• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Thủy đạo vùng ven Sài Gòn
  3. Trang 16

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • 17
  • More pages
  • 34
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • 17
  • More pages
  • 34
  • Sau

13Một mảnh tình vá vai

Ù

ng... oàng... Chín Trí đã quăng mình như con cá lóc, chúi đầu trong gốc dừa nước. “Văn phòng” ban chỉ huy Đội Biệt động “tọa lạc” ngay trung tâm rừng dừa nước. Tìm được cái gò nổi chừng vài chục mét vuông là quý lắm rồi. Gặp cơn nước triều quá lớn, nước cũng lan liếm nhấn chìm gần hết gò. Đây là chỗ khô nhất xứ. Lót trên mặt đất là những tàu lá dừa khô, hàng nọ chồng lên hàng kia, mái lá, cành cây, cũng tạo dựng nên “văn phòng” không phải nhà mà cũng không ra chòi, nó là một đống lùm lùm lá dừa chằng chịt che chắn, thế thôi, người chui vô trỏng, kín mít. Nếu pháo giội ngay tróc, chắc không ai sống sót, may làm sao từ ngày có “văn phòng” pháo toàn rớt trật, lần nổ gần nhất cũng cách ba bốn mét. Kinh nghiệm của anh em khi nghe pháo là lăn ngay xuống nước lặn chui gốc dừa. Ngày hôm nay liên tục lăn nhào lộn. Leo lên mới được một lát, áo chưa khô đã lăn xuống nước ướt sũng. Cái thứ vải nilon mỏng dai, lại dóc nước, chỉ vài phút lên trên đã khô nên cũng đỡ, áo một manh, quần một chiếc, quần xà lỏn rất tiện lợi, gọn nhẹ khỏi săn. Quần áo có đâu mà thay, nên suốt ngày lóp ngóp ướt khô không phân biệt. Gặp mùa gió chướng, gió lùa qua áo ướt, lạnh đến móp ruột thấu tim, bụng thì đói liên miên. Nhưng cũng phải chịu đựng, biết làm sao được. Chịu đựng riết rồi cũng thành quen. Được cái tuổi trẻ sức trai, sức chịu đựng của con người dai hơn cá lóc.

Từ xế chiều, không thấy tiếng pháo tiếng bom, Chín Trí và Ba Tèo nằm trên sàn lá, áo quần đã khô từ lúc nào, anh gật gù nói với người bên cạnh:

- Chắc là êm rồi, kiếm chút gì ăn đi mầy!

- Em cũng đói móp ruột rồi đây, còn một vắt cơm mang về tối hôm qua, hai anh em ta ăn đỡ nha.

- Để tao ra ngoài kia vặt mấy đọt kèo nèo, nhai cho đầy bụng, hai cái bao tử rỗng có đến mười vắt cơm này chứa đủ, một vắt cỏn con vầy thấm vào đâu.

Tèo đã bẻ vắt cơm làm hai:

- Đói quá anh Chín, để nó vào bao tử cho êm cái đã, rồi hãy ra vặt kèo nèo sau.

- Ừa, mày nói cũng phải.

- Anh Chín, năm nay anh được hăm mấy rồi ta.

- Anh hai chín

- Chưa cùng ai sao anh Chín.

- Bom đạn chiến trận ác liệt vầy, có lúc nào rảnh đâu mà tính.

Tèo cười thích chí:

- Em cũng có tính gì đâu mà nó cũng tới. Em thua anh bốn tuổi, vậy mà em có một nhóc gửi nội rồi đó, chúng em nhà cùng xóm, cùng ở một đội du kích...

Đáng buồn là ba năm trước, vừa sanh con nhỏ được bốn tháng, vợ em tham gia chống càn, gặp cuộc càn dữ quá, cô ấy hi sinh rồi!..

- Trời! Vậy sao, tội cho con nhỏ... Hai người im lặng vùi vào suy tư. Chín Trí chậm rãi:

- Quê anh ở dưới Thủ Thừa, từ hồi cha sinh mẹ đẻ đã lội bưng, dắt trâu. Lớn lên theo các anh các chú đi đánh giặc. Nhỏ lớn tới giờ chỉ biết có đánh giặc thôi!

- Em cũng vậy, nhỏ coi trâu, lớn lên đi đánh giặc, có biết đến học hành đâu, giờ còn chưa biết chữ nữa.

- Để coi có ngày yên lành, anh chỉ cho em học.

- Anh được đi học rồi sao?

- Ai nói không đi học hồi nào! Có, hồi nhỏ anh được má và các chị cưng chiều, cố gắng dành dụm cho đi học được hết trường tiểu học ở xã. Chắc cấp trên thấy anh vốn sinh ra ở đồng bưng nên đang ở Củ Chi, điều anh xuống vùng này.

- Anh Chín, anh đã yêu bao giờ chưa?

- Đời anh cũng đã yêu một người, nhưng..!

- Anh vẫn tưởng tượng cô ấy đang ở Củ Chi.

- Anh kể cho em nghe về tình yêu đó đi, có phải đầu đời không?

- Đúng rồi, tình yêu còn ghi dấu trong tim đây. Đời anh, cho đến bây giờ, mới có một mảnh tình vắt vai...

Chín Trí như thả hồn về với ngày nào, ký ức đầy cảm giác yêu đương của chàng trai mới biết yêu lần đầu.

- Trận đánh ở Lào Táo Hố Bò do anh Ba Trâm chỉ huy đã thắng lớn. Sau trận đánh, anh bị bệnh, không hiểu sao sức trai đang sung, không bị thương chỗ nào mà ngã bệnh, hay là tại cái duyên xui khiến. Anh phải vào nằm trong quân y viện đóng tại Phú Trung, xã An Phú, Củ Chi. Thời gian này có rất nhiều cô gái đang tập trung về quân y học lớp y tá. Bấy lâu nay ham mê trận mạc, có khi nào được thư thả tâm hồn mà mơ mộng. Nay đang những ngày điều trị bệnh, sống an nhàn, lại nghe tiếng nói nhẹ nhàng véo von như tiếng chim hót của các nàng thanh nữ, cái tâm hồn nhút nhát của anh bỗng thấy xốn xang lạ thường. Mỗi lần thấy bóng hồng, con tim lại rộn ràng hồi hộp. Cái cảm giác đó trước nay chưa thấy có. Anh Tư Giám lúc đó phụ trách quân y, là người rất biết thông cảm, thương anh em trẻ, biết tỏng các chàng trai cứ thấy các cô gái là bừng sáng con mắt, anh Tư nói:

- Thằng nào nhắm được ai thì nhắm liền đi, kẻo ra viện lại không còn cơ hội nữa đâu nhé!

- Hình như anh lúc đó cũng khá trai, mấy ngày nằm trong viện được ăn ngủ điều độ nên mặt mũi sáng láng ra, chắc là thế nên có một cô cứ nhìn anh thắm thiết. Cô này xinh lắm, còn rất trẻ, tuy hơi đen nhưng chắc vì nắng gió miền Đông. Được ánh mắt như thắt ruột gan, không hiểu vì sao đến lúc ấy, cái tánh thỏ đế, nhát gái của anh nó biến đâu mất, anh mạnh dạn, phải nói là dũng cảm, đánh liều đến bắt chuyện làm quen với nàng. Chuyện nhát gái của anh có cớ đàng hoàng đó nghe, không phải anh nói dóc đâu. Hồi ở Vườn Thơm Lương Hòa, anh đã 20 tuổi, một đêm gió lạnh, vừa đi gác về, thấy ba người đang ngồi bên bếp than, anh lại gần, thọc tay vào nách một người, tưởng anh Bảy Kên, ai dè không phải, mà là một phụ nữ. Trời ơi! Anh mắc cỡ quá xá chừng, chắc lúc đó mặt đỏ như mặt gà trọi, không dám nhìn ai. Sáng hôm sau cứ rúc trong bụi mía vì mắc cỡ không dám ló mặt ra, nhịn ăn cả ngày luôn.

Những ngày ở An Phú, cái nhút nhát đã bị đẩy lùi, máu tợn xung phong lên, tấn công làm dẹp xẹp cái nhút nhát cố hữu trong anh, nó điểu khiển con tim đập gấp gáp, đập tùm lum mỗi lần gặp nàng. Đôi mắt và hàng mi long lanh đen mọng kia đã quyến rũ, đã hút hồn anh. Một cảm giác lạ lùng, xưa nay chưa từng có bao giờ. Còn nữa, nghe tiếng nói của em, cả tiếng cười trong trẻo kia đã lôi cuốn anh vào cảm xúc tuyệt vời, cảm xúc của tình yêu. Đến lúc đó, lần đầu tiên trong đời mới biết làm duyên với phụ nữ. Chín Trí lân la kiếm chuyện hỏi thăm:

- Cho anh biết tên em đi, hổm rày nói chuyện hoài mà không làm cách nào hỏi thăm được.

- Em tên Thu, Cao Thị Thu.

- Em quê ở đâu?

Ba má, các em... gì cũng hỏi, tranh thủ cơ hội hỏi mấy câu liền, nhưng mà hỏi gì vô duyên giống như bắt em phải khai lý lịch trích ngang.

Ngày hôm sau lại cũng bổn đó hỏi lại, thế mới ngu chớ, hình như đã khiến cô ấy bực mình:

- Anh hỏi đến lần thứ ba, sao chỉ có nhiêu đó. Anh can đảm tỏ tình, nhưng không biết nói ra sao, cứ ấp úng, quanh quẩn quên hết, một lúc lại hỏi:

- Nhà có mấy chị em!

Hình như nàng cũng thông cảm cho những lời tỏ tình vụng về của anh, nhưng được cái linh cảm, thấy ánh mắt nụ cười của nàng hiển hiện thế kia, đúng là bức thông điệp báo đáp:

- Chàng trai đa tình và nhút nhát vụng về kia ơi, em đã thương anh rồi!

Những cảm giác, những tia lửa điện kia là tiếng sét ái tình, đã sẹc lửa đã bắt điện, khiến cho hồn anh bay bổng, lâng lâng như không còn biết mình đang làm gì. Thế rồi một ngày nọ, đôi chân đã đưa anh về nhà nàng. Nhà em ở khá gần quân y. Ba của Thu công tác ở tỉnh đội Tây Ninh tên ông Hai Râu. Hôm ấy, ông cũng có ở nhà. Vừa sợ vừa mừng, ba là người cách mạng, chắc ổng không phản đối. Nhưng không hiểu sao, gặp ổng mà cứ ấp a ấp úng lụng bụng như gà mắc tóc.

Cũng là duyên may, khi ra viện, đơn vị Chín Trí lại đóng ở gần xã, cách nhà nàng một giờ đi bộ. Thế là có dịp nào rảnh, Chín ta không bỏ qua cơ hội, tới thăm nàng. Gia đình Thu cũng thấy hài lòng khi con gái mình đã quen một chiến sĩ giải phóng. Bà ngoại nheo nheo cười cười nhìn anh âu yếm:

- Thằng nhỏ thật dễ thương ghê, trai gì mà trắng tươi, khỏe mạnh, tốt bụng lại hiền khô.

Không hiểu sao càng thấy thương nhiều hơn khi mỗi lần gặp nhau, dù anh chàng chỉ biết nói những câu mộc mạc, nghiêm chỉnh, lời tỏ tình rặt “chính ủy” trậc lấc đến là ngớ ngẩn:

- “Nhiệm vụ”, của anh và em, giống nhau em ha!

- Chúng ta là thanh niên, cùng hoạt động cách mạng, là những người cộng sản, cùng chí hướng yêu nước thương dân... Nguyện suốt đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Thấy nàng im lặng lắng nghe, anh chàng lại cứ tưởng thế là hay, càng phô bày tư tưởng:

- Bây giờ chúng ta phải “phấn đấu” trước đã, phải đấu tranh để giải phóng quê hương, đất nước hòa bình thống nhất... “nhiệm vụ” là trên hết...

Nàng cười nhẹ, nén cái nhìn cảm mến, thân thương. Rất may là con gái Củ Chi chỉ biết yêu có quân Giải phóng, yêu người cách mạng, nên dù chưa có lời nào cho ra trò, nhưng họ đã hiểu tình cảm của nhau rồi.

Anh chàng không biết yêu phải nói như thế nào, làm chánh trị viên đại đội nên cứ chánh trị mà tỏ tình yêu. Chắc là Thu cũng thấy chán nhưng lại tội nghiệp cho anh, thông cảm vì anh “chánh trị rặt” nên không biết lời yêu. Còn nàng thì tức mình anh ách, sau mỗi lần chào tạm biệt gia đình em, cứ vò đầu bứt trán tự dày vò mình: Lạt nhắt, mình ngốc quá, sao không nói đại huỳnh toẹt rõ ràng ra, tôi thương Thu, Thu có chịu tôi không! Có mấy câu nhiêu đó mà không thốt ra được, cứ lú ma lú mú, chỉ biết những lời chỉnh huấn chánh trị, không ăn nhập gì tới việc yêu đương tình cảm, kiểu này không biết đến bao giờ mới dám bày tỏ hết lòng mình. Lại lo lắng sợ có anh chàng nào biết tán, lẻo mép hơn, nó hớp mất thì toi. Rõ ràng Chín Trí đã nghe các cụ nói, con trai yêu bằng mắt, con gái yêu bằng tai; tai con gái phải nghe những lời ngọt ngào âu yếm trước đã mới yêu. Đằng này suốt hai năm trời không biết mở miệng nói một câu yêu. Chả bù cho lúc đánh trận, khi trinh sát, hô xung phong, lại quyết đoán, hăng hái xông xáo, lại xông lên dũng cảm đến thế.

Thời gian tìm hiểu tâm sự đưa tình liếc mắt cũng phải đến hai, ba năm, tình đã nồng nhưng chưa lời ngỏ, mắt đã say nhưng chưa dám chạm tới cổ tay. Hôm nay, chuẩn bị cho ngày mai chuyển vùng đi nhận nhiệm vụ mới. Chín Trí chạy một hơi tới nhà Thu, mặc cho trời mưa lớn, đường trơn trượt, trong đầu óc đã định sẵn những câu nói cho ra trò, nào là tỏ tình thật sự, nào yêu thương nào hứa hẹn chờ đợi nhau... Anh còn hạ quyết tâm “phấn đấu” sẽ cầm tay nàng, nắm chặt tay nàng lúc tạm biệt, còn định nếu có thể, sẽ hôn má nàng một cái. Thật không may, vừa bước chân vào nhà, anh như muốn sững người khi hay tin Thu đi làm mụ sanh ở ấp bên, chưa biết khi nào về. Biết em ở đâu mà đi kiếm, còn kịp được gặp em nữa không! Anh nằm trên chiếc võng đung đưa mà lòng trĩu nặng, tiếc nuối. Bà ngoại Thu cũng sốt ruột thay cho các cháu, bà không ngủ mà thao thức mong cháu về, cho chúng nó gặp mặt nhau. Lối ba giờ sáng, anh mới nghe tiếng xối nước rửa chân ngoài sân. Anh đi vội ra, Thu sững sờ khi nhìn thấy anh. Hai đứa cùng mừng cùng hồi hộp, Thu thanh minh:

- Bà này sanh con đầu nên lâu quá, may mà mẹ tròn con vuông.

- Anh đợi được mà, có sao đâu.

Hai đứa nói qua nói lại, mà không câu nào ra trò, bà ngoại cũng sốt ruột:

- Bây nấu cơm đi, cho nó ăn kẻo sáng đi sớm không có cơm ăn đó.

Thu “dạ” rồi ngập ngừng đi nấu cơm. Chín Trí chỉ muốn hai đứa được ngồi bên nhau, được nói chuyện chia tay, không muốn Thu phải nấu cơm cho mất thời gian, nhưng không biết nói sao cho ra vấn đề. Cái tính vụng về khoản yêu đương cứ cột chặt lấy anh, không sao sửa cho được.

Ăn cơm xong, trời đã hừng sáng, bao nhiêu câu muốn nói, bao nhiêu điều chuẩn bị không thực hiện được cái gì, đành gói lại trong lòng, Chín Trí tự an ủi mình: Chắc nàng đã hiểu tấm chân tình của ta, không nói ra nhưng tình cảm chả đã hiện đầy lên bằng ánh mắt, bằng cử chỉ là gì, thế là anh đã yêu nhiều lắm đấy!.. Thu lấy xe đạp chở anh tới xóm Chùa, nơi đơn vị anh đóng quân. Anh muốn cho đường dài thêm nhưng nó như ngắn lại, đã sắp đến giờ chia tay. Thu ngập ngừng lấy trong túi áo ra trao cho anh hai chiếc khăn tay, nàng vừa nói nhỏ vừa dúi vào tay anh:

- Anh Chín, cầm đi!

- Gì đó em?

- Cầm đi rồi biết... Bao giờ anh về?

- Hai ba năm nữa, bao giờ giải phóng anh về. Thu nhìn anh thắm thiết:

- Em quay về nghe!

Chín Trí bịn rịn, anh đưa tay nắm ghi đông xe, cố tình xích bàn tay cho sát tay Thu, chạm vào ngón tay trỏ của Thu, anh rờ rờ nắm nhẹ ngón tay nàng. Thu dắt xe quay lại. Chín Trí vừa tiếc vừa bâng khuâng, lòng rộn lên nỗi xốn xang, ngón tay nàng đã nằm trong tay anh, truyền sang anh một luồng điện râm ran hết cả người, dù chỉ một chút thôi, hai ba giây thôi đã khiến lòng anh ấm lên, đã thấy tình yêu đậm đà nồng thắm gắn bó đến không thể thiếu nhau trên đời được nữa. Chín Trí đứng lặng nhìn theo Thu quay về. Hai chiếc khăn tay kia được mở ra liền, mùi hương ngọc Lan dịu mát ngây ngất lan man, và hàng chữ thêu chỉ đỏ hiền hiện như đang bay như nhảy múa trước mắt anh:

Thương em anh ráng lập công

Nhớ anh em quyết một lòng giữ quê.

Đây là Thu của anh rồi, là lời tỏ tình, chữ “thương” là tình yêu em bày tỏ với anh rồi đó, chữ “nhớ” là lời ước hẹn thủy chung mặn mà. Chín Trí áp chiếc khăn thơm vào má, đứng lặng người, cảm xúc với phút giây sung sướng ngỡ ngàng. Em thương anh, thương rồi, em khuyên anh lập công, em nhớ anh, em nguyện cùng chí hướng bên anh. Ôi sung sướng quá. Em mượn lời thơ bày tỏ tình em. Còn anh, hai năm trời chưa một lời yêu thương cho nằm lòng, sao mà kém cỏi đần độn đến thế. Hai năm trời quen nhau, yêu nhau mà chỉ mới nắm vội được có một ngón tay! Nhưng ý nguyện, tấm tình trong anh đinh ninh hơn cả mọi lời nói yêu thương. Tình yêu đầu đời của anh, mang theo bên mình hình ảnh người yêu, cái tên Thu như một nguồn năng lượng ngọt ngào ấm áp cho mỗi nhịp tim anh, cho mỗi bước đi, nhịp đập cho mỗi lần lội bưng qua biền.

Tưởng như tâm hồn anh đã đanh lại, cằn cỗi, đã già đi vì chiến tranh, vì những chiến trận ác liệt gian khổ liên miên từ khi mới 14 tuổi, vậy mà chỉ bắt nhịp được một khúc nhạc tình yêu, nó đã bùng dậy, rạng rỡ tươi mát lên. Con người anh cũng như hạt giống khô rồi, nhưng nếu gặp đất tươi màu và nước mát, hẳn nhiên hạt giống đã nảy mầm vươn lên đón ánh dương chan hòa rạng rỡ.

Nỗi nhớ nhung và hình ảnh người yêu theo anh xuống đồng bưng Thủ Đức, day dứt trong từng đêm không ngủ, từng lúc đói cơm lặn lội trong khắp vùng đầm lầy. Rồi một ngày kia, anh nhận được tin Thu không còn nữa, người anh yêu thương đã hi sinh trong một trận càn, xích xe tăng Mỹ đã cán sập hầm, em đã nằm sâu trong lòng đất mẹ Củ Chi. Tim anh như thắt lại, tê buốt, choáng váng như muôn mũi kim châm. Nỗi nhớ nhung bấy lâu, nay đã thành nỗi đau xé ruột. Những giọt nước mắt chỉ chực trào tuôn, nhưng anh cố nén lại, đến đêm thanh vắng mới để nó bung ra hừng hực lăn dài trên má. Anh không thể nghĩ Thu đã chết, đôi khăn tay còn đây, mùi hương em ngày nào còn lưu dấu đâu đây, hàng chữ thắm đượm tình yêu của em còn đây, hình ảnh Thu sáng đẹp, Thu vẫn cứ ở bên anh mãi mãi. Tình yêu người chiến sĩ đồng bưng đậm đà sâu thẳm như thế đấy.