mắn này, chứ không phải Laura, cần đến sự an ủi và tĩnh lặng. Laura có thể là một y tá, chăm sóc để làm dịu đi nỗi đau của một người khác.
28 Một món ăn gồm bánh nướng xốp trên có đặt thịt muối, trứng chần và xốt trắng.
Cô bước ra khỏi thang máy, bình thản bước theo lối đi, tra chìa khóa vào ổ khóa phòng 19.
Vậy ra đây là căn phòng của cô: một căn phòng màu ngọc lam, không đáng ngạc nhiên hay bất thường theo bất cứ cách nhìn nhận nào, với tấm ga trải màu lam trên chiếc giường đôi và một bức tranh (Paris, mùa xuân) trong khung gỗ màu vàng. Căn phòng toát lên mùi cồn và gỗ thông mềm, chất tẩy trắng, xà phòng thơm, tất cả lơ lửng một cách nặng nề trên một thứ mùi gì đó không phải là mùi ôi, cũng không phải là mùi thiu, nhưng là một thứ mùi không tươi mới. Đó là, cô thầm nghĩ, mùi của sự mệt mỏi. Đó là mùi của một nơi đã được dùng đi dùng lại nhiều lần.
Cô tới bên cửa sổ, gạt tấm rèm trắng mỏng ra, kéo cửa mành lên. Đằng kia, phía dưới, là khoảng sân hình chữ V, với đài phun nước, những bụi hồng đang nhú lên và những băng ghế đá trống trơn. Một lần nữa, Laura cảm thấy như thể cô đang bước vào một giấc mơ - trong đó cô nhìn xuống chính khu vườn này vào lúc quá hai giờ chiều một chút, vắng tanh không một bóng người. Cô rời khỏi cửa sổ, tháo giày ra, rồi cầm lấy cuốn Bà Dalloway từ trên chiếc bàn mặt kính và nằm xuống giường. Im lặng bao trùm khắp nơi, một thứ im lặng có chủ ý, hoàn toàn không tự nhiên, trùm lên trên những tiếng cót két, tiếng nước chảy òng ọc, tiếng bánh xe lăn trên mặt thảm.
Cô đang ở cách quá xa cuộc đời mình. Thật dễ dàng.
Dường như, bằng cách nào đó, cô đã rời khỏi thế giới của chính mình và bước vào thế giới trong sách. Tất nhiên, không thứ gì có thể xa London của bà Dalloway hơn căn phòng khách sạn màu lam này, dẫu vậy cô vẫn hình dung ra chính Virginia Woolf, người phụ nữ đã trầm mình xuống sông, người phụ nữ thiên tài, có thể khi chết đi sẽ cư ngụ tại một nơi không khác mấy so với nơi này. Cô lặng lẽ bật cười một mình. Lạy Chúa, xin Người, cô thầm nói, hãy để thiên đường là thứ gì đó tốt hơn một căn phòng ở khách sạn Normandy. Thiên đường hẳn sẽ được bài trí đẹp hơn, sáng sủa và rộng rãi hơn, nhưng trên thực tế nơi này cũng chứa đựng ít nhiều sự khác biệt, sự vắng vẻ hoàn toàn trong lòng thế giới đang cuộn chảy này. Có cả căn phòng này cho chính mình dường như với cô vừa có vẻ đứng đắn lại vừa phóng đãng. Ở đây cô được an toàn. Cô có thể làm bất cứ việc gì cô muốn, tất cả. Theo cách nào đó, cô giống như một cô dâu trong ngày cưới, nằm trong phòng ngủ của mình, chờ đợi... không phải chồng cô, hay bất kỳ người đàn ông nào khác. Chờ ai đó. Chờ một điều gì đó.
Cô với lấy cuốn sách. Cô đánh dấu chỗ đang đọc với một cái bookmark bằng bạc (“Tặng Mọt Sách, với tất cả tình yêu của anh dành cho em”) chồng cô tặng vào dịp sinh nhật mấy năm trước.
Với một cảm giác thư thái thật sâu và nhẹ nhàng, cô bắt đầu đọc.
Bà nhớ lại từng có lần ném một đồng sáu pence xuống hồ Serpentine29. Nhưng tất cả mọi người đều nhớ; điều bà thích là đây, ở ngay đây, lúc này, trước mặt bà. Bà tự hỏi mình, liệu đi bộ tới phố Bond có đáng để bận tâm không; liệu việc bà dứt khoát phải dừng lại có quan trọng hay không; tất cả chắc chắn sẽ tiếp tục mà không có bà; có thực bà bực bội vì điều đó; hay chẳng phải niềm tin rằng cái chết kết thúc hoàn toàn mọi thứ? Nhưng bằng cách nào đó trên đường phố London, trên dòng đời cuộn chảy, ở đây, ở kia, bà đã sống sót, Peter đã sống sót, bà là một phần của những cái cây ở nhà, bà chắc chắn là thế; của những ngôi nhà ở đằng kia, xấu xí, nhấp nhô lộn xộn; một phần của những con người bà chưa bao giờ gặp; được trải ra như một màn sương mù giữa những người bà biết rõ nhất, những người nâng bà lên trên như bà từng thấy những cái cây nâng màn sương mù lên, nhưng nó cứ trải ra xa mãi, cuộc đời bà, chính bản thân bà. Nhưng bà đang mơ về điều gì khi nhìn vào cửa sổ cửa hàng Hatchard? Bà đang cố hồi phục điều gì? Hình ảnh nào của bình mình trên đồng quê, trong lúc bà đọc cuốn sách:
29 Hồ nước ở công viên Hyde, London.
Đừng sợ hơi nóng của mặt trời,
Hay những cơn gió đông gào rít.
Có thể chết đi được lắm. Laura đột nhiên nghĩ về việc bằng cách nào cô - hay bất cứ ai - có thể lựa chọn như thế. Đây là một ý nghĩ bất cẩn, quay cuồng đến chóng mặt, có phần quái gở - nó tự mình lên tiếng trong đầu cô, thoáng qua thôi nhưng rất rõ ràng, giống như âm thanh phát ra từ một trạm phát thanh ở cách xa. Cô có thể chọn cái chết. Đó là một khái niệm trừu tượng, mờ ảo, không thực sự bi quan. Những căn phòng khách sạn là nơi người ta vẫn nảy ra những ý nghĩ như thế, phải không nào? Rất có thể - thậm chí nhiều khả năng - là ai đó đã kết thúc cuộc đời mình ở đây, trong căn phòng này, trên chiếc giường này. Ai đó đã nói, “Đủ rồi, không nghĩ thêm nữa”; ai đó đã nhìn lần cuối cùng lên những bức tường trắng, lên trần nhà trắng muốt nhẵn nhụi này. Bằng cách đi tới một khách sạn, cô nhận ra, người ta bỏ lại những điều cụ thể trong cuộc đời của chính mình và bước vào một vùng trung lập, một căn phòng trắng tinh sạch sẽ, nơi chết đi không có vẻ gì quá lạ lùng.
Điều đó, cô nghĩ, có thể rất dễ chịu; có thể làm người ta cảm thấy thật tự do: chỉ đơn giản là ra đi. Để nói với tất cả mọi người, tôi không thể làm được, mọi người không thể hiểu được đâu; tôi không muốn cố thử thêm nữa. Có thể, cô nghĩ, trong đó ẩn chứa một vẻ đẹp khủng khiếp, giống như một cánh đồng băng hay một sa mạc vào buổi sáng. Cô có thể ra đi như thế vào một khung cảnh mới, có thể để lại phía sau tất cả - con trai, chồng và Kitty, bố mẹ, tất cả mọi người - trong thế giới tan nát này (nó sẽ không bao giờ toàn vẹn lại được nữa, sẽ không bao giờ trở nên thanh khiết), nói chuyện với nhau và với bất cứ ai hỏi, “Chúng tôi nghĩ cô ấy ổn cả, chúng tôi nghĩ những buồn phiền của cô ấy cũng chỉ là những nỗi buồn thông thường. Chúng tôi không hề biết”.
Cô xoa lên bụng mình. Tôi sẽ không bao giờ. Cô nói to thành tiếng những từ đó trong căn phòng sạch sẽ, vắng lặng: “Tôi sẽ không bao giờ.” Cô yêu cuộc sống, yêu đến vô vọng, ít nhất trong một vài khoảnh khắc và cô sẽ giết cả con trai mình nữa. Cô sẽ giết chết cả con trai cô, chồng cô và đứa con thứ hai, vẫn còn đang hình thành trong bụng. Làm sao bất kỳ ai trong họ có thể hồi phục được sau một việc như thế? Không gì cô có thể làm với tư cách một người vợ và người mẹ khi còn sống, không sai sót, không cơn giận dữ hay trầm uất nào có thể so sánh với nó. Điều đó, một cách đơn giản, thật tàn ác. Nó sẽ khoan thủng một lỗ trong khí quyển, mọi thứ cô đã gây dựng nên - những ngày gọn gàng, những khung cửa sổ sáng ánh đèn, bàn ăn được bày sẵn sàng cho bữa tối - sẽ bị cuốn đi.
Dẫu vậy, cô vẫn thấy mừng (vì không rõ bằng cách nào, đột nhiên cô biết) rằng có thể chấm dứt cuộc sống. Cô có cảm giác nhẹ nhõm được đứng trước toàn bộ các khả năng; trong việc cân nhắc tất cả những lựa chọn của mình, một cách không sợ hãi và không lừa gạt. Cô hình dung ra Virginia Woolf, trong trắng, mất cân bằng, bị đánh gục trước những đòi hỏi quá sức của cuộc sống và nghệ thuật; cô hình dung ra bà bước xuống một dòng sông với một tảng đá trong túi áo. Laura tiếp tục xoa bụng. Điều đó có thể chỉ đơn giản, cô thầm nghĩ, như vào thuê phòng trong một khách sạn. Có thể chỉ đơn giản như thế.