• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Thủy đạo vùng ven Sài Gòn
  3. Trang 27

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 26
  • 27
  • 28
  • More pages
  • 34
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 26
  • 27
  • 28
  • More pages
  • 34
  • Sau

24Vùng bưng sáu xã nở hoa bốn mùa

V

ùng ven Sài Gòn, hầu hết là kinh rạch sình lầy đồng bưng rừng hoang ngập nước, nơi dân nghèo ven đô sinh sống bằng nghề nông, nghề cắm câu thả lưới, đốn củi đốt than. Từ Nhà Bè, Bình Chánh, Thị Nghè, Thủ Thiêm, Bình Lợi, Bình Trưng, Quận 9, Thủ Đức, miền sa bồi quanh năm nhịp điệu phù sa lên xuống theo con nước lớn ròng. Chính vùng bưng đầy gian khổ khó khăn ấy, là nơi chúng ta đã lập căn cứ cách mạng. Người dân ven đô tuy nghèo nhưng một lòng son sắt thủy chung, nuôi dấu cán bộ. Chiến khu Vườn Thơm đã là căn cứ kháng chiến đầu tiên của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đơn vị hành chính kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Tại Căn cứ Vườn Thơm, ngày 23-9-1945, Chủ tịch Lâm thời ủy ban hành chính Nam Bộ Trần Văn Giầu đã ra bản kêu gọi Nam Bộ Kháng chiến. Những ngày đầu kháng chiến, ở Nhà Bè có một dũng sĩ nhỏ, với bầu nhiệt huyết sục sôi căm thù giặc, đã quấn vải vào người, tẩm xăng dầu, lao vào kho xăng của giặc ở Nhà Bè, đã làm nên “Bó đuốc sống”Lê Văn Tám, ghi dấu vàng son trong trang sử. Vùng bưng nước ngập cỏ lăn Bàu Cò - Láng Le, trong một trận quyết tử quần với giặc, có nhiều chiến sĩ rút chốt lựu đạn lao thẳng vào chết chung với quân thù; tiêu diệt 400 lính Lê Dương năm 1947.

Vùng ven Sài Gòn khói lửa đạn bom, là nơi sinh ra những người con anh hùng. Phát huy truyền thống đấu tranh bất khuất. Vùng ven Sài Gòn trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước còn gian khổ ác liệt hơn trước nhiều, hi sinh cũng nhiều hơn và chiến thắng cũng oanh liệt hơn. Bom đạn khói lửa trong đồng bưng Cánh Đông Nam thành phố là một điển hình. Thật không thể nào tưởng tượng nổi, Vùng Bưng Sáu Xã, một mảnh đất sình lầy lại tan hoang tàn khốc đến như thế. Nơi đây là căn cứ cách mạng, bao nhiêu năm chiến tranh là bấy nhiêu năm căn cứ vẫn tồn tại. Dưới làn mưa bom mưa pháo, cây cỏ đồng bưng nát bấy, đất nhồi thành sình, sình tan thành nước, kéo dài suốt tháng suốt năm, hàng chục năm như thế, chỉ để tiêu diệt cái căn cứ cách mạng vẫn sống dai dẳng trong vùng bưng. Bom đạn như thế, vậy mà cỏ cây và con người ở đây vẫn sống, thật là một điều kỳ lạ.

Pháo bắn đỏ nòng cũng phải nghỉ, bom thả nhiều cũng chẳng ăn thua gì, bắn chán rồi cũng đến mệt mỏi. Anh em du kích địa phương còn nói với nhau: Chắc là Mỹ sản xuất bom không kịp, hết bom, mấy hôm nay không thấy bom pháo rải rữa.

Cứ thấy ngơi ngơi bom đạn, dân lại lần lần kéo về làm ăn sinh sống, lúc một vài gia đình, khi vài chục gia đình, kéo về đồng bưng bám đất sản xuất tăng gia, chăn nuôi bắt cá. Người về là lúa xanh lên từng đám, mì tươi mơn mởn, cà cải rung rinh nở hoa vàng rực đồng bưng. Bom lại dội về, lại tan hoang chết chóc. Bom ngơi, thậm chí ngày bom pháo, đêm vẫn ra bưng sản xuất. Bởi từ xưa nay, có bao giờ tách được người nông dân ra khỏi đồng ruộng. Cây lúa, cây mì, ruộng đất với người nông dân luôn sóng đôi. Địch càn rồi rút, địch rút, có thiệt hại chết chóc bao nhiêu vẫn lại đâu vào đấy, dân lại bung ra sản xuất lúa khoai mì. Kỳ lạ thay, bom đạn như thế, giữa chiến trận ác liệt như thế mà Đồng Bưng Sáu Xã vẫn nở hoa bốn mùa. Đủ biết con người ở đây có sức sống dẻo dai mãnh liệt như thế nào.

Thấy bà con đã về, cây hoa màu đã phủ kín vùng bưng, địch lại tính cách “bình định”. Chúng tiến hành cho xây dựng làng “thương phế binh” mị dân, lôi kéo dân để tách dân khỏi quân cách mạng. Đội Biệt động được chỉ huy bày tìm mọi cách phá, không cho chúng tự do muốn xây là xây. Ban đêm tổ chức cho anh em bí mật vào gài trái, đánh tan xe ủi đất. Anh em còn vác cả ván cốt pha quăng ra sông cho trôi đi, đâm thủng các bao xi măng, đổ vung tóe loe. Phá phương tiện xây dựng, ngày nào cũng phá, phá nhiều lần như thế, đã gây khó cho việc xây dựng không ít. Vận động các dì các chị phát huy truyền thống đấu tranh chính trị của đội quân tóc dài: “Phụ nữ đòi quyền sống”, “nông dân đòi quyền sống”. Liên tục đấu tranh, lần nào cũng đều có kết quả.

Địch vẫn liên tục mở những đợt càn vào vùng bưng, nhưng lần nào vào cũng bị thương vong không ít. Càng ngày lính càng ngán, càng sợ. Có lần Đội Biệt động Chín Trí bắt sống một bo bo quân ngụy, trên đó có bốn tên. Tưởng phen này rơi vào tay Việt cộng là rời đời chết chắc, ai dè đâu chúng lại nghe những lời nói nhẹ nhàng từ người chỉ huy Việt cộng:

- Mấy em quê Thủ Đức phải không! Cấp bậc gì?

- Dạ, dạ thưa! Em là... là...

- Nhà đông anh em không?

- Dạ, nhà em có mình em là trai.

- Đi lính vầy ba má ở nhà hẳn lo nhiều, vào đây sống chết đến bất kỳ lúc nào, có cách gì để khỏi vào chỗ chết này không?

- Dạ tụi em bị bắt lính, hoàn toàn phải tuân lệnh.

- Vào đây bắn giết, cũng người ta cả, con cái mấy mẹ mấy dì ta cả, có thấy sướng tay không?

- Dạ!.. Dạ! Em không dám nữa.

- Hôm nay mấy em bị bắt, không việc gì phải sợ, anh không làm gì hại tới tính mạng bọn em, anh sẽ thả cho mấy đứa về.

Chúng ngơ ngác chưa hiểu chuyện.

- Nhưng với một điều kiện.

- Dạ! Em xin nghe.

Chín Trí nghiêm giọng:

- Lần sau tụi bây có đưa nhau vào đây càn, gặp ghe của các anh, gặp người của các anh, không đứa nào được giơ súng lên bắn nghe chưa?

- Dạ!

- Vào càn thì cứ vào, nhưng không được bắn chết Việt cộng! Nếu không nghe, lần sau các anh không tha đâu. Ai cũng là anh em con cháu người Thủ Đức ta cả, bắn giết nhau làm chi, phải không các em!

Tưởng là nói hú họa thế thôi, chắc gì chúng nghe. Ai dè có một lần, hai chiếc xuồng ba lá trong đó có Chín Trí đang lướt qua kinh thì gặp lính phục kích. Rõ ràng tốp lính phục kích súng lăm lăm trong tay, anh em đã tưởng thế nào cũng ăn đạn, không dè im re không nghe pằng pằng... Ghe vội vàng lướt nhanh, tránh vào lạch nhỏ, bọn lính nằm im không bắn, tên chỉ huy còn đứng thẳng lên nhìn theo cười, mặt sáng ngời trong ánh nắng chiều vàng tươi.

Ở đồng bưng nhiều năm, mọi thời tiết nắng mưa đêm ngày thay đổi, cây cỏ con người, sinh hoạt, riết thành ra thân thiết như một phần không thể thiếu được trong cuộc sống. Bữa ăn thực sự, có đủ cơm canh kho nấu hầu như bấy năm chỉ đếm đủ trên đầu ngón tay. Ráp tháng ráp năm toàn gặp gì ăn nấy, đánh trận căng thẳng thì vắt cơm, miếng gạo rang, miếng khô, vặt kèo lèo nhai, nhịn đói là thường. Rảnh rang thời gian thì nấu cơm, kho cá, gấp quá thì xuyên nướng trui. Cá ở đồng bưng dễ bắt, lội xuống nước là có cá ăn, hố bom, hầm ngách, chỗ nào cũng có cá tôm cua. Nhờ cái chất bổ dưỡng của thiên nhiên, một “kho” thực phẩm hậu cần phong phú của đồng bưng, anh em chiến sĩ thêm phần dẻo dai sức lực.

Có những đợt thưa trận càn của giặc, anh em vào nhà dân như người thân trong nhà, cùng ra đồng cuốc xới làm lúa trồng mì, cùng đánh bắt tôm cá, mỗi người một tay, trổ tài dân vận tạo một không khí gần gũi thân thiết. Có cả tiếng cười tiếng hát dưới ánh trăng thanh giữa đồng bưng những tưởng toàn bom đạn.

Kỳ Chín Trí dưỡng thương ở Chuông Tre, ở ngay nhà bác Ba, bác có nuôi bầy vịt, cứ thấy anh em chiến sĩ tới là mần vịt đãi nhậu. Chín Trí trổ tài làm món tiết canh, ông Ba khoái chí, phán ngay một câu:

- Trời đất ơi! Coi bắt mắt quá ta!.. Tao ưa thằng này quá xá! Tao chọn thằng này làm rể, nó tuy “độc nhãn long” nhưng làm đồ nhậu quá đã.

Ông quay qua con gái, cô gái tròn chặn như hạt mít kia mắc cỡ đỏ mặt, e ngại nhìn Chín Trí cười cười.

- Ưng nó đi con, có nó mần rể, ba được nhờ! Ông day qua Chín Trí cười rất chân thật:

- Mày ưng con gái tao không?

Chín Trí cũng ngượng, cười ngại ngùng, bao năm nay có khi nào được cười được làm duyên với một cô gái. Đời trai đã trên ba chục tuổi đầu, suốt quanh năm ráp tháng lặn lội tả tơi với trận mạc bom đạn súng ống, có lúc nào đâu mà tính chuyện trai gái với cười duyên. Nay được ông Ba cho một câu “ưng con gái tao đi” nghe cũng thấy vui vui thinh thích.

Nhưng không hiểu vì sao! Chắc chưa phải duyên nên chưa bắt mùi. Tại cái tính nhát gái, già đầu rồi vẫn chưa một mảnh tình vắt vai, hay hình bóng cô bạn gái thân thương vẫn còn đâu đây, hình bóng em Thu không dễ dầu quên được.

Pháo bắn vào đồng bưng thường, pháo dội đã thành quen thuộc, bình thường, có khi pháo bắn cả tháng trời. Tụi sĩ quan Liên Trường Thủ Đức còn lấy Đồng Bưng Sáu Xã làm bia tập bắn pháo, tiếng nổ vùng bưng cứ đùng đoàng cả ngày. Thời kỳ đầu, anh em ta thật vất vả với pháo, nhưng sau nhận ra pháo bắn như vậy lại có cái hay. Vì pháo bắn qua đồng bưng liên tục, nên những lúc ấy máy bay không bay đến nhào lộn ném bom. Còn đạn pháo thì đã quen cách ẩn núp né tránh, chỉ trừ phi pháo rót trúng ngay tróc!

Gài trái, đặt chông, bắn tỉa... Đối với vùng bưng, cách đánh này thật là hữu hiệu. Ta dùng sợi dây câu trong suốt, mảnh như sợi vải, cột vào kíp trái mìn, một đầu dây bám vào cành lá vắt ngang. Địch đi ngang qua, vướng vào sợi dây là trái nổ. Kiểu gài trái như vầy có rà soát kiếm tìm cỡ nào cũng khó phát hiện, chỉ khi trái nổ mới biết. Còn hầm chông, dưới đám cỏ lập lờ kia, địch không thể ngờ dưới đó là những cây chông tre nhọn hoắt. Địch rất sợ vào đồng bưng, bởi chưa có lần nào vào đây lại trở về nguyên vẹn. Ngoài những trận bị tiêu diệt không còn một mạng khi gặp đối phương phục kích, còn bị tiêu hao khá nhiều con số vì những hố chông, trái gài. Dân đi vào bưng bắt cá, làm đồng, đều được anh em hướng dẫn tránh né hầm chông, điểm gài trái. Nhưng cũng không tránh khỏi bất ngờ. Trăm trận gài trái cũng có trận dân vướng mìn, đạp chông.

Chuyện gài trái đón địch, có đôi khi cũng ly kỳ, cột dây vào mầm cây, kíp mìn bị giựt nổ. Khi nghe tiếng nổ, mấy người tưởng trúng địch đi phục kích, tới thăm, không thấy xác người hay vật gì hết, lúc đó mới phát hiện ra, tại cột dây trái vào mầm cây, cả đêm ấy, mầm “phát triển” nhô cao hơn đến gần tấc, kéo căng dây, nên gây nổ! Không hiểu hết những tình huống đơn giản ấy, thỉnh thoảng cũng mất oan mấy trái nổ.

Nhiều đêm, anh em chiến sĩ còn ra giúp dân cuốc đất, cấy lúa, trồng mì, còn dựng nhà tạm. Giữa cuộc sống mà cái sống cái chết chỉ trong tích tắc, vẫn có tiếng cười. Vui nhất là lại thấy tiếng cười vui của các mẹ các chị, của những cô thanh nữ. Trong cuộc sống căng thẳng từng giây từng phút, tiếng nói quê hương vẫn ấm lòng người chiến sĩ. Mặc cho có lúc trên mình độc nhất một xà lỏn, mình trần dầy một lớp sình phèn, nhìn sơ cứ tưởng vận áo da, vẫn sống hồn nhiên, sống dẻo dai dân thương bộ đội, nhưng dân cũng nào có bộ thứ hai, vậy mà vẫn nhường cơm sẻ áo.

Người dân vào bưng đi làm, khi nào cũng mang kèm mắm cơm, gói mắm cho các anh, còn vác cả bó tầm vông, mang cho bộ đội vót chông chống giặc. Nhịp sống vùng bưng đâu phải chỉ có bom đạn cày xới và chết chóc. Vẫn còn tiếng cười, những bụm khoai mì, những thửa lúa chín, những bông hoa cải vàng tươi lung linh trong nắng sớm, nhiều nhất là tình quân dân gắn bó thân thương như cá với nước. Cuộc cách mạng đang ngày càng lớn mạnh lên từ những con người bình thường những công việc bình thường hàng ngày như thế.