• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Thủy đạo vùng ven Sài Gòn
  3. Trang 22

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 21
  • 22
  • 23
  • More pages
  • 34
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 21
  • 22
  • 23
  • More pages
  • 34
  • Sau

19Hai lần đánh chiếm cầu Sài Gòn

N

hân dân vùng bưng náo nức truyền tin:

- Bộ đội của mình giờ đông quá!

- Quá trời luôn, gặp người mới không hà!..

Cho đến đêm giao thừa, người dân vùng bưng chỉ nghe tiếng súng nổ ầm ầm khắp trong vùng, nhất là tiếng nổ ở trong đô thành Sài Gòn.

Người dân vùng Bưng Sáu Xã không ai biết gì về tổ chức quân sự chính trị mới, họ chỉ biết quân ta giờ đông đảo lực lượng, đang đánh lớn.

Từ tháng 10- 1967, Quân khu Sài Gòn- Gia Định dưới sự chỉ đạo của Trung ương Cục, đã thành lập ra 5 Phân khu trọng điểm. Vùng đông nam Thành phố là Phân khu 4, bao gồm cả Quận 1, Thủ Đức, Quận 9, Thạnh Mỹ Tây, Long Thành, Nhơn Trạch, cả một phần Biên Hòa Bà Rịa. Cấp chỉ huy đã được phân bổ đầy đủ ban bệ, quân sự chính trị, tham mưu, hậu cần.

Lực lượng quân sự khá hùng hậu, từ trước đã có bộ đội Tiểu đoàn 4, bộ đội địa phương, quân du kích Thủ Đức. Từ cuối năm 1965, trên tăng cường xuống tiểu đoàn 2 của Sư 5, tiểu đoàn 8 đặc công thủy, công binh, đặc biệt là sự phát triển lớn mạnh của Đội Biệt động cả về số lượng, và hiệu quả chiến đấu. Con số Đội Biệt động Cánh Đông Nam lúc này đã lên tới cả trăm người. Lực lượng quân sự tập trung cho cánh Đông Nam của Phân khu để chuẩn bị tổng tiến công Mậu Thân 1968.

Người đông như thế, nuôi quân là cả một vấn đề lớn trong tình trạng phải giữ bí mật với nhiều tình huống ngặt ngèo. Nhưng nhờ có sự chuẩn bị công phu dày công tiếp tế từ nhiều hướng tới, đến việc cất dấu, hầu hết nhờ vào những người dân tại vùng bưng. Tình hình cho đến giáp ngày tiến công vẫn ổn định từ tổ chức đến giữ bí mật, tất cả các lực lượng đã chuẩn bị sẵn sàng, với mục tiêu tấn công tiêu diệt các căn cứ địch trong vùng Thủ Đức, và các trọng điểm trong thành phố như Cầu Sài Gòn, Tân Cảng, Bộ Tư lệnh Hải quân ngụy. Đánh mở đường cho quân chủ lực ta tiến vào Đài phát thanh ngụy, vào giải phóng Sài Gòn.

Ở cuốn sách này, ta chỉ nói đến nhiệm vụ chiến đấu của đội biệt động Cánh Đông Nam, trong đợt Tổng tiến công Mậu Thân 1968.

Một cơ sở của lực lượng biệt động ở Lò Nhuộm trong hãng Tô Châu vừa nhận được món “hàng” đặc biệt. Cô gái chủ hàng rất đẹp và sang trọng, áp tải hai xe vào hãng. Hàng đưa cả vào gian nhà bảo vệ của hãng do ông Sáu cất giữ, với số lượng “hàng” đặc biệt: 30 khẩu AK, khá nhiều B40, B41, cùng đạn dược, mìn, thủ pháo...

Nhận được lệnh chiến đấu, anh em trong đội hừng hực khí thế, với trái tim rực lửa tiến công. Đội biệt động do Út Hòa đại đội trưởng, Chín Trí chính trị viên, Bảy Đạt đại đội phó. Tổ chức toàn đội nghe phổ biến nhiệm vụ, phương án và tổ chức vào trận. Mục tiêu tiến công của Đội Biệt động là đánh chiếm, giữ cầu Sài Gòn, đánh phá Tân Cảng(1)

(1) Cảng Sài Gòn sau năm 1965 ta đánh chìm tàu chiến USCNS lúc này thì cảng ngừng hoạt động và chuyển lên Tân Cảng là Cảng Quân Sự

Chiến sĩ biệt động hành quân bí mật từ đồng Bưng Sáu Xã lên hãng Tô Châu nhận vũ khí. Chập tối hôm ấy, chiến sĩ ta mình đầy vũ khí, tay cầm AK, khoác quanh mình những trái thủ pháo, lựu đạn, băng đạn. Mỗi chiến sĩ mang khoác trên mình một trọng lượng vũ khí khá nặng. Từ Hãng Tô Châu, các mũi hành quân đều đi bộ, bí mật tiến đến mục tiêu đầu tiên: Cầu Sài Gòn.

Đến chân cầu Sài Gòn, trước tiên phải đánh chiếm trại lính bảo vệ cầu, nằm ngay phía bên phải đầu cầu. Đội hình đã ém quân trước mục tiêu, bố trí hỏa lực xong đâu đấy, chờ hiệu lệnh là sẵn sàng nổ súng.

Chín Trí nói nhỏ với Út Hòa đang ở sát bên:

- Mục tiêu của đội ta là đánh chiếm cầu lớn, giữ cầu để đón đại quân ta tiến lên cầu Sài Gòn, đánh vào trung tâm đô thành, giải phóng thành đô? Trước tiên chúng ta phải quét hết, quét xong nhà lính bảo vệ cầu đã. Chiếm xong, ngay lập tức phải nhanh chóng tiến lên cầu Sài Gòn, kẻo đội bạn họ lại lên trước ta đó.

- Anh Chín, nếu vậy sao cứ phải chờ đến giờ G, Đơn vị ta độc lập tác chiến, phải thanh toán xong cái đội bảo vệ trước, rồi mới đánh lên cầu, vậy còn phải chờ gì nữa, ta đánh ngay giờ này thôi!

- Không được, phải chờ hiệu lệnh mới nổ súng, cấp trên đã phổ biến rồi, đúng giao thừa.

- Chờ hiệu lệnh, tôi nghĩ sẽ không kịp, e rằng khi nghe hiệu lệnh, đội khác họ tiến công lên cầu trước chúng ta. Bởi chúng ta phải thanh toán xong cái bốt gác cầu, không chỉ vài phút mà xong đâu.

- Có lý đấy, nhưng hiệu lệnh nổ súng phải nhất loạt, không được đánh trước.

- Anh đừng cứng nhắc, phải tùy cơ ứng biến chớ. Giờ này chắc sắp có hiệu lệnh rồi, ta nổ súng trước đi.

- Chín Trí chưa kịp ngăn lại, Hòa đã ra lệnh:

- B40 chuẩn bị!..

- Chờ lệnh nổ súng đã chứ!

- Cần gì phải chờ, đánh xong cái trại lính này là tiến lên cầu ngay, chờ là chậm mất.

Chín Trí thấy Út Hòa nói có lý, cũng chỉ còn 15 phút nữa là đến giao thừa, liền thay đổi ý định:

- Cho phát hỏa đi!

Ngày tết, bọn lính thả dàn ăn nhậu, đón giao thừa, lơ là cả việc canh gác, bảo vệ. Cả khu vực xung quanh đang chìm trong màn đêm im lặng, bốn khẩu B40 đồng loạt lên tiếng đầu tiên. Tiếng nổ ầm ầm lao thẳng vào trại lính, phá tan tành cả khu trại lính gác cầu, đa số lính chết trong loạt nổ đầu tiên của B40, một số lính ở ngoài và ở trong các căn nhà có vợ lính mới đến trại ăn tết, chúng hoảng hốt chạy ra, thấy quân giải phóng đang xông xáo bắn mạnh quá, vội vàng chạy trốn, một số nhảy cả xuống sông bơi trốn tránh. Anh em biệt động yêu cầu vợ con lính ra đứng kêu tên, kêu chúng trở lại đầu hàng sẽ được khoan hồng. Trận địa diễn ra chỉ cỡ 15 phút sau, anh em biệt động đã chiếm được hoàn toàn trại lính gác cầu, gom bắt được hàng binh mấy chục tên, đưa tất cả vào một căn phòng lớn, khóa cửa nhốt lại.

Vậy là đội biệt động đã nổ súng chiếm trại lính bảo vệ cầu Sài Gòn sớm hơn giờ G quy định cỡ 15 phút.

Đồng thời khi nghe tiếng nổ tấn công trại lính gác cầu của đội biệt động, đó cũng là hiệu lệnh cho một mũi quân chủ lực của ta Cánh Đông Nam được bố trí trước, đã dùng xuồng bơi nhanh vun vút qua sông Sài Gòn, có nhiệm vụ tấn công trại lính bảo vệ bên kia cầu. Cùng lúc ấy, Chín Trí đã nghe tiếng súng nổ tấn công của quân ta phía cầu Bình Triệu. Lại những tiếng nổ phía sau là cầu Rạch Chiếc, ở phía trước là Hàng Xanh, bốn phía đều thấy tiếng nổ rền trời B40, thủ pháo, Ak của quân ta.

Đội biệt động của Chín Trí và Út Hòa chỉ huy, chia hai mũi, nhanh chóng tiến lên chiếm cầu Sài Gòn.

Những chiến sĩ biệt động Cánh Đông Nam nhanh như mũi tên, vừa tiến công vừa bắn. Súng đạn của địch cũng đã phản kháng, các điểm hỏa lực quanh khu vực cầu đã nổ súng bắn lên cầu. Các họng đại liên khạc đạn, những luồng đạn đỏ lừ bay lên cầu. Tiếng nổ của B40 từ trên cầu đã biến ổ đại liên bên kia chân cầu tan tành câm họng. Trong những loạt đạn loạn xạ bắn trả của địch trên cầu, Đội trưởng Út Hòa và một số chiến sĩ đã hi sinh ngay trên cầu, đại đội phó Bảy Đạt cũng bị thương. Ban chỉ huy giờ chỉ còn mình Chín Trí. Cả hai đầu cầu, cả trên mặt cầu Sài Gòn, quân ta đã làm chủ trận địa, đã chiếm hoàn toàn cầu Sài Gòn. Một số địch đầu hàng, Chín Trí bắc loa tay nói to:

- Hỡi anh em binh sĩ, quân Giải phóng đã tấn công vào Sài Gòn, hãy đầu hàng quân Giải phóng, các anh chỉ còn một con đường đầu hàng mà thôi!

Đã có một số binh sĩ chạy sang xin theo quân Giải phóng. Chín Trí nói lớn:

- Anh em binh sĩ, chúng tôi là bộ đội giải phóng, có nhiệm vụ chiếm cầu Sài Sòn, chỉ lát nữa thôi, quân giải phóng tiến về rất đông, sẽ qua cầu Sài Gòn vào giải phóng thành phố, giờ giải phóng sắp đến rồi, các anh đã đầu hàng là đúng, bây giờ, các anh hãy chấp hành lệnh của chúng tôi, hãy đưa những tử sĩ và thương binh quân giải phóng về hướng Thủ Đức, về tuyến sau.

Mau lên!

Lính hàng binh răm rắp nghe theo. Người dìu người cõng, người cáng thương binh, người vác tử sĩ, vượt chạy ngược về phía bên kia cầu.

Đội biệt động nhanh chóng tiến thẳng về phía ngã tư Hàng Xanh.

Lúc này đã gần 3 giờ sáng, tiếng súng phản công của quân ngụy đã vang dậy khắp nơi, chúng đã hoàn hồn để tổ chức các lực lượng, quyết bảo vệ đô thành Sài Gòn. Từ các điểm hỏa lực, địch bắn rất dữ ra cầu Sài Gòn, phía có quân ta tiến công. Trong khi các căn cứ Mỹ vẫn đóng chặt cửa không dám nhúc nhích, không một lính Mỹ dám ra ngoài. Quân ngụy đã điều động toàn bộ các điểm hỏa lực, máy bay trực thăng bay ra như ong vỡ tổ trên trời, các loại máy bay chuồn chuồn, cá rô, cá lẹp bay lượn bắn ào ào xuống các khu vực từ Hàng Xanh ra các ngả Tân Cảng, Bình Triệu, Bộ Tham mưu Hải Quân... Pháo sáng, đạn lửa, hỏa tiễn sáng trời. Đồng thời máy bay phản lực nhào lộn cắt bom, xe tăng cũng bung ra từ khắp ngả, quần đảo tấn công bất kỳ nơi nào chúng thấy có bóng dáng quân Giải phóng đã xuất hiện.

Đội biệt động Cánh Đông Nam lúc này đang đánh áp đảo ngay khu vực Hàng Xanh, một tổ đánh xuống khu vực Tân Cảng, là cảng chính của Sài Gòn lúc bấy giờ. Chiến sĩ vác B40 chạy băng băng xuống phía cảng, thấy có một con tàu lớn đang đậu, liền quỳ xuống, phóng ngay một trái trúng tàu. Tàu nổ bung một đám to, lửa cháy ngùn ngụt. Một bộ phận anh em đã đánh thọc qua phía Bình Quới.

Vậy là mặt trận phía Đông thành phố, Chúng ta đã chiếm được cầu Sài Gòn, khu vực ngã tư Hàng Xanh quân ta đang làm chủ, đang đánh rất ác liệt. Trận chiến đã diễn ra trên ba tiếng đồng hồ, vẫn chưa thấy đại quân tiến công vô Sài Gòn. Lúc này ở ngã tư Hàng Xanh, chúng đã thiết lập nhanh chóng các pháo đài chiến đấu phản công, bắn ào ào vào các cánh quân của ta. Chiến sĩ biệt động ta lại hi sinh một số nữa, nhưng ai cũng quyết chiến đến cùng, anh Ba Hồng hi sinh tại ngã tư Hàng Xanh do máy bay trực thăng bắn xuống. Hỏa lực của địch ở Bình Quới, Tân Cảng đã hoàn hồn, chúng bắt đầu phản công bắn trả. Chín Trí kèm mấy cậu lính ngụy vừa đầu hàng, anh nhặt súng đồng đội vừa hi sinh, đưa cho một anh:

- Cầm lấy súng, bắn quân ngụy, chiến đấu nào. Anh lính kia nghe theo, cầm AK lia hàng tràng đạn về phía địch, anh ta chiến đấu y như quân Giải phóng. Ngay lúc đó, anh ta lại bị trúng đạn hi sinh. Chín Trí không hiểu chú lính ngụy kia đã thực sự chịu giác ngộ theo cách mạng, hay anh ta sợ quá, quýnh quá nên bảo gì làm nấy. Trong lòng anh đinh ninh một điều, lính đầu hàng vì chúng sợ, chúng tưởng như quân ta đã tấn công vào đô thành, thì ngày tận thế của chính quyền Sài Gòn Việt Nam Cộng hòa đã đến.

Lúc này đã thấy có quầng sáng phía đông, quân ta bị địch bắn dữ quá, hi sinh đã trên phân nửa, vũ khí đã gần cạn, không thể tiến thêm được nữa. Mục tiêu chiếm cầu Sài Gòn đã hoàn thành, chiếm toàn bộ khu vực Hàng Xanh Tân Cảng, tiến về chiếm Đài phát thanh, tiến đánh Bộ chỉ huy Hải quân ngụy đành bỏ dở.

Chín Trí vừa được lệnh rút quân, anh liền ra lệnh cho anh em rút lên hướng cầu Sài Gòn. Vừa lên tới đầu cầu Sài Gòn, hỏa lực địch từ các phía, từ trên trời, từ hướng Tân Cảng bắn lên cầu dày như đan lưới, trong bóng tối lờ mờ, đạn địch bay sáng dầy như giăng lưới cả mặt cầu. Vừa lúc đó, một hàng xe tăng M113 từ Hàng Xanh đang chạy lên cầu vừa đuổi theo vừa bắn, anh em ta nằm rạp xuống cầu, xe tăng đang lên cầu nên chổng mũi súng lên trời. Chín Trí đã thấy mấy chiến sĩ vác B40 chạy lên cầu, anh vội ra lệnh:

- Xe tăng địch không bắn trúng ta được, B40 bám gờ cầu bắn xe tăng.

Ba Minh B40 và một chiến sĩ B41, là những xạ thủ đồng bưng chống càn khét tiếng, Ba Minh quỳ xuống, chúc nòng B40 nhằm xe tăng đang bò lên cầu, nổ súng. Ba xe tăng địch trúng B40, cháy rụi, lính trên xe tăng cháy đen ngay trên đầu cầu Sài Gòn. Vừa lúc đó máy bay địch ào tới, bắn như mưa ngay trên mặt cầu chặn đường rút của quân ta. Biết là nếu cứ chạy qua cầu sẽ không lọt, sẽ hi sinh hết, Chín Trí hô to:

- Tất cả nhảy xuống sông, lội sang bên kia.

Anh nhảy xuống trước tiên, chỗ này cầu cao hơn mặt nước cỡ trên 10m. Đang lúc nước ròng, rơi trúng chỗ vừa nước vừa sình, nhưng không sao, chỉ đau rát mình mẩy, choáng sơ sơ. Anh em nhảy theo, biến mất hết khỏi cầu Sài Gòn. Đạn từ trực thăng bắn theo xuống chân cầu... đoàng đoàng, chụp chụp, chéo chéo, chúng đã phát hiện quân ta nhảy xuống sông. Lại thêm những khu trục bắn hỏa tiễn xuống quanh chân cầu, quyết tiêu diệt đối phương đang rút chạy. Anh em lội theo gầm cầu né đạn, nương mấy mố cầu, lần sang bên kia sông Sài Gòn.

Chín Trí bị trúng mảnh hỏa tiễn ngay mặt, đau nhức nhối, anh bụm tay lên mắt, máu trào qua khe tay, chảy tràn cả cổ. Vừa lúc đó một chiến sĩ gần bên bị trúng đạn gãy chân rời oặt, anh ta la to:

- Anh Chín ơi, tôi gãy chân rồi!

- Ráng lên em, đừng la nữa.

Anh lính trẻ nhìn thấy thủ trưởng tay bụm mắt, máu đỏ túa ra khắp mặt khắp cổ, vẫn tỉnh táo chỉ huy chiến đấu, anh ta không la nữa, cắn răng chịu đau.

Anh em mỗi người mỗi lo vận động nhằm hướng đông lần chạy thật nhanh. Trên người Chín Trí độc một quần xà lỏn, còn sợi dây cột bụng thắt khẩu súng ngắn.

Máu từ trên mặt trên cổ chảy thành vệt xuống bụng xuống lưng trần, nhoe nhoét nhầy nhụa sình đất lẫn máu đầy mình, trông thật khủng khiếp. Một tay bụp mặt máu, anh lao thật nhanh qua vườn cau Bà Cả Minh khu An Phú. Trời đã sáng, anh còn thấy mấy tốp chiến sĩ vừa bị thương vừa cáng thương, đang nhanh chân theo hướng đông về căn cứ.

Chín Trí cũng đi theo, nhưng vết thương khá nặng, phần vì mất máu, vì mệt, vì mảnh đạn đang găm ngay sát con ngươi cứ thốn lên óc nhức nhói giần giật. cả đêm qua vận động, chỉ huy, chiến đấu, xông xáo khắp khu vực cầu Sài Gòn, Hàng Xanh, bây giờ anh không còn nhấc chân lên nổi, đầu óc quay cuồng sa xẩm. Anh vẫn còn tỉnh để nghĩ tới nếu mình nằm xuống đây, chỉ lát nữa thôi sẽ rơi vào tay giặc. Không! Kiên quết không để bị bắt, Chín Trí cố nhoai người, trườn vào phía ruộng lúa đang chín ở bên bờ. Một tay vẫn bụm chặt mắt, một tay với với mấy cây lúa che dấu ngụy trang, rồi thấy người lâng lâng, lịm dần, lịm dần.

Trời đã đổ nắng, anh tỉnh lại thấy mình còn nằm trong ruộng lúa. Vậy là chưa bị bắt. vết thương lúc này mới đau nhức thốn tới tận óc, vừa cấn vừa gai vừa nhức buốt, chắc cái miểng còn nằm đó, con mắt đã sưng vù, mặt nặng đầu nặng không nhấc lên được. Anh lại ngất đi không biết bao lâu nữa. Khi trời đã về trưa, nắng đổ chói chang, đau quá, Chín Trí tỉnh lại vừa đúng lúc có mấy người dân đi trên bờ. Sức sống trỗi dậy bất ngờ, anh cố cất thành tiếng gọi với lên:

- Anh ơi!.. Anh ơi!..

Hình như người kia quay lại, nhìn ngó vào đám lúa có vết người trườn. Chín Trí đặt tay vào cò súng, anh nghĩ nếu là địch đến bắt, thì vài viên đạn còn lại, sẽ sống chết với nó, không để nó bắt sống. Nhưng người kia khi nhìn thấy anh, với vẻ mặt ái ngại, anh ta nói nhẹ:

- Anh cứ nằm đó nghe, lát sẽ quay lại.

Chín Trí ráng giữ cho tinh thần tỉnh táo, không để cho cái đau cái mệt đánh thiếp đi. Chắc chắn không phải là địch, đó là dân, gặp dân là sống rồi, anh đã có hi vọng sống, ráng nằm chờ trong mệt mỏi, đau đớn.

Đến mấy tiếng đồng hồ chờ đợi, Chín Trí đã thấy hai người lom khom đi tới, một anh đi trước nhào tới bên, vực đầu người bị thương lên, cầm bịch sữa đổ cho uống. Chín Trí há miệng uống được liền mấy ngụm. Một anh kia lấy băng ra lau vết thương, băng lại, chích thuốc. Chắc đây là một thầy thuốc cứu người. Máu và nước mắt anh trào ra, máu ở vết thương còn rỉ, nước mắt từ con mắt bị thương và con mắt còn lại đang sưng vù đều ứa ra. Đây là dân, dân thương bộ đội, dân đang vượt qua mọi phong tỏa gắt gao của địch, dân đến cứu anh.

Lúc này là thời điểm quân giặc đang truy lùng gắt gao quân giải phóng đang rút ra khỏi thành phố. Hai người nói nhỏ với Chín Trí:

- Ngoài kia gay gắt lắm, lính đổ tới đầy, anh nằm yên đây nghe, giờ không thể ra ngoài được đâu.

- Để trời tối, sẽ có người ra đưa anh đi.

Hai người kia để Chín Trí nằm gọn lại, lấy lúa phủ lên người bị thương che nắng, rồi lặng lẽ đi khỏi.

Nửa đêm hôm ấy, có mấy người ra ruộng lúa, hai người kè đưa anh đi về hướng đồng Bưng Sáu Xã.

Sau này Chín Trí được biết người y tá cứu anh tên là Chín Trích, còn người ra đầu tiên là Tư Xông(1). Lòng dân với cách mạng cứ đầy vơi mặn mà.

(1) Tư Xông là trưởng công an xã An Phú sau giải phóng

Về đến căn cứ, lực lượng biệt động tập trung lại còn rất ít, Chín Trí mặt sưng vù, đau nhức thấu óc. Sau đó, dân đưa anh đi Quân y qua Truông Tre, Rừng Lá điều trị vết thương, dân thương anh quá, họ trải lá xuống xuồng, đặt anh nằm lên. Dân nuôi anh, dân cứu anh trong những ngày ở đồng bưng như thế.

Quân y cũng không có đủ phương tiện mổ vết thương ở mé mắt để lấy miểng ra, đau nhức rất khó chịu, mặt bầm tím sưng vù như mặt ông địa. Anh Tư Quỳ gắt với bác sĩ quân y, người bác sĩ từ miền Bắc mới vào:

- Bằng mọi giá, mầy phải giữ con mắt cho thằng này, không còn mắt, biết lấy ai thay thế đội trưởng biệt động bây giờ đây!

Miểng nằm quá gần con ngươi, không mổ được. Con mắt sưng không xẹp, cứ mờ dần, mờ dần rồi mờ hẳn. Chín Trí hư mất một mắt. Vết thương vừa chịu nằm yên, anh xin trở về đơn vị tiếp tục làm nhiệm vụ.

Ngay từ phút đầu đêm giao thừa Mậu Thân, quân ta Cánh Đông Nam đã tấn công cầu Sài Gòn, cầu Rạch Chiếc, Tân Cảng, ngã tư Hàng Xanh, cầu Bình Lợi, Bình Quới Tây, Chi khu quân sự Thủ Đức, Liên Trường võ bị, câu lạc bộ sĩ quan ngụy, cầu An Khánh, nhà máy dệt Phước Long- Phong Phú- Liên Phương- Quy Si- Hoa Sa, Tô Châu... quân ta đã làm chủ một vùng rộng lớn. Nhưng không giữ được lâu; gần sáng, địch phản kích mạnh, quân ta hết vũ khí, không có quân tiếp viện, không có đại quân chủ lực tiến vào giải phóng Sài Gòn. Khi đánh chiếm các địa điểm, quân ta hi sinh nhiều. Đến sáng, còn người nào sống sót, đành phải rút lui.

Một con mắt đã mất, cũng phải thời gian sau mới quen với cái nhìn hụt hẫng lệch lạc tay chân. Chín Trí tập làm quen với thương tật để gặp anh Tư Quỳ, anh Ba Long, báo cáo đã hết đau, sẵn sàng nhận nhiệm vụ.

Anh Tư Quỳ, Chủ nhiệm chính trị nhìn người em ái ngại cảm thương:

- Đồng chí còn yếu lắm, điều trị cho khỏi đã.

- Em khỏe rồi, bị thương vầy có ăn nhằm gì đâu.

- Được rồi, từ nay Chín Trí làm Trung đội trưởng, phụ trách Liên quân sự Quận 9, Thủ Đức, biệt động sẽ kết hợp với các cánh công an vũ trang, địa phương quân, du kích. Ba Lắp sẽ làm trung đội phó.

Chín Trí nghiêm trang:

- Thưa anh Tư (Tư Quỳ), thưa anh Ba (Ba Long) tôi xin thề, quyết tử cho tổ quốc quyết sinh...

Cấp trên thấy bộ dạng của Chín Trí lúc nhận nhiệm vụ mà cảm phục. Anh ta còn xanh méc, mới bị thương như thế mà tinh thần thật đúng là khuôn mẫu của người con thành đồng bất khuất.

Sau Tổng tiến công tết Mậu Thân, quân số bị thiệt hại trên phân nửa, vũ khí gần như cạn kiệt. Nỗi đau xót của người chỉ huy là những mất mát xương máu của anh em đơn vị. Nhưng không phải vì thế mà ta chùn khí thế. Những người còn sống, cơ sở, cả người mới bổ sung, cả người cấp trên mới đưa xuống, tất cả đã bắt tay ngay vào việc củng cố lực lượng, xây dựng cơ sở, chuẩn bị cho đợt tấn công tiếp theo. Thời kỳ này, Chín Trí thường đi cùng với anh Đặng Quang, Chánh ủy cánh Nam về xã Phước Long, xây dựng cơ sở ở các hãng sở trong khu vực để chuẩn bị đón vũ khí từ Miền Bắc đưa về, cho đợt tấn công mới: Mậu Thân 2.

Tình hình rất gắt gao, ngày nào Mỹ ngụy cũng rải bom, dội pháo, dã nát khắp vùng. Từ sáng tới chiều, bầu trời mặt đất không lúc nào yên. Sau đợt Tổng tiến công tết Mậu Thân, quân địch kiên quyết càn trắng vùng bưng. Máy bay thả chất độc hóa học xuống hủy diệt cây cỏ sự sống, không để cho Việt cộng còn chỗ trú thân. Vẫn lại pháo bầy, rốc két, đại liên, M79, vẫn thả quân từ trực thăng xuống càn quét. Bây giờ còn ác liệt hơn, tàn khốc hơn. Tất nhiên con người dưới mặt đất sẽ phải chịu thương vong thiệt hại nhiều hơn. Đêm đêm, dân vẫn lén vào vùng bưng cấp lương thực cho bộ đội. Địch rút là dân nhao ra, bất chấp cả bom đạn và những cái chết đến rất dễ dàng. Gạo, thuốc men và thực phẩm nuôi các chiến sĩ còn quan trọng hơn cả tính mạng, người dân Thủ Đức chịu đắng cay bao nhiêu thì lòng chung thủy với cách mạng cũng dày lên bấy nhiêu.

Đại đội biệt động ở Sáu Xã Vùng Bưng đã được củng cố, được bổ sung lực lượng, kết hợp với lực lượng đang phát triển ngay trong các hãng xưởng. Hãng nào cũng có người của ta hoạt động. Hầm hào di chuyển, giữa các hãng Vi Ca Sa, Dệt Phong Phú, hãng Liên Phương, Tô Châu, Xi măng... Dựa vào các cơ sở của ta xây dựng ngay trong các hãng xưởng, quân ta đã nhiều lần đón đánh địch bằng những đòn chí tử, tiêu diệt địch bằng những cơn sấm sét của B40, B41, M79 và AK, tiểu liên các loại từ trên gác xưởng Tô Châu, Liên Phương. Đánh giữa ban ngày, trận đánh ở ngay nơi mà địch hoàn toàn không thể ngờ. Địch biết lực lượng ta đang chiếm lĩnh các hãng xưởng, chúng lại ra sức thả bom, nã pháo, khiến cho các hãng xưởng gần như tan hoang hết, xưởng sập, nhà dân cháy, nhân dân quanh vùng không chịu nổi bom đạn, nhiều người đành bỏ xưởng, bỏ nhà đi.

Mặt trận Thủ Đức vẫn sôi động. Dân công hỏa tuyến vẫn rầm rập suốt đêm, tiếp tế vũ khí, lương thực. Người và vũ khí ngày càng đông đảo lớn mạnh.

Anh Bảy Thông là người phụ trách trinh sát khu vực xa lộ, rất sung sướng khi chạy tới báo tin cho Chín Trí: Ngày nào, giờ nào có đoàn xe chở gì chở gì của địch qua khúc nào của xa lộ. Thời gian ấy, chiến sĩ ta ngày rút xuống đồng bưng, trú ở ngay trong hãng xưởng, đêm đến là bung ra, làm mưa làm gió trên xa lộ.

Mới chập tối, bẩy chiếc xe nhà binh chở toàn hàng quân sự, nghênh ngang trên xa lộ, chúng tưởng như đường này chỉ có xe Mỹ làm chủ, ngờ đâu biệt động đã cho lọt gọn ổ, nổ súng. Loại súng mà chỉ nghe tiếng nổ, chúng đã bạt vía kinh hoàng, loại súng bắn trúng xe, cả xe cháy rụi hết, đó là B40, B41 của Cộng quân. Đoàn quân phục kích chỉ có mười mấy người, đánh chiếm được bảy xe địch. Bọn lính lái xe và áp tải hàng chỉ nghe tiếng nổ đã tông cửa chạy chối chết. Lớp chết, lớp bị thương, còn tên nào thoát chết, trú rúc hai bên xa lộ, bỏ lại toàn bộ xe. Ta chiếm được khá nhiều chiến lợi phẩm, quân trang quân dụng rất nhiều, mang vác được bao nhiêu về căn cứ, vừa sử dụng vừa dự trữ.

Bọn địch qua đây cứ nơm nớp lo sợ, không biết bị chết lúc nào. Chúng kháo nhau:

- “Từ sáng tới trưa qua đây còn có cơ thoát chết, chứ từ xế chiều trở xuống, dễ bị quân Chín Trí nó thịt”.

- Quân thằng Chín Trí toàn loại đánh lỳ, chúng không có gia đình vợ con gì cả nên lăn xả như trâu điên, đâu có biết sợ chết!

Càng thua đau, Mỹ ngụy lại càng điên cuồng mở các trận càn quét, rải chất độc hóa học xuống vùng bưng, lại một phen người và cây cỏ héo khô chết chóc. Nhưng dưới những cành cây khô héo kia, dưới những bãi sình nước vẫn có những con người còn sống, vẫn làm những công sự đắp sình lẫn trong lá khô, che lấp ngụy trang bằng lá khô, vẫn chiến đấu chống trả địch rất ác liệt. Vũ khí đụng vũ khí, con người đụng con người, riêng có một loại vũ khí địch không có, vũ khí đó là ý chí con người đang sống dai dẳng, mãnh liệt, chịu đói khát cực khổ vẫn đánh giặc gan lỳ, địch thua ta ở chỗ đó.

Biệt động Cánh Đông Nam lại một lần nữa phối hợp với Quân khu, Phân khu vào đợt tấn công lần thứ II, tức là Mậu Thân II vào đêm 4-5-1968.

Dưới sự chỉ huy của Tư lệnh Phân khu Hai Nhã, Chính ủy Đặng Quang và Sáu Bảo Phó bí thư huyện ủy. Chỉ huy sở trận đánh đặt tại xã Tăng Nhơn Phú, Phước Long. Còn người trực tiếp vào trận chỉ huy các lực lượng chiến đấu là anh Tư Qùy và anh Ba Long. Các đơn vị tham gia gồm Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 4, Tiểu đoàn 4, Sư 5, Tiểu đoàn 8, Đặc công bộ, Đặc công thủy, Đội biệt động, công an vũ trang, bộ đội địa phương Thủ Đức.

Mục tiêu tấn công đợt hai Mậu Thân của cánh quân phía Đông là đánh chiếm cầu Sài Gòn, đánh chiếm khu Tân Cảng, đánh đồn Bảo an tại khu vườn dừa Bà Cả Minh, đánh ty cảnh sát Quận 9, đánh chiếm cầu Rạch Chiếc. Chặn quân địch từ Biên Hòa xuống tiếp ứng.

Lần này, Chín Trí lại trực tiếp chỉ huy trưởng đơn vị có nhiệm vụ đánh chiếm cầu Sài Gòn, gồm lực lượng đội biệt động và đội đặc công thủy. Lần này, đội đặc công biệt động còn có kế hoạch phá cầu, chặn con đường tiếp viện của xe tăng địch tới từ phía Đông Sài Gòn.

Đúng 11 giờ đêm, tiếng nổ phát hiệu đầu tiên là của đội biệt động nổ súng đánh vào bốt cảnh sát ngay chân cầu Sài Gòn. Trong tiếng súng tấn công như vũ bão, tiếng B40, thủ pháo, AK của quân ta, chỉ nghe lẹt đẹt vài tiếng súng bắn trả của địch rồi im luôn. Quân địch hoảng sợ, yếu ớt chống cự rồi phần thì bị tiêu diệt, một số đầu hàng. Chưa đầy 15 phút quân ta chiếm hoàn toàn đầu cầu Sài Gòn. Mũi nhọn của đội biệt động tấn công lên cầu.Đồng thời với mũi tấn công tiêu diệt đội bảo vệ ở chân cầu, một mũi quân đặc công thủy của đội Chín Trí đã vận động nhanh chóng lội ra mố cầu(1) trèo lên tới mặt cầu gài trái nổ. Một tiếng nổ vang động trên mặt cầu Sài Gòn, tuy không phá được cầu, nhưng đã khoét mặt cầu lủng một lỗ to.

(1) Chân cầu nhịp thứ tư

Trong khi đó, một mũi tiến công của tiểu đoàn 8 từ phía sông Sài Gòn đã tràn lên, nổ súng ác liệt làm chủ trận địa phía bên kia cầu Sài Gòn, tiêu diệt lính bảo vệ cầu, đánh vào Tân Cảng Sài Gòn.

Lần này khác trận tấn công tết Mậu Thân, vừa nghe tiếng súng quân ta tấn công ở đầu cầu Sài Gòn, chừng mươi phút sau, pháo cối và đại liên của địch ở các điểm hỏa lực trong khu vực đã dội về phía trận địa của quân ta. Đã có một số chiến sĩ ta hi sinh và bị thương. Chiến sĩ ta vẫn bất chấp pháo đạn, xông lên cầu như tên bắn, tiến công tiêu diệt địch ở phía bên kia cầu. Địch đã tập trung đội hình, nã đạn pháo ngăn chặn, không cho quân ta tiến lên cầu. Quân ta đang nã cối 82 ly bắn cấp tập sang đội hình địch bên kia đầu cầu, quân địch chết hàng loạt. Đôi bên đều bắn quyết liệt, quân ta trúng đạn pháo địch, cũng đã hi sinh trên cầu khá nhiều.

Chiến sĩ ta dù chỉ còn lại một số người, vẫn kiên cường chiến đấu, đối mặt với các lực lượng địch đang bủa vây. Trên trời máy bay phản lực Mỹ gầm thét, cắt bom. Trực thăng chiến đấu trút đạn xuống như mưa rào, hỏa tiễn câu đỏ trời, bắn không ngơi về phía mặt trận quân ta trên cầu Sài Gòn. Pháo bầy bắn liên hồi chặn đầu, không cho quân ta tiến lên. Nhiều đồng chí ta hi sinh trên cầu Sài Gòn. Xe tăng địch đã tập trung về dày đặc khu Hàng Xanh, bộ binh cả Mỹ cả ngụy đã kéo đến khu vực, chúng dốc toàn lực quyết không cho quân giải phóng từ phía Đông vượt qua cầu tiến vào Sài Gòn. Trên thực tế, mới chỉ có mấy cánh quân mỏng của biệt động, đặc công thủy, một số của Tiểu đoàn 8, Tiểu đoàn 2, quần nhau ác liệt với quân Mỹ ngụy trên mặt trận phía Đông Sài Gòn, nhưng đã khiến cho địch vô cùng hoảng sợ hoang mang, chúng những tưởng sắp tới ngày tận số. Thực tế nào đâu đã có lực lượng đại quân chủ lực của ta tiến công vào Sài Gòn.

Một cánh quân biệt động đã được bố trí từ trước, tạt vào đánh chiếm đồn Bảo an trong khu vườn cau Bà Cả Minh, với 4 khẩu B40, B41 cùng trung liên, AK, hỏa lực toàn những tay súng thiện xạ, đã nhanh chóng bắn cháy rụi hết cả đồn lẫn lính. Chỉ có vài tên nhanh chân chạy ra trước là thoát chết.

Ở phía sau đội quân biệt động và đặc công thủy tiến đánh cầu Sài Gòn là đơn vị Tiểu đoàn 2 đánh chiếm cầu Rạch Chiếc. Cánh quân này đánh nhau với quân bảo vệ cầu và Đội Biệt động quân ngụy rất quyết liệt, lính kéo đến khá đông, quân ta hi sinh nhiều, khi vẫn chưa chiếm được cầu thì đã thấy quân tiếp viện địch trên xe GMC từ phía Biên Hòa băng băng lao xuống. Đương đầu với lực lượng địch mạnh áp đảo, đội hình chiến sĩ Tiểu đoàn 2 hi sinh nhiều.

Lúc này, từ các phía, quân địch tập trung hỏa lực, bộ binh, cả máy bay chiến đấu về ngã tư Hàng Xanh, cầu Sài Gòn, ra sức bảo vệ “thủ đô” của chúng.

Phía Bến Bạch Đằng, cả Dinh Độc Lập đã bị pháo ĐKB của ta câu từ Truông Tre Thủ Đức vào, tiếng nổ đã gây kinh hoàng khủng khiếp thốn óc cả người Mỹ và bộ máy chỉ huy quân đội Việt Nam Cộng hòa.

Trời đông đã hừng sáng, tiếng nổ vẫn ầm ầm cả mặt trận phía đông thành phố, đạn pháo, rốc két nổ, cháy, khói vẫn còn bao trùm cả khu vực.

Lúc này quân địch đã ở thế đang chốt đầu khóa đuôi, cả trên trời mặt đất, dưới nước, khi quân số chúng ta đã hi sinh gần hết, vũ khí đã gần kiệt cạn. Ở thế không thể tiến quân được nữa, chỉ huy mặt trận đành cho lệnh rút quân. Bằng đủ mọi cách, lực lượng ta còn người nào đều tìm cách rút về hướng đông. Bơi lội dưới sông, biền rạch, len lỏi ruộng vườn, chiến sĩ ta đang cố gắng rút về căn cứ. Một bộ phận về Thạnh Mỹ Lợi, một số rút ra Bình Trưng, Phước Long, Tăng Nhơn Phú. Lúc này trời đã sáng, ban chỉ huy mặt trận là anh Tư Quỳ và anh Ba Long được một số anh em bảo vệ, rút về tới đồng Bưng Sáu Xã.

Đội Biệt động còn người nào sống về đến bưng, bắt tay ngay vào việc bảo vệ chỉ huy sở, nhanh chóng đưa cán bộ lên trú ẩn ở hầm hào trong các hãng xưởng. Chuẩn bị tinh thần đối phó với quân địch sắp tấn công sang.

Từ sáng, pháo địch các phía đã giội về đồng bưng nổ rền vang liên hồi. Một phần để chặn đánh tiêu diệt tàn quân ta rút về phía đông, một phần chuẩn bị tấn công sang vùng bưng căn cứ, càn quét cộng quân. Tới 10 giờ sáng pháo vừa ngưng, máy bay trực thăng tung ra vùng Thủ Đức dày như chuồn chuồn, từ bụng trực thăng, lính mỹ, lính ngụy đổ xuống như tuôn, phen này chúng quyết “truy đuổi tàn quân cộng quân tới tận hang ổ”.

Quân ta khi rút về đến căn cứ, một số đã xuống hầm ở các hãng sở khá kiên cố, có cả lương thực và nước uống dự trữ sẵn để né tránh bom đạn. Pháo bắn ác liệt, rải dầy đặc mặt đất, thiệt hại không thể tránh khỏi, nhất là trên đồng bưng là những nơi hầm hào không đào được. Nhà dân tan hoang, tán loạn, hãng xưởng tan tành. Cảnh tượng thật là tàn khốc, thê thảm. Đã có lệnh của anh Hai Trắng yêu cầu cho chỉ huy sở rút lui sang Long Thành.

Chín Trí thấy tình hình căng thẳng, bom đạn quá dày đặc, liền khuyên anh Tư Quỳ:

- Bom đạn đang rất ác liệt trên mặt đất, các anh cứ ở dưới hầm trú ẩn tạm đã, để khi nào êm rồi hãy lên.

Anh Tư Quỳ phân vân:

- Có thể địch sẽ đổ bộ vào đây sau khi rải bom pháo, ta phải đề phòng, tránh đi từ bây giờ.

Chín Trí:

- Lúc này, bộ binh Mỹ không dám vô đây đâu. Nếu ngày mai chúng có vô, lực lượng chiến đấu của ta bám công sự, chúng em sẽ quyết đương đầu.

Nói vậy là để yên tâm, tự thủ, quyết chiến đến cùng, thực ra trong lòng chỉ huy vô cùng lo lắng, họ biết chắc rằng sau hai đợt Tổng tiến công Mậu Thân, địch thua đau, thua cay cú. Trong khi đó chúng thừa biết lực lượng của đối phương đã cạn kiệt, không thể đương đầu. Tất nhiên chúng sẽ không để ta yên.

Chiều tối hôm ấy, khi địch vừa rút, Chín Trí và ba đồng đội đưa anh Tư Quỳ và anh Bảy Thông rời hầm, chuẩn bị rút sang Long Phước, trong tình trạng bom pháo vẫn chưa ngơi, bộ binh địch vừa rút, pháo bầy lại nã về liên hồi. Thật không may anh Tư Quỳ vừa ra khỏi hầm không bao xa, đã bị trúng mảnh pháo, anh bị thương nặng. Chín Trí vội vàng đưa anh quay trở lại hầm cứu chữa, nhưng vết thương vào phổi đã cướp đi mất người thủ trưởng vô vàn kính yêu của anh. Chín Trí đau xót vô cùng, ôm lấy anh Tư khóc! Vĩnh biệt người anh dũng cảm, người chỉ huy tài ba, người mà địch nghe tên đã kinh hồn. Nhớ hồi còn ở mặt trận Bến Cát, địch dùng máy bay đổ chụp xuống nơi mà chúng vừa được thám báo chỉ điểm cho hay tin, “thằng đầu sói” đang ở đó. Chúng lùng sục mãi không thấy, chúng bắt dân tra hỏi:

- Thằng đầu sói đâu rồi, thằng hay sọc tay vô túi quần, cái thằng chỉ huy hay chửi thề “đ... mẹ” kiểu miền Bắc... đâu rồi!

Địch sợ anh, tên anh đã làm cho chúng ăn không ngon ngủ không yên. Chúng treo giải thưởng hàng triệu đồng cho ai bắt được Tư Quỳ...

Đêm hôm ấy, đích thân Chín Trí lấy vải tẩn niệm cho anh Tư Quỳ, người chỉ huy mặt trận Phân khu Cánh Đông Nam trong đợt tiến công Mậu Thân lần hai. Chính tay Chín Trí đào hố chôn anh Tư. Hôm đó là ngày 5-5-1968.

Cả đêm và ngày hôm sau, ở dưới hầm tránh bom pháo rải về khắp vùng Thủ Đức, Chín Trí còn nghe rần rần trên mặt đất. Mấy ngày sau, Chín Trí đích thân đưa anh Ba Long qua căn cứ Phước Long sang Long Thành. Trong tâm trạng buồn đau mất mát, anh Ba Long rất buồn, vì những ngày vừa qua, cuộc tấn công lần thứ hai vào đông Sài Gòn đã cướp đi bao nhiêu anh em đồng chí, trong đó có người chỉ huy dày dạn kinh nghiệm vùng bưng như anh Tư Quỳ.

Lực lượng ta sau hai đợt tấn công vào Sài Gòn, con số hi sinh nhiều lắm, có thể kể đến hai phần ba, số còn lại gần hết lượt đều trầy da tróc vẩy, bị thương sức yếu, vũ khí cũng đã cạn kiệt.

Quân địch lại đang tập trung nhiều lực lượng chiếu thẳng vào vùng căn cứ Bưng Sáu Xã càn quét.

Địch thua đau, chúng điên cuồng càn quét; tập trung mọi phương tiện chiến tranh đánh phá áp đảo cả khu vực Thủ Đức, Quận 9. Lại bom đạn, pháo bầy, bom xăng bom đìa, lại chất độc hóa học rải xuống đây! Chỉ trừ B52, không sử dụng được ở mặt trận này vì gần xa lộ, gần các căn cứ hậu cần Mỹ.

Sau Mậu Thân II, máu người lại nhuộm đỏ đồng bưng. Lại chết chóc và còn tàn khốc ác liệt hơn cả trước. Không còn nhà cửa ruộng vườn, công xưởng, cả một miền biền tan hoang dưới làn bom đạn, dân không còn dám trụ lại, hầu hết đã bỏ đi. Chỉ còn những người chiến sĩ trong bưng ở lại đương đầu. Địch đánh liên miên tàn khốc, ác liệt, đến cái xoong, cái nồi cũng không còn, lò xô để nấu cũng tan nát hết. Như thế, quân ta sống bằng gì, có tồn tại nữa không! Địch đã nhào sình thành nước vùng bưng, đã “Bóc vỏ trái đất”, đã lột màu xanh, đã hủy diệt đến hết sự sống...

Nếu chiến sĩ Vùng Bưng không còn, thì đến đây lịch sử đấu tranh anh dũng của Cánh Đông Nam chấm hết ư! Không, cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp diễn!

Cùng với các đơn vị địa phương quân, các đơn vị mới về tăng cường, chiến sĩ đội biệt động vẫn bám chặt đồng bưng không rời một bước. Không chỉ sống mà vẫn ngày đêm quần nhau với địch, vẫn ác liệt mà còn ác liệt hơn trước. Họ lấy gì để ăn và sống! Dân có bỏ đi phần lớn đấy, nhưng ngày ngày vẫn có những người dân ra vô đồng bưng, bắt cá, thả vịt, mặc bom đạn pháo bầy. Tất nhiên không phải chỉ vì sinh nhai, mà họ lặn lội vào đồng bưng để tiếp tế cho bộ đội. Ông Sáu Phải, ông Sáu Quầy ở Phước Long, vẫn ra vô tiếp tế, vẫn thông báo tình hình tin tức cho anh em. Các bà các má: má Tám, má Bảy, má Hai, cả gia đình chị Năm Lý đêm đêm cứ thấy ngơi ngơi tiếng pháo là gánh cơm nước vô đồng bưng cho bộ đội.

Cuộc chiến đấu dành giật từng vị trí từng mảnh đất giữa ta và địch vẫn dai dẳng suốt tháng không ngơi tiếng súng. Đồng bưng vẫn đang đổ máu. Cuộc chiến tranh tàn khốc quá, cả máu của người Mỹ ở tận bên kia bán cầu, lại lần nữa cùng đổ xuống nhuộm đỏ bưng.

Một thời gian sau, các cánh quân chủ lực từ từ rút đi, chỉ còn địa phương quân, còn biệt động và du kích. Chín Trí lúc này đã lãnh nhiệm vụ chỉ huy quân sự Liên Quận, vẫn bám đồng bưng, tổ chức các trận đánh, tìm ra những phương án đánh, vẫn đánh rất táo bạo. Sống giữa bom đạn pháo bầy, người còn nguyên, không bị thương là điều hiếm thấy. Chín Trí cùng anh Năm Lý đang phụ trách quân sự mặt trận Đông Nam, hôm nay cả hai anh em lên Phân khu đang đóng ở Long Thành họp, báo cáo tình hình vùng Bưng Thủ Đức. Trên đường về đến Tam An, Tam Phước gặp trận càn của Mỹ. Quân địa phương ta ở đây chống càn rất quyết liệt, sau hàng loạt bom pháo quần dập, quân địch từ trực thăng đổ xuống, ta đánh bật lại, địch không vô được trọng điểm căn cứ ta. Chúng đành lui quân, nhưng máy bay phản lực lại ào đến dập bom đìa. Hai anh em Chín Trí và anh Năm Lý núp vào một căn hầm lớn cùng với sáu bảy người nữa. Căn hầm trú bom có vách đất che chắn khá rộng. Tiếng nổ ầm ầm của bom, Chín Trí thấy căn hầm rung chuyển, đất nhào lộn, người cũng nhào theo. Hầm trúng bom. Anh còn kịp nhìn thấy anh Năm Lý tung lên văng ra khỏi hầm. Bom hất anh Năm Lý bay lên vướng trên một cành cây to, người đầm máu, thân thể anh rũ ra, nằm vắt ngang trên đó. Anh Năm Lý chỉ huy quân sự mặt trận vùng Bưng, người chỉ huy đánh liên tục, đánh thần kỳ, tung hoành trên mặt trận diệt ác ôn, mũi tên đồng trên mặt trận Thủ Đức đã hi sinh ngay trước mắt. Chín Trí thấy đầu đau choáng, máu tóe xuống khắp mặt khắp người, một mảnh bom bay xé rách da đỉnh đầu, đục nứt móp hộp sọ, nhưng không hiểu vì sao anh chưa chết, anh chỉ bị hôn mê. Dứt trận bom, du kích địa phương ra moi hầm, Chín Trí được đưa đi trạm quân y. Mê man đến mười ngày sau mới tỉnh, hàng tháng trời cứ lúc tỉnh lúc mê. Bác sĩ nói, chỉ còn nửa hạt gạo nữa, mảnh bom kia đã vào tới óc, may mà nó chỉ xé lủng một đám hộp sọ. Lúc đó anh mới biết căn hầm chết ba người, trong đó có anh Năm Lý, năm người bị thương, trong đó có anh. Nằm ở quân y một thời gian ngắn, vết thương đã lành nhưng đầu còn đau nhức ong ong, hõm mất một đám sọ trên đỉnh đầu, óc não còn nguyên, nên Chín Trí vẫn sống. Đó là thời kỳ tháng 12-1969, còn anh Năm Lý hi sinh ngày 17- 12- 1969.