P
hía Đông thành Lạc Dương.
Tửu lâu lớn nhất thành đã hoạt động trở lại, tửu khách ra vào tuy không còn đông như mắc cửi, nhưng cũng kín quá nửa tầng dưới.
“Lầu Nam Phong.” Cảnh Tiểu Thiên ngẩng đầu ngắm nghía hồi lâu mới quay lại hỏi Tạ Trường Khanh: “Cái tên này có điển cố gì sao?”. Lúc cậu nói lời này thì mặt đầy ngả ngớn, Tạ Trường Khanh lại như không nhận ra, chỉ ngơ ngẩn đứng lặng hồi lâu.
Câu hỏi vô tình của Cảnh Tiểu Thiên vừa rồi khiến y nhớ tới “Thất Ai Thi” của tài tử Tào Thực--1-- thời Kiến An: “Nguyện vi Tây Nam Phong...”.
--1-- Tào Thực, tự Tử Kiến, là con trai thứ ba của Tào Tháo. Ông là một nhà thơ nổi bật trong văn đàn thời Kiến An, Trung Quốc.
“Nguyện vi Tây Nam Phong, sau đó là gì?” Cảnh Tiểu Thiên hiếu kỳ hỏi.
Thấy Cảnh Tiểu Thiên giục mãi, Tạ Trường Khanh đành mỉm cười đáp: “Không có gì, ta quên rồi. Hai chữ Nam Phong đúng là có điển cố, trong Lễ Ký có câu ‘đàn năm dây vua Thuấn, tấu lên khúc Nam Phong’, giống như câu ca dân ta vẫn hát, gió Nam mát mẻ vậy thay, giải tan sầu muộn bao ngày của dân, gió Nam thổi đúng lúc cần, sẽ mang phú quý cho dân lâu dài”.
Hai người vừa nói chuyện phiếm vừa lên lầu, chọn lấy một vị trí trang nhã yên tĩnh mà ngồi xuống, Cảnh Tiểu Thiên kêu chủ quán rượu tới, chỉ gọi mấy món rau dưa cùng hai vò Trúc Diệp Thanh.
“Chủ quán, mang ra đây vài món ăn, ngon một chút, ta muốn nếm thử món ăn sở trường của quý tiệm.” Tạ Trường Khanh gọi món, Cảnh Tiểu Thiên thấy Tạ Trường Khanh đi lên cùng mình, dặn dò chủ quán hồi lâu, lòng thầm cảm thấy ấm áp, tựa như được ăn ô mai ướp lạnh giữa ngày hè oi bức, cả người trào dâng cảm giác thích thú vô tận.
Khách trong tiệm không nhiều lắm, rượu và đồ ăn nhanh chóng được mang lên.
Cảnh Tiểu Thiên biết Tạ Trường Khanh không thích ăn mặn, bèn chủ động cầm đũa nhặt xương cá đi, rồi cẩn thận gắp thịt cá thơm phức vào bát y: “Đừng có cau mày nữa, không hù được ta đâu. Đạo gia đâu phải tuyệt đối kỵ tanh, chẳng qua huynh không chịu ăn cho thoải mái mà thôi. Phật gia có câu, rượu thịt đi qua ruột, Phật Tổ ở trong lòng. Ngày nào huynh cũng ăn rau xanh đậu phụ, thì đến bao giờ mới bình phục được chứ...”.
Tạ Trường Khanh chỉ cười, múc một bát canh, đẩy tới mép bàn kia: “Ăn đi, không phải vừa rồi còn kêu đói sao, bây giờ còn không mau động đũa”.
Cảnh Tiểu Thiên hất vạt áo nhảy lên lan can, dựa người vào song cửa chạm trổ hoa văn, bắt đầu uống một chung Trúc Diệp Thanh. Lúc này mưa phùn đã dứt, ánh hoàng hôn như máu đổ lên gương mặt anh tuấn của cậu, ngay cả mấy sợi lông tơ bên thái dương cũng có thể nhìn thấy rõ ràng.
Tạ Trường Khanh mỉm cười đứng bên lan can, tuy không nói một lời nhưng vẫn lặng lẽ ở bên cạnh cậu.
Cảnh tượng này có bao nhiêu ngọt ngào, tốt đẹp.
Bầu trời cao rộng, sắc cỏ xanh tươi, Cảnh Tiểu Thiên tự rót tự uống, cực kỳ thư thái. Thật ra, đối với cậu mà nói, Tạ Trường Khanh vốn không cần làm gì, chỉ cần giống như hôm nay lẳng lặng bầu bạn bên cạnh cậu, đi qua những tháng năm còn lại, như vậy đã đủ rồi.
“Huynh uống rượu một mình không chán sao?” “Đương nhiên không chán, có huynh ở bên ta mà.” “Vậy sao?” Tạ Trường Khanh chủ động rót cho cậu nửa chén, rồi cầm chiếc chén sứ trắng trong tay Cảnh Tiểu Thiên lên nhấp mấy ngụm, cảm thán: “Quả nhiên là rượu ngon lâu năm”.
Bây giờ đến phiên Cảnh Tiểu Thiên giật mình nhìn y: “Uống được thật sao? Lần trước tại Địch Trần sơn trang ta tưởng rằng huynh chỉ nhất thời kích động mới uống rượu giải sầu. Huynh học uống rượu khi nào vậy?”.
“Rất lâu trước đây, ta cùng Thường Sâm lần đầu xuống núi. Khi ấy Thường Sâm còn nhỏ, uống rượu đến nghiện luôn, ta khuyên thế nào cũng không nghe. Vì vậy ta và đệ ấy đánh cược, nếu như ta có thể thắng được tửu lượng của đệ ấy, thì cả đời này Thường Sâm sẽ không đụng đến giọt rượu nào nữa. Kết quả...”
“Kết quả huynh thắng?”
Tạ Trường Khanh mặt mày thư thái, mỉm cười nói: “Có lẽ tửu lượng là thứ trời sinh. Nhắc lại cũng thấy kỳ lạ, ta tu luyện thuật Ngũ Hành, đặc biệt tiếp thu rất nhanh những thứ liên quan đến nước. Ta nhớ khi luyện ‘Thiên Nhất Sinh Thủy’, đồng môn Thục Sơn phải khổ sở luyện suốt một năm, ta lại chỉ cần…”.
“Cái đó là đương nhiên rồi, huynh vốn là…”
Tạ Trường Khanh thấy cậu đột nhiên líu lưỡi không nói, lòng thấy khó hiểu, bèn hỏi: “Ta làm sao?”.
“Không có gì, huynh vốn là đại sư huynh của Thục Sơn, tửu lượng khá hơn Thường Sâm cũng là phải rồi… hở, Lý Thuần Phong!”
Chỉ thấy trên thang lầu, một nam tử áo gấm vẻ mặt thảnh thơi chậm rãi đi lên, chắp tay nói: “Hai vị, đã lâu không gặp, quấy rối nhã hứng hai vị rồi”.
“Lá gan của ngươi cũng lớn thật, hiện tại cả thành đều đang lùng bắt ngươi, thế mà ban ngày ban mặt ngươi còn dám bén mảng đến nơi đông đúc thế này?”
“Đâu có đâu có! Ta đâu thể sánh với Cảnh đại hiệp luận đạo trong trướng, đàm tình dưới trăng, rút kiếm sa trường, trộm hương trên nóc, dũng khí đoạt lấy cả giang sơn lẫn mỹ nhân này, Lý Thuần Phong tự vấn còn thua xa.”
Cảnh Tiểu Thiên nghe vậy, mặt hơi biến sắc, nhất thời bực dọc không nói được gì nữa.
Trái lại, Tạ Trường Khanh vẫn bình thản như không, chủ động đứng dậy chào hỏi: “Nghe nói Lý đạo hữu đã từng ra tay tương trợ trong lúc hai người chúng ta gặp nguy nan, Trường Khanh chân thành cảm tạ”.
Lý Thuần Phong bật cười, gấp lại chiếc quạt: “Ngày ấy ta ném thuốc giải xuống, lại bị Hạ Vương nghi ngờ giám sát chỗ ở, không thể lập tức báo cho các sư đệ đến cứu huynh. Đến khi tình hình chỗ ta ổn thỏa, tìm đến báo tin, thì các sư đệ của huynh đã ra khỏi quân doanh rồi. Cho nên, mấy chữ ‘xuất thủ tương trợ’ này thật sự hổ thẹn không dám nhận. Huống chi, nguyên nhân ta ra tay, cũng là vì chính bản thân ta thôi, huynh không cần cảm động”.
Cảnh Tiểu Thiên nghe vậy, nhất thời sinh cảnh giác: “Ngươi có ý gì?”.
Lý Thuần Phong cũng chẳng ngại ngần gì, nhìn Tạ Trường Khanh thẳng thắn nói: “Ngày đó sau khi đấu tên cùng huynh tại sơn cốc, lòng ta đã luôn muốn gặp lại huynh, cùng so đạo pháp quyết phân cao thấp. Có điều giờ xem ra đã không còn cần thiết nữa rồi”.
“Vì sao?”
Lý Thuần Phong thở dài, thản nhiên ngồi xuống, tự cầm vò rượu lên rót một chén: “Cuộc đọ sức của chúng ta là màn tranh đấu hồng trần, hà tất câu nệ khai đàn đấu pháp. Ta và huynh mỗi người hiến kế cho một chủ, ta vì Hạ Vương, huynh vì Tần Vương. Trận chiến tại Hổ Lao quan, thắng thua đã định, ta đã thua hoàn toàn, tâm phục khẩu phục rồi. Có lẽ, Lý Thuần Phong vẫn chưa đủ tu vi. Cái đó gọi là ‘thành công, không phải tự dưng mà có; thất bại, không phải vô cứ ập về’--1--, năng lực nhận định thời thế của Lý Thuần Phong còn kém huynh nhiều lắm”.
--1-- Trích trong cuốn “Bàn về Quản Trọng” của Tô Tuân đời Tống, nghĩa là bất cứ thành công hay thất bại nào cũng không phải tự dưng mà có, mà đều là kết quả của một khởi nguồn sâu xa và quá trình phát triển, cho nên con người làm việc gì cũng cần suy nghĩ thận trọng, tính toán trước sau mới không hỏng việc.
Nói rồi, hắn gõ bàn thở dài: “Trước đây ta luôn tự phụ trên thông thiên văn dưới tường địa lý, mưu xa hơn Phạm Lãi, quyết sách tựa Trần Bình, than ôi…”. Hắn tự cười giễu, nâng chén một hơi uống cạn.
“Ta nghe nói một đêm trước trận Hổ Lao quan, huynh đã treo ấn bỏ đi, có thể thấy được huynh đã nhìn thấu nguyên nhân và điềm báo tất bại của Hạ Vương rồi, vì vậy mà muốn thoát ly nơi đó, phiêu dạt giang hồ.”
“Phải, từ khi cùng huynh đối đáp trong doanh trại quân Đường, ta trở về đã ngẫm kỹ lại, mặc dù Hạ Vương là một trang kiêu hùng, nhưng cũng không phải loại người có thể gánh được việc lớn. Kẻ trên thế nào thì người dưới như vậy, những kẻ Đậu Kiến Đức kết giao đa phần đều là hạng xảo trá ngoan độc, sau lại cấu kết với Tà Vương mưu đồ làm bậy, vì ham muốn của bản thân mà cướp đi bao mạng người, dùng linh hồn và oán khí của người sống để tu luyện pháp thuật cương thi. Hành vi diệt tuyệt nhân gian đó, Thuần Phong không thèm hùa với chúng.”
Tạ Trường Khanh nghe vậy thì giật mình, gấp gáp hỏi: “Lý huynh có biết Tà Vương kia là yêu nghiệt phương nào không?”.
“Người này vô cùng thần bí, tựa hồ đã ở ngoài lục đạo luân hồi, không phải người, không phải yêu, không phải tiên, không phải ma, không có thực thể cũng không có linh hồn, chỉ là một làn hư khí, nhưng công lực lại rất cao, từ từ tu luyện thành hình, sau này huynh gặp hắn nhất định phải cẩn thận. Đúng rồi, thủ hạ của hắn có một yêu nữ Ma giới, hình như tên là Mị Cơ, sáo Sưu Hồn trong tay ả có thể câu hồn đoạt phách hết sức lợi hại, huynh phải cẩn thận đối phó đấy.”
“Đa tạ nhắc nhở.”
“Tạ huynh, mời!” Lý Thuần Phong tự rót thêm chén rượu, nâng chén tỏ ý mời rượu Tạ Trường Khanh.
“Mời!” Tạ Trường Khanh cũng nâng chén đáp lại.
Cảnh Tiểu Thiên đưa tay ra chặn, không chút khách khí cự tuyệt: “Dừng ngay, y không thể uống rượu”.
Thấy Cảnh Tiểu Thiên đầy khí thế chở che, Tạ Trường Khanh không khỏi xấu hổ.
Lý Thuần Phong bật cười, nghiêng đầu liếc nhìn Cảnh Tiểu Thiên: “Không sao, thỉnh quân tùy ý, ta tự khuynh bôi”, uống xong sắc mặt lại thản nhiên như cũ.
“Tạ huynh, hôm nay Thục Sơn đã giúp đỡ Lý Đường đoạt được giang sơn vạn dặm, huynh có từng nghĩ tới, nếu như hậu duệ Lý gia trở thành hôn quân bạo chúa như triều Tùy, Thục Sơn sẽ phải làm sao không?”
Tạ Trường Khanh không hề đắn đo đáp: “Trời sinh ra dân, chẳng phải vì vua; mà trời lập ra vua, ấy là vì dân, trời nuôi dưỡng dân, không vì quân chủ, nhưng trời lập ra quân chủ, là muốn giao cho người đó nhiệm vụ tạo phúc thương sinh. Nếu con cháu Lý Đường bạo ngược bất nhân, tự sẽ có trời đất trừng phạt, chuốc lấy diệt vong, ta và huynh cớ gì phải ưu sầu lo lắng?”.
“Nói cũng phải, ta nghĩ quá nhiều rồi. Nếu vận số giang sơn Lý Đường đã hết, tất sẽ có kỳ nhân xuất thế, hủy đi cơ nghiệp này.” Lý Thuần Phong mỉm cười: “Nghe nói một mình đạo trưởng chiêu hàng Vương Thế Sung, công lao vô tận, cụ thể thế nào?”.
“Đâu có, sức một người há chống được ngàn cân, kẻ trí đấu không lại người có sức. Một mình Tạ Trường Khanh ta có đáng là gì, bậc ngọa hổ tàng lòng trong quân Đường nhiều không kể xiết, cơ nghiệp Đại Đường ngày càng vững chắc, Lý huynh đã có tâm thi triển tài học tạo dựng cơ nghiệp, sao không đến góp sức cho triều đình? Huynh yên tâm, Tần Vương lòng dạ mênh mông, nhìn xa trông rộng, tuyệt đối không phải loại người báo thù cá nhân.”
“Ta biết, có lẽ ngày sau có duyên phận, ta lại thực sự cống hiến cho giang sơn Lý Đường cũng không chừng.”
Hai người đối ẩm mấy chung, Lý Thuần Phong cười nói vui vẻ lấy chiếc quạt chưa từng rời khỏi người ra, thành khẩn nói: “Trên người Thuần Phong không có vật dư thừa, chỉ có một cây quạt này thôi, xin tặng Tạ huynh biểu thị tấm lòng, mong huynh đừng từ chối”. Tạ Trường Khanh thấy hắn thành khẩn như vậy, nếu như không nhận, không khỏi quá xa cách, đành nhận lấy cây quạt rồi nói lời cảm ơn.
Lý Thuần Phong vô cùng vui mừng: “Gia sư mấy đêm liền truyền tin cho sư huynh đệ ta, nói rằng trong nhà Võ Sỹ Hoạch--1-- ở quận Văn Thủy đất Tịnh Châu đã tìm được người có cửu tự mệnh, tên là Võ Mỵ Nương, lệnh cho ta cấp tốc đến đó hội hợp. Ta còn có việc trên người, cần lập tức gặp mặt sư huynh. Mặc dù sư huynh ta có tài đoán chữ hiếm thấy trên đời, nhưng lại rất mê rượu, dễ làm hỏng việc, ta cần nhanh chóng tìm ra huynh ấy mới yên tâm. Thuần Phong xin cáo từ tại đây”.
--1-- Cha của Võ Tắc Thiên – người phụ nữ khuynh đảo giang sơn Đại Đường và là nữ hoàng đế duy nhất trong lịch sử Trung Hoa.
“Bảo trọng.”
Lý Thuần Phong vốn đã đứng dậy, lúc này đột nhiên cúi người xuống, đè thấp giọng nói vào tai Tạ Trường Khanh: “Hôm nay có bình dấm chua ở đây, cho nên uống rượu cũng không được thoải mái, sau này nếu còn duyên gặp riêng, Lý Thuần Phong nhất định sẽ cùng Tạ huynh uống đến say. Ngày sau gặp lại”.
“Ngày sau gặp lại.”
Nhìn thấy Lý Thuần Phong tay áo tung bay, chớp mắt đã đi xuống lầu. Cảnh Tiểu Thiên đang gục mặt xuống bàn mới mơ màng ngẩng đầu lên, dụi mắt hỏi: “Nói xong rồi? Người đi rồi?”.
“Ừm, sư môn huynh ấy có chuyện.”
Cảnh Tiểu Thiên ngó vật trong tay Tạ Trường Khanh, thầm sinh cảnh giác: “Đây là thứ gì? Ái chà... thằng ranh này dám thừa dịp ta ngủ say, lén lút tặng tín vật. Không được, không được, vô sự lại xun xoe, không phải kẻ gian cũng là phường trộm cắp”.
Tạ Trường Khanh nghe vậy, giật mình nói: “Ý huynh là sao? Ta thấy Lý huynh nhiệt tình vì nghĩa, lòng dạ vô tư, tuyệt đối không phải hạng trộm cướp gian tà đâu”.
“Biết người biết mặt khó biết lòng, Tạ Tiểu Ngốc, huynh ở Thục Sơn lâu như vậy, không biết trên này có một số loại người còn thối nát hơn cả yêu ma. Không được, cây quạt này cho ta mượn dùng…”
“Huynh rất nóng à?”
“Đương nhiên, huynh xem hắn bị Tần Vương quét sạch hang ổ, thế mà vẫn dám chạy lung tung tới đây tìm huynh chào từ biệt. Mà chào từ biệt không đủ, lại còn liếc mắt đưa tình, tình ý triền miên. Ta mới chợp mắt một lúc, đã có tình địch thừa cơ nhảy vào, không nóng làm sao được. Nóng, cực kỳ nóng, trong lòng bốc cháy rồi… Tạ Tiểu Ngốc, nghe lời ta, ngoan ngoãn lại đây, ta giúp huynh quạt gió hạ nhiệt.”
Người ngoài không hiểu chuyện mà nghe thấy, nhất định sẽ trợn mắt há mồm khâm phục trình độ ăn dấm chua của Cảnh Tiểu Thiên, mà tình lữ bình thường gặp phải những chuyện này, chỉ sợ đã làm ầm một trận, cãi nhau long trời lở đất rồi.
Chỉ riêng Tạ Trường Khanh nghe vậy lại không hề coi đó là gây sự. Bởi vì với kiểu vô cớ ăn dấm chua, tự dưng sinh sự của Cảnh Tiểu Thiên, y đã bỏ ngoài tai, áp dụng phương pháp “kiến quái bất quái kỳ quái tự bại”--1--. Ngôn từ trêu chọc thật thật giả giả của Cảnh Tiểu Thiên, ngày thường nghe mãi thành quen, nếu lúc nào cũng muốn so đo thì khác nào tự tìm phiền não.
--1-- Thấy việc lạ mà không xem là lạ thì sự lạ sẽ không còn lạ nữa.
“Cảm tạ, xuân hàn se lạnh, Trường Khanh không nóng.”
Cảnh Tiểu Thiên giật lấy vò Trúc Diệp Thanh trong tay Tạ Trường Khanh, hớp một hơi, luôn tay quạt: “Lý Thuần Phong này mồm miệng văn vẻ, lời thánh nhân nói trơn như mỡ. Tạ Tiểu Ngốc, huynh mà ở cạnh hắn thì sẽ biến thành đậu phụ thiu thôi, toàn nói những thứ người ta không hiểu”.
“Được, sau này, ta sẽ chọn những thứ huynh hiểu mà nói.” Tạ Trường Khanh rất biết lắng nghe, nhận lời vô cùng thẳng thắn.
Cảnh Tiểu Thiên nhìn chằm chằm Tạ Trường Khanh hồi lâu, mí mắt giật liên hồi, thần sắc bi phẫn: “Huynh nói chuyện đừng thật thà quá như vậy chứ? Trên đời này vẫn còn có thứ gọi là lời nói dối thiện ý đó!”.
“Cảnh huynh đệ, lời ấy sai rồi, cổ nhân có câu, biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, đó cũng chính là biết; khiêm tốn học hỏi, nói năng thận trọng, như vậy chính là ưu tú; phải quan sát nhiều, làm những việc chắc chắn, như vậy ít hối hận; nói năng ít sai, làm ít hối hận thì bổng lộc nằm trong ấy rồi.”
Cảnh Tiểu Thiên thấy tên ngốc này lại bắt đầu giảng giải lễ giáo kinh văn, đầu ong cả lên, lập tức đưa ra một chung trà nóng: “Chít chít, chít chít, huynh đâu phải con chuột, uống trà của huynh đi nào”.
Đúng lúc này, ngoài cửa truyền đến một tiếng động rất nhỏ. Tạ Trường Khanh nín thở lắng nghe, chỉ thấy vang lên ba tiếng đàn, tựa như nước nhỏ xuống suối băng vô cùng thương cảm.
--1-- Trích “Luận Ngữ” của Khổng Tử.
Rèm cửa bị một cậu bé nhấc lên, một nữ tử mặc áo xanh đầu buộc khăn xanh ôm tỳ bà khom người hành lễ: “Khách quan, có muốn nghe tiện thiếp gảy vài khúc đàn, tăng thêm tửu hứng hay không?”.
Cảnh Tiểu Thiên lười nhác dựa vào lan can, trước mắt lương thần mỹ cảnh khó có được, sao có thể chấp nhận một người không liên quan rình rập bên cạnh gảy đàn, bèn phất tay từ chối: “Không cần, đây là phần thưởng của ngươi, ra ngoài đi!”.
Vài tiếng keng nhỏ vang lên, mấy đồng tiền bay khỏi tay Cảnh Tiểu Thiên rơi lăn lóc trên đất. Điều kỳ lạ là, mặc dù Cảnh Tiểu Thiên dựa ở lan can, nhưng mới vừa rồi ném ra mười mấy đồng tiền đều vô cùng khéo léo, nhắm ngay chiếc khay trên tay đứa bé, sao có thể rơi xuống đất được?
Tiểu đồng bưng chiếc khay chỉ tầm bảy, tám tuổi, mắt mở trừng trừng nhìn Cảnh Tiểu Thiên không nói một tiếng.
Tạ Trường Khanh chủ động nhặt mấy đồng tiền rơi trên mặt đất lên, đặt vào tay đứa bé, lại ngẩng đầu nhìn nữ tử ôm tỳ bà, nhẹ nhàng nói: “Bằng hữu ta tâm tình không tốt, mong các vị đừng để ý. Đã lâu rồi ta không được nghe tiếng tỳ bà, nếu đại tẩu không ngại xin xướng lên mấy khúc, Tạ Trường Khanh kính cẩn lắng nghe”.
Đứa trẻ giờ đã hơi nguôi giận, vội kéo một chiếc ghế dìu mẫu thân mình ngồi xuống, nữ tử áo xanh bắt đầu tra đàn thử âm.
Cảnh Tiểu Thiên bị ba người phớt lờ, thầm nhủ: “Ta có lòng tốt đối đãi hai mẹ con mi, cái thằng nhãi hát rong không biết suy nghĩ, tính tình nóng nảy như vậy, hừ, Tạ Tiểu Ngốc đối xử với người ngoài quá lương thiện”.
Tiếng tỳ bà bắt đầu nổi lên, cậu nhịn không được chọc Tạ Trường Khanh một cái: “Này, Tạ Tiểu Ngốc, thời gian của chúng ta vô cùng quý giá, đưa mấy lượng bạc rồi bảo họ đi đi”.
“Đừng lên tiếng.” Tạ Trường Khanh thì thầm: “Huynh muốn học Kiềm Ngao thời Xuân Thu sao?”.
“Kiềm Ngao? Kiềm Ngao là ai vậy?” Cảnh Tiểu Thiên hiếu kỳ.
Tuy cậu đè giọng rất nhỏ, nhưng vẫn bị đứa bé kia nghe được, nó ngẩng đầu lớn tiếng nói: “Thời Xuân Thu, nước Tề mất mùa, có một vị tài chủ tên là Kiềm Ngao lòng dạ rộng rãi đã nấu cháo bố thí cho dân đói. Khi đó có một người đàn ông đói bụng đi qua, Kiềm Ngao bèn khua cái muôi gõ vào mép nồi, gọi người kia hết sức suồng sã, này, tiểu tử, mau tới đây ăn đi. Ai ngờ, người đàn ông đó nói, ta bởi vì không muốn ‘ăn đồ bố thí’, cho nên mới rơi vào tình cảnh này…”.
“Sau đó, Kiềm Ngao đã xin lỗi hắn, nhưng người này vẫn nhất quyết không ăn, cuối cùng chết đói ở đầu đường.” Tạ Trường Khanh giải thích thêm.
Thật ra, thành ngữ này chính là để hình dung người có khí tiết, có tự tôn, cũng là điển cố “người có liêm sỉ không ăn của bố thí”. Từ xưa đến nay, trên đời vẫn không thiếu người có khí tiết như người đàn ông đói rách thời Xuân Thu kia, tuyệt đối không chấp nhận của bố thí nhục nhã.
Cảnh Tiểu Thiên nghe xong lời Tạ Trường Khanh giải thích, không nhịn được bật cười: “Tạ Tiểu Ngốc, người đàn ông này cũng thật kỳ quặc, có đồ ăn còn bày đặt không ăn, cuối cùng đói chết, chẳng phải cổ hủ quá sao? Nhận lấy bố thí của người khác thì thế nào, tính mạng chẳng còn thì giữ lấy mặt mũi với khí tiết cho ai xem”.
Đứa bé gân cổ cãi lại: “Chí sĩ không uống nước đạo tuyền, người liêm sỉ không ăn của bố thí. Ta và mẫu thân có thể đàn hát nuôi sống chính mình, đâu có phải ăn xin, không cần ngươi bố thí”.
“Tính mạng chỉ có một, thể diện thì còn có thể tìm về. Đúng hay không, Tạ Tiểu Ngốc?” Cảnh Tiểu Thiên cãi lại: “Chuyện gì cũng có nặng nhẹ, cần gì noi theo mấy thứ đạo nghĩa cổ hủ, đi tong cái mạng của mình”.
Tạ Trường Khanh vốn định nói “có nặng có nhẹ” cũng phải tùy chuyện. Chết thì có gì đáng sợ? Người sống trên đời, lấy chí khí để lập thân. Nếu vì tạm thời bấu víu tính mạng mà làm nhục tôn nghiêm, thà rằng ngọc nát còn hơn giữ ngói lành.
Trong lòng y không thoải mái, nghe hai người kia tranh cãi cũng chỉ biết im lặng, nói: “Nghe đàn đi!”.
Người đàn bà kia đã gảy xong ba khúc, ôm tỳ bà khom người hành lễ: “Đa tạ phần thưởng của hai vị đại gia, tiện thiếp cáo từ”.
Tạ Trường Khanh thấy chiếc đàn tỳ bà cứng cáp đen bóng không giống vật tầm thường, bèn hỏi: “Tỳ bà này của đại tẩu khá nặng, mang theo không tiện cho lắm, vì sao không đổi chiếc khác?”.
Nữ tử áo xanh đó cúi đầu đáp: “Tỳ bà này do phu quân trước khi thất lạc đã tự tay làm, tiểu nữ thương nhớ phu quân, không đành lòng bỏ”.
Cảnh Tiểu Thiên “a” một tiếng, thầm nghĩ, thì ra nữ tử này lạc mất phu quân, mới phải mang con ra đường đàn rong kiếm sống. “Nghe khẩu âm của tẩu không giống người phương Bắc, tẩu là người bên kia Giang Chiết phải không?”
“Vâng, phu quân thiếp tên là Hàn Tịnh Quốc, là người Vân Mộng, sau này gia đình chuyển đến Du Châu mở cửa tiệm nhỏ bán phấn son.”
Cảnh Tiểu Thiên kinh ngạc: “Cái gì, các người đã từng ở Du Châu?”.
“Đúng vậy, đúng lúc cả nhà về Vân Mộng thăm người thân thì chiến loạn xảy ra, thiếp và Hàn lang lạc nhau. Tiểu nữ xuất thân hàn môn, may được tiên phụ mời thầy dạy cho chút ít cầm kỳ thi họa, nên mới đem con mãi nghệ kiếm sống. Thiếp nghe một người bà con nói đã từng nhìn thấy Hàn lang ở Lạc Dương, nên mới lưu lạc đến Lạc Dương tìm chồng.”
“Thì ra đứa nhỏ này là con của tẩu?”
“Ta đương nhiên là con của mẫu thân.” Đứa nhỏ không hề sợ sệt, trừng đôi mắt to tròn nhìn Cảnh Tiểu Thiên: “Còn nữa, tên ta không phải Đứa Nhỏ, ta có tên, gọi là Ký Minh”.
“Trộm gà bắt chó--1--? Cái tên này có vẻ… ha ha...” Cảnh Tiểu Thiên cười ầm lên.
--1-- Gà (jī) trong tiếng Hán phát âm giống từ Ký (jì), nghĩa là con ngựa tốt, người hiền.
Tạ Trường Khanh ho khan một tiếng, thấp giọng nói: “Đừng nói bậy, đó là Ký trong ‘ngựa tốt chạy đường dài, chí ở ngoài ngàn dặm, tráng sĩ tuổi xế chiều, lòng vẫn ôm chí lớn’, không phải con gà”.
Đứa nhỏ khinh thường liếc nhìn Cảnh Tiểu Thiên, nói: “Vẫn là vị đại thúc này là người đọc nhiều sách vở, đâu có giống như người bất tài vô học kia”.
“Minh nhi, không được vô lễ.” Người phụ nữ áo xanh quát con.
Tạ Trường Khanh thấy người này thân hình gầy yếu, gò má xương xẩu, đứa bé cũng mặt mày xanh xao, bèn nói: “Chúng ta sắp rời khỏi Lạc Dương, nhưng rất yêu thích mưa phùn khói sóng của thành này, không biết đại tẩu có thể vẽ giúp ta một bức tranh không?”.
“Được chứ được chứ, mẫu thân cháu vẽ tranh rất đẹp, các hương thân khắp làng trên xóm dưới thường xuyên đến nhờ mẫu thân cháu vẽ tranh đó.”
Người đàn bà áo xanh cũng không chối từ, lập tức sai đứa nhỏ xuống tìm chủ quán mượn giấy bút, nhẹ nhàng trải ra. Cảnh Tiểu Thiên thấy nàng trầm ngâm đặt bút phác họa, bèn đi tới bên cạnh nàng: “Nhớ rõ, phải vẽ cả ta và huynh ấy vào trong tranh đấy”.
Một canh giờ sau, hai mẹ con nhận mười hai lượng bạc rời đi.
Cảnh Tiểu Thiên nhìn nét mực hiện rõ trên bức tranh thủy mặc, cảm khái: “Đẹp quá! Đẹp quá!”.
Tạ Trường Khanh cho rằng cậu đang nhìn nét mực dọc ngang, đầu bút gãy gọn rất hợp ý cảnh của cuộn tranh mà khen ngợi mãi không thôi, thì cũng phụ họa theo: “Đẹp lắm, bức tranh giang sơn thủy mặc này, sắc trời xanh trong, rộng rãi vô ngần, bút pháp sinh động, thật sự là cổ phong thần vận”.
Ai dè, y còn chưa dứt lời, Cảnh Tiểu Thiên đã tiếp tục tán thưởng: “Thật sự rất đẹp, tại sao lại đẹp như vậy chứ! Tạ Tiểu Ngốc, dáng hình của huynh trong tranh này càng xem càng đẹp đó”. Thì ra, không phải cậu đang xem tranh, mà chỉ là nhìn bóng dáng Tạ Trường Khanh trong tranh đến ngơ ngẩn mà thôi.
Tạ Trường Khanh đứng bên lan can, nhất thời chán nản, lắc đầu im bặt.
“Tạ Tiểu Ngốc, huynh nhìn bên đó làm gì?”
Tạ Trường Khanh vịn lan can chỉ vào một cửa hàng ở phía xa: “Cảnh huynh đệ, huynh còn nhớ ngày đó trong trấn Phục Ma chúng ta có gặp một bà lão không?”.
“Bà nội của Đại Bảo và Tiểu Bảo?”
“Không sai, bà ấy từng nói, con bà ấy Hầu Đại Văn đã mở một tiệm vàng trong thành Lạc Dương, thì ra chính là tiệm bên cạnh tửu lâu này.”
Cảnh Tiểu Thiên đưa mắt nhìn theo, quả nhiên như vậy. Hai người trả tiền rượu, sau đó đi xuống lầu, đi sang tiệm vàng thì thấy trước cửa mạng nhện giăng đầy, cho thấy đã lâu không có người ở.
“Có lẽ Hầu Đại Văn cùng vợ hắn đã chết trong chiến loạn rồi.” Cảnh Tiểu Thiên lắc đầu thở dài: “Đại Bảo Tiểu Bảo đã chết ở địa cung, hai vợ chồng Hầu Đại Văn thì không rõ tung tích, chỉ còn lại một mình Hầu lão phu nhân kẻ đầu bạc tiễn người đầu xanh, đúng là thảm kịch nhân gian. Tạ Tiểu Ngốc, huynh nói xem, đến khi nào mới không còn chiến tranh, dân chúng được sống những ngày yên ổn thái bình?”.
“Sẽ không còn lâu nữa, đại quân Lý Đường đánh trận Lạc Dương này, đã bình định được can qua, tin rằng rất nhanh thôi là có thể thống nhất thiên hạ. Ta nghe sư phụ nói, Lý Uyên nhân từ khoan hậu, yêu dân như con, đến lúc đó thiên hạ sẽ được nghỉ ngơi dưỡng sức, sống những ngày sung túc đủ đầy.”
“Lý Uyên tạm không nói, nhưng thái tử Lý Kiến Thành kia không phải hạng tốt lành gì, vì tranh quyền đoạt vị với huynh đệ mình mà dùng đến cả thủ đoạn hạ lưu. Tiểu nhân đê tiện! Ta thấy Lý lão nhị cũng không phải loại người cam chịu yên phận, đến lúc đó giang sơn này do ai làm chủ còn chưa nói được đâu.”
Nghĩ đến đây, Cảnh Tiểu Thiên có chút lo lắng nhìn Tạ Trường Khanh: “Tạ Tiểu Ngốc, huynh sẽ không cần cùng Tần Vương trở về Trường An, giúp hắn bày mưu tính kế, phò tá hắn lên làm hoàng đế chứ?”.
Tạ Trường Khanh cảm thấy tức cười: “Sao có thể như vậy? Lần này Thục Sơn giúp Lý Đường bình định thiên hạ, vốn đã làm giao thiệp phàm trần, về phần giang sơn xã tắc đại nghiệp thiên thu sau này của họ, chúng ta sẽ không xen vào”.
“Hừ hừ, cũng khó nói, đệ tử Thục Sơn các người trước nay vẫn luôn nói cái gì cứu vớt thương sinh khỏi cảnh lầm than, cố gắng không làm mất lòng người, có nỡ từ chối ai đâu cơ chứ.”
“Lấy đức báo oán thì lấy cái gì báo đức? Cảnh huynh đệ yên tâm, thứ Thục Sơn tu là khuôn phép Đạo gia, không phải phép tắc của thánh hiền. Xã tắc Lý Đường đương nhiên quan trọng, nhưng đối với Đạo gia chúng ta mà nói, cổ kim chỉ trong tích tắc, bốn biển nháy mắt chuyển dời, đại nghiệp thiên thu đều là hồng trần ảo mộng. Thuận theo tự nhiên, bảo hộ dân sinh, mới là chuyện chúng ta nên làm.”
Lúc này, màn đêm buông xuống, ánh sao lấp lánh ẩn hiện giữa trời.
“Tạ Tiểu Ngốc, huynh nói trăm ngàn năm qua ngươi chém ta giết leo cho được lên ngôi hoàng đế, rốt cuộc là vì cái gì? Có phải thành trì càng nhiều thì giang sơn càng vững, dân chúng càng yên vui? Bằng không, Lý Uyên đánh Lạc Dương làm gì?”
Tạ Trường Khanh lặng yên không nói, trầm ngâm chốc lát: “Thành không phải ở lớn, mà bại cũng chẳng phải ở nhỏ”.
“Không hiểu.”
“Quốc gia có thể an ổn hay không, không phải ở cương vực rộng lớn, mà ở chỗ hợp với đạo nghĩa; quốc gia diệt vong cũng không phải ở chỗ lãnh thổ nhỏ hẹp, mà là do không hợp nhân tâm.” Tạ Trường Khanh mỉm cười, kiên trì giải thích.
“A, ý của huynh là, phải làm cho tất cả mọi người được vui vẻ, sống được no bụng chết có đất chôn, ban ngày làm lụng, tối về thuận hòa”, Cảnh Tiểu Thiên chỉ chỉ phía trước: “Giống như vậy sao?”.
Lúc này màn đêm đã buông xuống, xa xa trên mảnh đất trống có một chùm khói bùng lên, không trung nở rộ vô số chùm sáng, chói lọi như ngân hà. Mấy đứa trẻ tóc trái đào chơi đùa bên cạnh cha mẹ mình. Có lẽ đây là những gia đình trung lưu sống sót sau tai kiếp trở về nơi ở cũ, đốt bùng lên ngọn lửa tỏ niềm hạnh phúc.
“Đây là điều mà lòng dân vẫn hướng về, nếu thành Lạc Dương còn không hàng, sao có thể thấy được quang cảnh như thế?” “Đó gọi là phồn hoa tái thế.” Cảnh Tiểu Thiên bỗng nhiên kéo cánh tay Tạ Trường Khanh, cười hì hì: “Vậy huynh chính là thần tiên cứu thế của dân chúng Lạc Dương này…”.
“Tạ Trường Khanh một người một kiếm, đâu có tài cán gì. Cảnh đại tướng quân chẳng phải uy chấn sa trường, công lao còn to lớn hơn rất nhiều sao?”
“Ha ha, hai người chúng ta cũng đừng tự khen nhau thế này nữa, ngại chết, dù sao thì cái chức tướng quân này ta cũng làm thỏa thuê rồi, sau này sẽ không làm nữa. Hôm qua ta đã từ biệt Tần Vương, dự định trở về tiệm Thuận Phong làm chưởng quỹ, chỉ có điều… ha ha…” Cảnh Tiểu Thiên cười đến run cả người, đầy vẻ đắc ý vì gian kế thành công.
Tạ Trường Khanh khó hiểu: “Cảnh huynh đệ huynh cười cái gì? Treo ấn từ quan cũng không phải chuyện gì ghê gớm, sao có thể vui vẻ như thế chứ?”.
Cảnh Tiểu Thiên nói: “Huynh không biết đấy thôi, lúc ta nói với Tần Vương ta cần phải đi, hắn cũng chỉ giữ lại vài câu rồi đồng ý luôn. Có điều, ta lại nói, ta từ biệt nhưng không muốn trắng tay đâu. Như vậy đi, bổng lộc phong ấp cứ chiếu theo công lao trọng thần đại tướng quân mà ban thưởng, ta đã hỏi Hầu Quân Tập, biết rõ tiêu chuẩn luận công ban thưởng rồi, bản liệt kê có sẵn ở đây, khà khà, Tần Vương điện hạ, ngài cứ chiếu theo danh sách này mà cấp cho ta, nhiều hơn càng tốt, nhưng thiếu một thứ cũng không được. Còn nữa, phủ đệ nhỏ một chút cũng không sao, nhưng nhất định phải là nhà mặt phố, bên trong yên tĩnh nhã nhặn, thích hợp tu thân dưỡng tính. Tạ Tiểu Ngốc, về sau chúng ta sẽ có cửa hiệu và nhà lớn ở Trường An rồi…”.
Đệ tử chưởng môn Thục Sơn không chống đỡ nổi, nhất thời trợn mắt há miệng nhìn gian thương thành Du Châu vẫn đang thao thao bất tuyệt.
Một đàn chim đập cánh bay xẹt qua đỉnh đầu hai người, xếp thành đội hình thay đổi liên tục mà biến mất vào trời đêm vô tận.
Một vầng trăng sáng. Trời quang như nước.
Trên đỉnh núi, bóng dáng bạch y trầm ngâm đứng lặng, hồi lâu không nói. Dưới gốc hoa lê cách đó không xa, Cảnh Tiểu Thiên gối hai tay lên sau đầu, nằm bắt chéo chân ngơ ngẩn nhìn ngân hà đầy sao.
“Cảnh huynh đệ, huynh đưa ta đến chỗ này là để ngắm trăng à?”
“Ngắm pháo hoa.”
“Pháo hoa?” Tạ Trường Khanh ngạc nhiên quay đầu lại: “Pháo hoa ở đâu?”.
“Tạ Tiểu Ngốc, huynh không biết đấy thôi. Thành Lạc Dương chiêu hàng bình an, bách tính toàn thành được lệnh, đêm nay đốt pháo hoa ăn mừng. Ta biết huynh không thích trong thành tiếng người ầm ĩ không được yên tĩnh, cho nên mới tìm vị trí tuyệt vời này, có thể ngắm pháo hoa khắp thành đấy.”
Cảnh Tiểu Thiên xoay người ngồi dậy, vỗ vỗ đám cỏ bên cạnh: “Ngồi xuống đi, cùng ta chờ pháo hoa Lạc Dương. Nói cho huynh biết nhé, từ nhỏ ta đã thích ngắm pháo hoa, mỗi khi đến tết Nguyên Tiêu hằng năm, phụ thân sẽ cõng ta và nắm tay mẫu thân cùng A Thông, cả nhà ra ngoài ngắm pháo hoa. Đáng tiếc, sau khi mẫu thân qua đời, phụ thân không còn lòng dạ đưa ta đi nữa… Mà thôi, đừng nói tiếp những chuyện này, khà khà, coi như pháo hoa hôm nay là lễ vật mừng thọ Cảnh đại gia đi”.
Tạ Trường Khanh mỉm cười, vén áo ngồi xuống bên cạnh Cảnh Tiểu Thiên. Dưới ánh trăng vằng vặc, người áo trắng mỉm cười nhè nhẹ, ngẩng đầu nhìn những chấm nhỏ trên ngân hà.
“Thật là đẹp!” Cảnh Tiểu Thiên cảm thán.
“Đúng vậy! Trăng đêm nay vừa trong vừa sáng, giống hệt ánh trăng trước thềm Thiên Cơ các của Thục Sơn.” Tạ Trường Khanh không hiểu rõ ý, thuận miệng phụ họa theo Cảnh Tiểu Thiên. Y trông về hướng Đông xa xa, khuôn mặt thanh tú như được phủ thêm một quầng sáng nhạt: “Cảnh huynh đệ, huynh có nhìn thấy sao Bắc Đẩu không?”.
“Thấy rồi! Thiên Khu, Thiên Toàn, Thiên Cơ, Thiên Quyền bốn ngôi sao tạo thành hình cái gáo trong chữ ‘đẩu--1--’ của ‘Thất Tinh Bắc Đẩu’, ba ngôi sao riêng biệt là Ngọc Hành, Khai Dương, Diêu Quang. Thế nào, ta không nói sai chứ? Ta từ nhỏ đã được phụ thân dạy cách nhìn sao đoán vị, huynh không làm khó được ta đâu.” Cảnh Tiểu Thiên nghiêng đầu suy nghĩ một chút, gãi đầu nghi hoặc: “Chỉ có điều lạ là, ta thấy Bắc Đẩu không phải bảy ngôi sao, mà là chín ngôi…”.
--1-- Nghĩa là cái đấu, cái gáo.
Tạ Trường Khanh cả kinh, vội vàng bắt lấy cánh tay Cảnh Tiểu Thiên: “Huynh thực sự nhìn thấy chín ngôi sao Bắc Đẩu?”.
“Đúng vậy, ta từ nhỏ đã thấy Bắc Đẩu là chín ngôi, thế nhưng không ai tin ta, ngay cả phụ thân ta cũng bảo ta nói bậy.”
“Không phải, đúng là có hiện tượng cửu tinh, không sai đâu!” Tạ Trường Khanh vội vàng giải thích: “Thục Sơn từng có một bí tịch thất truyền tên là Vân Cấp Thất Lục, trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, bao quát âm dương cùng những tinh hoa kiến thức ngàn đời. Trong cuốn sách đó có nói, Thất Tinh Bắc Đẩu còn có sao phụ, bảy hiện hai ẩn, được gọi là Cửu Hoàng Tinh Quân. Thiên địa xoay vần, bốn mùa thay đổi, ngũ hành rải khắp, mỗi người đều chịu sự ảnh hưởng của Cửu Tinh Bắc Đẩu này. Nhưng Cửu Tinh Bắc Đẩu không phải ai cũng có thể nhìn thấy, chỉ có thiên thượng tinh quân hạ phàm, hoặc người trường thọ phúc lộc cao dày mới có thể nhìn thấy được hai ngôi sao ẩn đó. Cảnh huynh đệ, huynh có thể nhìn thấy hai ngôi sao này, chứng tỏ huynh không phải người phàm, ngày sau nhất định được hưởng vô vàn phúc lộc”.
Ai ngờ Cảnh Tiểu Thiên chẳng hề vui thích như trong tưởng tượng, chỉ thờ ơ đáp: “Vậy, Tạ Tiểu Ngốc, huynh có thấy được hai ngôi sao đó không?”.
Tạ Trường Khanh ngẩn ra, vẻ mặt u ám, hân hoan tràn lòng đều hóa thành hư ảo.
“Nếu không có huynh bên cạnh, ta có sống lâu như con rùa đen cũng chẳng để làm gì, thấy hay không thấy Cửu Tinh Bắc Đẩu gì đó cũng nghĩa lý gì chứ?”
Trên đỉnh núi Hổ Lao, ánh trăng bàng bạc trải đầy mặt đất.
“Tạ Tiểu Ngốc, chúng ta sắp phải về Thục Sơn rồi, huynh có dự định gì không?” Giọng điệu Cảnh Tiểu Thiên đầy vẻ quyến luyến.
Tạ Trường Khanh lặng người, nhu tình khó có được nơi đáy mắt đã tan biến hoàn toàn; mới vừa rồi tình sinh ý động, mà nay xa cách lạnh lùng.
Cứ cứng đờ như vậy một lúc lâu, ngay cơn gió cũng trở nên lạnh lẽo.
Dưới ánh trăng nhàn nhạt, thân thể Tạ Trường Khanh khẽ run, chiếc bóng trên mặt đất cũng mỏng manh u ám khác thường.
“Sau này huynh có tính toán gì không?” Cảnh Tiểu Thiên không chịu buông tha, tiếp tục hỏi dồn.
“Chưởng môn sư tôn đã truyền khẩu dụ, chúng ta cần nhanh chóng trở lại Thục Sơn, tập hợp Ngũ hành Tôn giả, làm phép cứu vớt thương sinh.” Giọng nói Tạ Trường Khanh có chút lơ đãng.
Nhưng con mắt Cảnh Tiểu Thiên lại lóe sáng khác thường, tựa như có ngọn lửa đang hừng hực thiêu đốt: “Làm phép xong rồi thì sao? Ta nhớ huynh đã hứa với ta, sau này huynh sẽ không làm chưởng môn nữa, vậy thì sau khi chúng ta giải quyết xong chuyện ở Thục Sơn, có thể từ biệt đồng môn về thành Du Châu rồi”.
“Cảnh huynh đệ, chuyện ngày sau không ai nói trước được.” Giọng Tạ Trường Khanh đầy vẻ bất đắc dĩ, y mỉm cười nghiêm mặt nhìn Cảnh Tiểu Thiên: “Không phải huynh muốn đưa ta đến đây ngắm pháo hoa sao, đêm nay đừng nói những chuyện sau này nữa”.
Cảnh Tiểu Thiên ỉu xìu, trong lòng đầy chán nản thất vọng, cậu cảm thấy giữa hai người lúc này đang cách nhau một lớp vải, một cánh cửa, một bức tường, Tạ Trường Khanh dưới ánh trăng xa cách khiến cậu sờ không được, đoán không ra.
Vì vậy, cậu duỗi thẳng cánh tay trái khóa chặt người kia vào lòng, vốn cho rằng với tính tình đoan chính tự giữ ngày thường, Tạ Trường Khanh nhất định vùng ra cự tuyệt. Thế nhưng, đợi hồi lâu, vẫn không thấy động tĩnh gì, Cảnh Tiểu Thiên nghiêng đầu nhìn, thì thấy y đã dựa vào vai trái mình, ngủ thiếp đi với vẻ mặt vô cùng bình thản.
Trong lòng cậu thầm cảm thấy buồn cười, bèn nhẹ nhàng nghiêng mình, ôm chặt hơn nữa thân thể kia vào lòng, hơi ấm từ da thịt Tạ Trường Khanh truyền đến lòng bàn tay khiến cậu yên lòng khó tả.
Gió nhẹ thoảng qua, thổi tóc mai người áo trắng bay loạn, hương vị cuối xuân giăng mắc khắp không gian tươi mát.
Hoa tàn hoa nở, hoa nở hoa tàn, không nhân cũng không quả.
Năm tháng chảy trôi. Mà huynh.
Vẫn chẳng hề thay đổi.