C
hín Trí nằm bâng khuâng bên cạnh Tám Cá, anh thả hồn về xa xăm. Kể cho Tám Cá nghe mà cứ như những thước phim ngày ấy đang hiện về.
- Anh Chín, anh kể chuyện nữa đi, em thích nghe chuyện của anh lắm.
- Từ đại đội quân chủ lực đang chiến đấu ở Đức Hòa Long An, đơn vị được lệnh hành quân lên Tây Ninh, sau đó anh được lên làm lính Quân Khu Sài Gòn- Gia Định. Năm cuối năm 1962 anh mới 23 tuổi, dù vậy mà đã 7 tuổi quân rồi đó! Vừa quen đất quen người được hơn năm, đang làm tiểu đội trưởng đội bảo vệ Quân khu, cấp trên đã cử anh phụ trách một “đội trồng mì”, đưa xuống Long Thành Bà Rịa. Anh Chín Lê Bí thư trên Quân khu cứ căn dặn đi dặn lại. đây là nhiệm vụ rất quan trọng, phải hết sức cẩn thận, phải hết sức bí mật.
Chín Trí đưa những người ở Củ Chi cả du kích lẫn thanh niên xung phong tình nguyện sang Nhơn Trạch, Rừng Sác, Long Thành. Đoàn quân toàn những thanh niên trẻ, trang bị chỉ toàn dao rựa, vá cuốc; giả danh là những người dân lập rẫy khai hoang trồng trỉa; với Quân khu, đây là đội sản xuất tự cung tự cấp lương thực, trong Ban hậu cần. Nhưng đi lập rẫy trồng mì chỉ là cái cớ! Thực chất là xây dựng cơ sở lập đường dây đón vũ khí, cất dấu vũ khí, vận chuyển vũ khí. Ngày ấy vũ khí của ta được ghe tàu chuyển về Nhơn Trạch, rừng ngập mặn Rừng Sác là nơi trung chuyển vũ khí.
Ngày anh đến Rừng Sác, rừng còn nguyên sơ, cây cối um sùm tầng tầng, lớp lớp. Rừng bao la mà người rất vắng, chỉ có vài nhà dân ở ven sông rạch sống bằng nghề đốn củi đốt than và bắt cá. Rừng Sác là cơ sở, là căn cứ cách mạng. Thời kỳ này chưa có Đoàn 10 ở Rừng Sác, chỉ có một số cơ sở của ta và một số du kích, hoạt động bí mật trong rừng.
Lập một đường dây chuyển vũ khí từ Rừng Sác lên căn cứ Long Thành, Hắc Dịch là nhiệm vụ của “Đội sản xuất”. Đội trồng mì toàn thanh niên trẻ, chưa ai có gia đình, hầu hết lại là phụ nữ, có cô mới 15, 16 tuổi, gian khổ lặn lội rừng ngập mặn, cánh thanh niên như bọn anh đã đành, không tắm giặt cả năm cả tháng không sao, phụ nữ thật không thể nói hết được những gian khổ mà họ phải trải qua. Vào mùa khô, đỡ phải chịu đựng những trận mưa thâu đêm ướt lạnh, mưa ngay đầu, ướt còn hơn cả con khỉ trên cành, nhưng lại khổ vì thiếu nước ngọt. Lại học nhau cách chưng cất nước ngọt để uống. Những ngày đầu, các cô gái nhớ nhà, cứ khóc rưng rức cả đêm. Sau này quen dần, quen với cảnh xa nhà, thiếu thốn đói khát, vẫn cười nói hát hò hồn nhiên như không có chuyện gian khổ thường ngày. Hồi đầu là đội sản xuất trồng lúa trồng mì, trồng bắp thực sự, để đánh lạc hướng bọn do thám chỉ điểm địa phương. Rẫy mì và khoai lang lên nhanh nhất. Mì đã có củ bằng ngón chân cái.
- Vậy là đã có củ ăn, đỡ đói phải không anh Chín.
- Bụng thì đói nhưng không ai nhổ mì ăn đâu nha. Phải nói là ý thức tổ chức kỉ luật tốt hết sức. Quy định mỗi người một bữa chỉ được một củ nhỏ. Quy định vậy thôi chứ ai kiểm soát, vậy mà không ai ăn củ thứ hai, họ chịu đựng hay lắm. Đói là kiếm rau cỏ củ năng củ nần ăn thêm. Mì trồng ra, các cô còn chế biến làm bột khô, chuyển lên căn cứ cho Quân khu.
Từng tổ từng nhóm, đã được phân công nhiệm vụ đi vào Rừng Sác. Đường đi vào rừng hoang mặn ngày ấy còn gian nan lắm, sình lầy có chỗ lún đầu, đi tới đâu phát dây, chặt cây, dọn lùm mới có lối đi. Đoàn người lặng lẽ làm kho vũ khí tạm thời trong Rừng Sác để đón vũ khí.
Tám Cá thắc mắc hỏi:
- Trong rừng thì lấy gì làm kho được ha anh Chín! Nói kho chứ có gì đâu. Chặt thân cây đước, đan xếp ghép vào nhau thành từng lớp, đặt tầng nọ xếp lên tầng kia, năm sáu tầng thân đước như thế, thành một cái sàn, cao hơn mặt nước cỡ gần hai thước để tránh khi thủy triều lên, ngập vũ khí. Xếp vũ khí lên trên để tạm, chờ chuyển lên tuyến trên.
“Đội sản xuất” của anh trong mấy năm liền vận chuyển vũ khí trong Rừng Sác. Vũ khí không biết từ đâu về mà nhiều thế, toàn vũ khí mới cóng, bọc ni lông kín mít không cho nước mặn vô. Có những thùng nặng cả trăm ký, thường cũng cả bốn năm chục ký. Hầu hết đường vận chuyển đi trong sình nước, chỉ có sức người gò mình cuộn bụng mang vác nhoai trong sình nước. Chị em phụ nữ dù yếu ớt là thế, vẫn vác lội băng băng. Có chị vác thùng đạn, hai chân lún sình miệng còn ca vọng cổ. Có khi nhìn thấy vết máu loang trên sình, tưởng ai bị thương, hỏi nhau:
- Mầy bị thương sao?
Một cô ngại ngùng nói nhỏ:
- Không!.. Tao đang “bị” đó mà.
Tiếng cười rúc rích hồn nhiên là nguồn động viên chị em tiến bước.
Không có chút gì gọi là phương tiện vệ sinh cho phụ nữ. Ngày ấy không có băng vệ sinh, thiếu thốn gian khổ đến như thế nhưng không ai nản chí kêu ca, không ai có ý nghĩ bỏ trốn về nhà.
Gần đến Nhơn Trạch có một cái gò, trên gò cây cối um tùm kín đáo. Máy bay có bay ngang cũng không thấy gì. Anh chị em ta đặt tên cho nó là “Gò Tâm Tình”. Cứ đến gò, mọi người lại được nghỉ chân. Ngồi tâm tình, xúm nhau lại ăn củ mì, kể chuyện vui. Có nam có nữ mới nên duyên, đội vận chuyển vũ khí có mấy anh thanh niên, các cậu như điểm tựa, điểm sáng thu hút cánh chị em. Hồi đầu mọi người còn lạ còn ngượng ngùng, sau quen dần, tán chuyện vui như pháo tết. Mọi người nằm kềnh ra gò nghỉ, mệt nhưng không thiếu gì chuyện vui. Một cậu thanh niên lên tiếng trước:
- Em nào tình nguyện lấy anh làm chồng giơ tay lên!
Không một cánh tay… tiếng cười ngặt nghẽo. Các cô làm eo:
- Ai mà thèm, mà giơ tay! Hai Sấu:
- Vậy thế em nào không thích anh, giơ tay lên nào
Chị em cười thích thú. Các cánh tay lại giơ lên hết lượt, cậu chàng hơi ngường ngượng quê quê.
Chín Trí cười vui chữa thẹn cho Hai Sấu, anh nhìn hết lượt, giả bộ buồn:
- Vậy là không em nào đồng ý anh Hai Sấu sao! Chờ các cô gái mỏi rã cánh tay, anh mới chậm rãi:
- Thế em nào đồng ý lấy anh Chín làm chồng thì hạ tay xuống coi!
Không cánh tay nào hạ, cứ giơ mãi, mỏi tay rồi cười như nắc nẻ. Có đứa chạy lại đấm anh Chín:
- Cái anh này, ớt hiểm ghê ta, bắt người ta giơ tay hoài, mỏi hạ xuống chớ ai mà thèm tình nguyện lấy anh!
- Đó, em đó, em hạ tay xuống trước đó…
Cả đám lại cười rúc rích.
Chỉ biết đùa vậy thôi, thực thì không dám, toàn như đám con nít cả lũ, lớn tuổi nhất là Chín Trí cũng mới 22, lại nhát gái, nhỏ tuổi nhất là Út Mót mới 15. Tất cả chưa một ai biết đến chuyện yêu đương.
Vậy mà thùng đạn, bọc súng lớn nhỏ vác được hết. Có thùng cả trăm ký, có bọc hàng năm bảy chục ký vẫn cùng người nhoai trong sình nước, di chuyển trong rừng nước, suốt năm trời vận chuyển vũ khí từ Rừng Sác lên Long Thành Hắc Dịch như thế, Vũ khí được chuyển lên miền Đông biết bao nhiêu không biết, chỉ biết nhiệm vụ và hoàn thành nhiệm vụ.
- Anh Chín kể chuyện cá sấu đi chứ, nãy giờ toàn chuyện mấy cô không hà.
Tám Cá nôn nóng muốn nghe chuyện hấp dẫn nhất: Cá sấu Rừng Sác, nên hối anh Chín.
- Khoan đã, để lần lượt rồi anh Chín kể, đừng hối vội. Để anh kể chuyện một chuyến tháp tùng vũ khí đã:
Năm 1966, nhận lệnh cấp trên, được anh Tư Qùy giao nhiệm vụ, Chín Trí và hai chiến sĩ đội biệt động cùng hai du kích địa phương trên hai chiếc ghe tập trung ở điểm hẹn, chiếc lớn có ba người chèo chống, chiếc nhỏ chỉ có hai người, có cả phụ nữ. Trên ghe có mấy chùm dừa tươi, dừa khô, cả mấy bao trấu. Ghe từ từ vượt sông Đồng Nai, sang Rừng Sác. Mọi người đang chờ đợi. Mặt trời đã xế, ghe ẩn mình trong lùm dừa nước thật kín đáo. Mấy lần bo bo địch ào ào chay qua, sóng đánh táp nghiêng ngả cả ghe mà không bị lộ. Có lần nghe tiếng bo bo, chiếc ghe nhỏ né không kịp, liền được nhấn xuống nước, cho nằm dưới đáy, còn người ngụp xuống bám gốc cây, chờ khi bo bo chạy khỏi lại nhô lên thở. Thấy tình hình êm, anh em còn thong thả lấy cơm nắm ra ăn.
Bỗng phía hạ nguồn kia xuất hiện một chiếc ghe khá lớn, chở khẳm những bao than. Anh em ta theo dõi, ngỡ đó là ghe chở than củi từ miền Tây lên bán.
Bỗng tiếng Chín Trí hô:
- Chuẩn bị làm nhiệm vụ.
Chín Trí rút chiếc khăn xanh trên cổ, hươ hươ, anh như nhảy tưng cả người lên vẫy thật cao, miệng hú hú…
Sao anh Chín nhận ra hay vậy! Mọi người chỉ thấy đây là ghe chở than củi đước! Họ có biết đâu rằng, ám hiệu nhận biết giữa người trên bờ và ghe chở vũ khí tới, chỉ người chỉ huy mới biết. (Chín Trí đã nhận ra chiếc khăn xanh vắt trên dây cột buồm là ám hiệu. Còn nếu ghe kia vào ban đêm, đã có tín hiệu đèn nhấp nháy ba nháy liền, ba nháy liền là trúng).
Ghe lớn lao nhanh vào cửa con kinh, cặp sát vào bờ, lách sâu vô những lùm dừa nước ăn lan ra mặt kinh. Người trên ghe lớn biết rằng đã đến bến đón, người đón mừng vui nở mày nở mặt. họ dồn hết sức chuyển hàng từ ghe lớn xuống xuồng. Từng bọc từng bọc, những tấm bao ni lon kín mít thiệt nặng, trong đó là vũ khí, thứ quý giá nhất, được chuyền tay nhau đưa lên, chuyển xuống nghe nhỏ, xếp lẫn trong những lá dừa và bao trấu… Hai chiếc ghe chở khẳm, vừa hết số vũ khí trên ghe lớn.
Chín Trí tươi cười, mừng thắng lợi:
- Cám ơn các đồng chí vô cùng. Vũ khí này được chuyển đến tay chúng tôi sẽ được việc lắm đây. Xin hứa với các đồng chí, chúng tôi sẽ không phụ công các đồng chí vận chuyển vượt qua bao khó khăn nguy hiểm để đến được đây. Thôi, chào anh em quay về may mắn nghe!
Khúc kinh chỗ đón nhận vũ khí lại bình lặng, hai bên dòng lung linh những tàu lá đong đưa như vuốt ve mặt nước, hình như nước kinh và rừng lá cũng vui theo nhịp đập từ những chiếc ghe khi họ chào nhau, người vượt sông sang phía kia bờ, người vượt kinh lớn ra sông cái rồi xuôi dòng.
Ngày ấy anh chỉ biết mình được nhận công việc đi lấy vũ khí bên Rừng Sác, có lần đưa ghe nhỏ vào kho bí mật trong rừng, có lần sang đón ghe chở vũ khí đến. Mãi bây giờ, anh Chín mới biết, ghe lớn chở vũ khí kia là từ Bình Đại Bến Tre lên miền bưng, lớn nhỏ đều gọi là ghe, còn dưới miền Tây, ghe lớn là tàu. Đội tàu vận chuyển vũ khí nhận từ Tầu Không số mang vào Cà Mau, Trà Vinh, Bến Tre. Lại được các đội tàu nhỏ vận chuyển từ dưới đó lên từng chặng, vũ khí ấy đã đến được tới tay Biệt động Sài Gòn. Những loại vũ khí hiện đại, thuốc nổ TNT, C4, AK, B40, B41, cả pháo, cả DKZ, thủ pháo, hỏa tiễn…Vũ khí còn mới bóng lừ, ngầy ngậy mùi dầu, thơm như mùi nhãn, còn nguyên cả mác nước bạn. Vũ khí ấy vận chuyển len lỏi vào vùng ven, vào trong nội đô Sài Gòn, cho Biệt động đánh những trận kinh thiên động địa từ năm 1963; vũ khí ấy là do Tàu Không số vận chuyển vượt Biển Đông từ miền Bắc vào.