• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Thủy đạo vùng ven Sài Gòn
  3. Trang 30

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 29
  • 30
  • 31
  • More pages
  • 34
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 29
  • 30
  • 31
  • More pages
  • 34
  • Sau

27Cuộc càn "Vén sình tróc gốc"

T

ổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân đợt một, tại đô thành Sài Gòn, Biệt động là đội quân tiên phong, là lực lượng mũi nhọn tấn công đầu tiên, mở đầu những trận tấn công vào các trung tâm đầu não Sài Gòn. Đội Biệt động 66 ở cánh Đông Nam có nhiệm vụ tấn công cầu Rạch Chiếc, đánh chiếm cầu Sài Gòn, khu vực ngã tư Hàng Xanh… Gần như tất cả các vị trí tiến công của đơn vị F100 biệt động Sài Gòn đều đã hoàn thành nhiệm vụ, làm chủ được tình hình, vị trí chiếm đóng, không chỉ chờ đợi một giờ sau đại quân sẽ vào như dự kiến, mà các đơn vị biệt động quyết tử, cố giữ, quyết giữ vị trí chiến đấu, đã chờ đại quân ta hai, ba, bốn, năm giờ đồng hồ sau, từ giao thừa tới sáng... Nhưng đại quân ta vẫn không vào được, không có lực lượng chủ lực ta vào tới nơi.

Có những vị trí như Đại sứ quán Mỹ, 16 chiến sĩ, hi sinh 15. Đánh vào Dinh Độc Lập 15 chiến sĩ, hi sinh tại chỗ 8 chiến sĩ, còn 7 chiến sĩ đến ngày hôm sau nữa bị bắt. Đánh vào Bộ Tổng Tham mưu ngụy 24 đồng chí, hi sinh 12. Đánh Bộ Tổng tham mưu Hải Quân 15 người, hi sinh 14, còn sống sót một lái xe là Năm Râu ở ngoài. Đánh vào Đài phát thanh 11 người, 9 người tấn công đánh vào trong Đài, chiếm giữ, làm chủ, cố thủ, sáng hôm sau 9 người vào trong đều hi sinh hết.

5 giờ sáng hôm sau, đồng chí Tư Chu (Tổng chỉ huy biệt động Sài Gòn Mậu Thân) khi không nghe thấy tiếng nói của quân Giải phóng trên Đài phát thanh Sài Gòn, không thấy đại quân chủ lực vào thành, anh chạy sang Quận 8, gặp anh Trần Bạch Đằng (Lúc đó làm Bí thư Thành ủy), Tư Chu vừa báo cáo tình hình, vừa rơi nước mắt:

- Như vậy là quân của tôi hi sinh hết mất rồi, anh có thấy không, chỉ có mấy người tấn công vào các trọng điểm, lại không có quân tiếp ứng, làm sao họ thoát chết được!

Tổng tiến công Mậu Thân, hầu như lực lượng biệt động bị thiệt hại nặng nề. Có thể nói đơn vị F100 sau Mậu Thân đã gần như bị tê liệt, số ít còn lại phải rút ra căn cứ, căn cứ cũng bị càn quét vô cùng ác liệt. Tiếng nổ trong nội thành Sài Gòn đã lắng xuống.

Sau này, đồng chí Tư Chu đã nói: “Tết Mậu Thân, đơn vị biệt động của tôi, các đội đã dốc toàn lực toàn quân, đã hi sinh gần hết, có lẽ phải tới tám chín mươi phần trăm!..

Riêng cánh quân biệt động Cánh Đông Nam của Chín Trí dù đã bị hi sinh trên phân nửa sau hai đợt tấn công lên cầu Sài Gòn, dù trong ban chỉ huy đội chỉ còn sống có mình Chín Trí, nhưng đơn vị biệt động vẫn nương bám đồng bưng củng cố lực lượng, bổ sung chỉ huy, cùng với các cánh quân của lực lượng quân sự Cánh Đông Nam, Đội Biệt động đã ra sức củng cố lực lượng, vẫn liên tục đánh địch, đánh những trận lẻ tẻ, cũng khiến cho địch chịu nhiều tổn thất nặng nề. Xa lộ từ Sài Gòn lên Biên Hòa nằm kề, nhất là đoạn Tân Nhơn Phú, đêm đêm quân ta lại lên quậy những trạm cảnh sát, phục kích đánh chiếm xe quân sự hậu cần Mỹ, có khi đánh lẻ chiếc một, có lần đánh cả đoàn sáu bảy chiếc. Có khi còn thọc cả vào nội đô gây tiếng nổ. Riêng ở khu vực Phước Long, Tăng Nhơn Phú, một loạt hệ thống phòng vệ dân sự trên bảy hãng xưởng đã bị quân ta lần lượt phá tan, xóa sổ, thu súng, giáo dục, giải tán cho lính về nhà.

Biết rõ Việt cộng vẫn còn hoạt động mạnh trong vùng bưng Thủ Đức. Mỹ đã nhiều lần bắn phá càn quét, bom pháo thả dàn gần như làm trắng vùng Cánh Đông Nam, rồi máy bay rải chất độc hóa học hủy diệt sự sống. Từng loạt máy bay mang “thuốc trừ cỏ” “chất khai hoang” tung mù trắng khắp vùng. Cả một miền cây đang xanh tươi như thế, chỉ mấy ngày sau, lá úa rụi, cành quắt khô. Màu xanh đã bị thay thế bằng một màu lá khô. Cành lá chết, thân gốc cũng chết theo. Bập dừa, cổ hủ dừa, gốc rễ không còn nhựa sống, cũng thối rữa theo, nổi lềnh bềnh trên mặt nước, cả một miền chết chóc. Sau Mậu Thân, bom đạn như thế, dân trong vùng chết nhiều lắm, xí nghiệp cũng tan, nhà cửa tan hoang, ruộng đồng bị xáo trộn. Có thể nói cuộc sống của người dân trong vùng Thủ Đức vô cùng khổ sở.

Nhưng đồng bưng kinh rạch là của người bưng, dừa nước ô rô cốc kèn là của vùng bưng, ghe thuyền đi lại trên dòng kinh là của người dân chài lưới. Làm sao chúng diệt hết được màu xanh cây cỏ và con người trên vùng đồng bưng vốn có sức sống dai mà thiên nhiên đã tạo hóa. Làm sao vũ khí Mỹ hủy diệt được hết sự sống trên đất nước thân yêu của chúng ta. Người xưa còn rạch sơn hà bất chấp kẻ ngoại bang mạnh gấp hàng trăm lần. Ngày nay cũng thế, ta quyết bám đồng bưng, dù có phải chịu đựng gian khổ và hi sinh cũng đánh giặc đến cùng.

“Sở” chỉ huy trong căn cứ, chỉ có đồng chí bí thư huyện được anh em ráp cho một cái đài trong thùng cây, chạy bằng pin govolt, từ ngày có đài cơ quan mới được nghe tin tức tình hình, đôi khi là những mật hiệu truyền lệnh, thông tin, đêm khuya lúc thư thái còn được nghe cải lương, điệu lý, món ăn tinh thần hiếm hoi ngày ấy chỉ có nhiêu đó. Con người sống trong rừng cây khô héo kia vẫn sống, ban đêm, chiến sĩ ta lại bò vào vùng dân hoạt động, nhận tiếp tế. “Tát cạn nước sông Đồng Nai”, ta còn làm được. Kế hoạch “đầu nhọn đuôi dài”, thò đầu nhọn vào quấy nhiễu nội đô, kéo đuôi lên suốt chiều dài xa lộ sông Đồng Nai chặn đánh xe nhà binh, xe hậu cần Mỹ, tỏa ra quẫy nhiễu các căn cứ địch, vào các hãng xưởng vận động công nhân đấu tranh khắp vùng Thủ Đức Quận 9. Nghĩa là phong trào đấu tranh cả vũ trang lẫn chính trị Cánh Đông Nam vẫn lớn mạnh không ngừng.

Tình báo, chỉ điểm đã cho Mỹ biết: Căn cứ Việt cộng vẫn còn tồn tại trong đồng Bưng Sáu Xã Thủ Đức. Nhất là việc Mỹ mất trắng hàng chục ngàn tấn vũ khí trên sông Đồng Nai. Lần này chúng quyết định một trận càn lớn, gọi là trận càn: “vét sình tróc gốc” toàn bộ vùng căn cứ này. Thực hiện kế hoạch quét sạch Việt cộng ra khỏi vành đai với bán kính 50 km, thành vùng trắng, để bảo vệ an toàn cho đô thành Sài Gòn.

Tin tình báo của ta cho biết về âm mưu trận càn, âm mưu hủy diệt vùng bưng của địch sắp tới, phen này sẽ rất quyết liệt, cấp trên triệu tập chỉ huy đơn vị biệt động lên Phân khu, thăm dò tình hình.

Chín Trí thời gian này đã là phân khu ủy viên, là bí thư liên quận: Quận 9, Quận Thủ Đức, phụ trách quân sự. Lần nào về Phân khu trên Núi Bể Bà Rịa họp, cũng được các anh chỉ huy trên Phân khu ân cần thăm hỏi chăm sóc như anh em. Nhất là anh Chín Lê, anh Đặng Quang, các anh còn cho người nấu nước tắm, dặn dò mấy cậu bảo vệ:

- Tụi bây phải chà cho hết lượt cùng người hắn đi, cả năm trời nó ngâm sình, phèn mặt đóng váng dầy trảng, không khác gì da cá sấu. Kiếm bộ đồ lành lặn cho anh ta mặc... Các anh còn cho thâu băng ghi âm lời báo cáo của Chín Trí, nói là để gửi lên cấp trên cho anh Mười Út nghe, lòng Chín Trí càng thêm tự hào vì những gì anh em trong đơn vị mình đang chiến đấu, đang chịu đựng gian khổ và hi sinh.

Chín Trí cảm động lắm, mỗi lần về được các anh chăm sóc, quý mến như anh em ruột, lòng anh thấy ấm áp như được về nhà.

Thời điểm này, vùng Bưng Sáu Xã cực kỳ gian nan và ác liệt. Trước thế trận quyết san bằng lòng chảo của địch, anh Chín Lê đang làm Bí thư Phân khu, trong cuộc họp, anh Chín Lê nhìn Chín Trí người ốm nhách, xanh mét vì mới thêm một vết thương mới trên đầu, anh hỏi thăm:

- Phen này căng lắm đây, hay ta có thể tính đến chuyện tạm thời rút quân sang Long Thành lánh một thời gian đã, chờ dịp khác lại về.

Cái đầu dày dạn kinh nghiệm chỉ huy trận đánh, dầy dạn nắng mưa ngay đầu, từng sống chết với vùng bưng, Chín Trí đăm chiêu suy nghĩ: “Rút lui ư!.. Dù chỉ là tạm thời nhưng như thế là phải chịu thua trước kẻ thù”. “Rút lui, đến khi quay trở lại, phải xây dựng cơ sở, làm lại từ đầu, khi ấy tình hình sẽ ra sao! Lòng dân ắt đã mất niềm tin”.

Không ngần ngại, Chín Trí thẳng thắn đề nghị:

- Không thể rút được, nếu đi hết, coi như ta thua.

- Không phải rút là thua! Để bảo tồn lực lượng, có thể căn cứ Liên quận phải tạm thời rút sang Long Thành!

- Nếu dễ mình ở, khó mình đi, dân nghĩ sao! Chắc chắn bà con và cả anh em mình nữa sẽ mất niềm tin!

Anh Chín Lê hỏi:

- Ở lại có trụ được không?

- Trụ được.

- Bám vào đâu mà trụ? Khi phen này chúng kiên quyết “vén sình tróc gốc”...

- Vẫn có chỗ bám.

- Địch đốn hết lá, phá hết lùm, chỗ đâu bám?

- Đốn hết lá ta bám bập dừa.

- Hết bập dừa bám vào đâu?

- Bám gốc ô rô

- Hết gốc ô rô bám vào đâu?

- Bám dân, căn cứ lòng dân, còn dân là ta còn sống. Chín Trí nói dứt khoát:

- Anh cứ cho chúng tôi ở lại, chúng tôi quyết sống, quyết phải để lại dấu chân mình. Bà con thấy còn dấu chân cách mạng, là còn niềm tin vào cách mạng. Chúng tôi ở lại, bộ đội địa phương và du kích cũng an tâm hơn. Nếu ta rút đi, sau trở lại sẽ khó khăn hơn, hi sinh sẽ còn nhiều hơn.

Anh Chín Lê người cao ráo đẹp đẽ, như người anh thân thương của Chín Trí, anh nắm chặt vai Chín Trí:

- Em giỏi lắm, dũng cảm lắm, quả là xứng đáng khi anh đã đề nghị em làm bí thư Liên Quận. Hoan nghênh đồng chí Bí thư Chín Trí.

Chín Trí giơ nắm tay lên cao tuyên thề:

- Kiên quyết bám trụ chiến đấu, xin các thủ trưởng cứ tin tưởng ở anh em chúng tôi!

Anh Chín Lê xúc động:

- Tôi tin tưởng ở đồng chí, từ ngày biết nhau, hầu như nơi nào khó khăn nhất, gian khổ ác liệt nhất, cũng thấy có mặt đồng chí.

- Anh Chín, cả đơn vị cùng đồng cam cộng khổ để hoàn thành nhiệm vụ chứ riêng gì em.

- Em là người chỉ huy giỏi nhất đó. Lần ông Tư Qùy lấy em xuống vùng bưng Thủ Đức, anh cũng biết rằng vùng Đông Nam lúc đó đang gặp nhiều khó khăn lắm, lại nữa, Mỹ đổ dồn về lập căn cứ bảo vệ cửa ngõ phía Đông Sài Gòn. Đây sẽ là mặt trận rất ác liệt. Quân Khu mấy ổng nói, ông Tư Qùy đưa thằng Chín Trí xuống vùng bưng là chắc, thằng đánh rất lỳ, chuyến này nó lại được chọc trời khuấy nước một phen đây. Đúng là từ ngày biết em, cứ nơi nào khó khăn, chiến trận ác liệt nhất là em có mặt, Chín Trí, em còn nhớ lần xuống Rừng Sác lập đường dây chuyên chở vũ khí cho Quân khu. Quân khu khi giao cho em, các đồng chí ấy đã tin tưởng em sẽ hoàn thành nhiệm vụ.

Chín Trí rất mừng khi được cấp trên tin tưởng.

Lực lượng vũ trang vùng bưng lúc này có khoảng một trăm người: Gồm biệt động, công an vũ trang, địa phương quân, du kích; toàn quân do Chín Trí chỉ huy, chuẩn bị vũ khí và lương thực để chống chọi với một trận càn lớn chưa từng thấy.

Thua đau, muốn nhào vùng bưng hang ổ Việt cộng ra thành nước, địch mở trận càn quyết liệt vào Sáu Xã Vùng Bưng, quyết phen này ra tay: “Vén sình tróc gốc”

Suốt cả đêm 29-2-1971, bom chụp pháo bầy thả dàn bay rợp trời xuống vùng bưng, pháo sáng thả trắng trời. Pháo dội xuống vùng bưng liên hồi kỳ trận, dàn pháo “Tân Tây Lan” rền vang có đến bốn năm ngàn trái nổ ráp vùng. Các cụm pháo đều hướng về đồng Bưng Sáu Xã. Pháo từ Cát Lái bắn sang, từ Liên Trường Tân An Phú đổ tới, pháo từ Hãng Lọc Nước, từ xa lộ, từ Tân Cảng bắn lên. Sáu Thắng tính ra có tới trên 5000 ngàn quả pháo dội. Tan nát một vùng đã xơ xác toàn lá khô bởi chất độc hóa học, nay bom pháo lại xới cho nhàu cả lá khô với sình nước.

Anh em chiến sĩ suốt đêm chịu pháo giội, tưởng như khó bề sống nổi. 4 giờ sáng, Chín Trí đang lo lắng nắm tình hình thương vong của anh em, khi được các tổ báo cáo, anh mới tin. Kỳ lạ làm sao, anh em ta bám gốc dừa gốc mắm tránh né pháo có kinh nghiệm tài tình như thế nào, quân đông, con số có tới cả trăm mà không ai hi sinh, vũ khí còn nguyên, chỉ hư mất mấy chiếc xuồng vì xuồng đã nhấn chìm xuống kinh, nhưng xuồng không biết né pháo.

Đây là trận càn do Liên quân Việt - Mỹ kết hợp đánh vào vùng bưng, quyết trận này “vét sình trốc gốc” “tát nước bắt cá”, đánh cho tới kỳ cùng không còn tên Việt cộng nào sống sót mới rút quân. Đánh cho Việt cộng không còn cơ đi quấy nhiễu các căn cứ trong vùng Thủ Đức, Quận 9.

6 giờ sáng, trời đã sáng rõ, lúc này tiếng pháo đã ngưng nổ, máy bay bỗng đậu ào ào xuất hiện đông như đám ruồi đen cả bầu trời, quần đảo một vòng rồi hạ thấp độ cao, đổ quân. Bỗng lại thấy rần rần các phía Bắc, Tây và Nam, xe tăng thiết giáp bò xuống, đông như cua, bủa vây tứ phía giáp vòng hết vùng bưng. Lính Mỹ đã đổ từ trực thăng xuống ào ào đen đồng, đông như kiến gió bao vây bốn phía xung quanh vùng bưng.

Hai mũi Liên quân cỡ chừng một trung đoàn, đang chuẩn bị đổ quân từ trực thăng xuống Bình Trưng, An Phú Đông. Chúng đổ quân xuống giữa đồng bưng, Khi máy bay còn lượn vòng đang chuẩn bị đổ quân, anh em chiến sĩ đã rút dọc theo kinh Cây Vẹt, đang nương bờ biền, nằm ẹp trong những hốc cây bụi dừa, tay nắm chặt vũ khí chờ lệnh chỉ huy. Máy bay địch đang nối tiếp nhau rà soát nghe rẹc rẹc ngay trên đầu. Lúc này cả bầu trời xuống sát mặt đất, toàn địch; cộng quân chẳng thấy bóng dáng tăm hơi đâu.

Bỗng tiếng hô của người chỉ huy Chín trí:

- Bắn máy bay!

Hàng loạt AK hướng lên theo máy bay nổ súng, trong vòng một phút đầu, ba chiếc máy bay trực thăng bốc cháy, chúi xuống bưng nằm trong lửa khói, hẳn nhiên trong ba máy bay đó không còn tên địch nào sống sót. Địch đã phát hiện vị trí quân ta đang chống trả, lập tức HU1A vòng tới đổ quân. Trên máy bay đổ xuống toàn lính Mỹ, chúng đổ quân xuống biền thưa. Chiến sĩ ta chia từng tổ nương theo bìa biền rậm dọc kinh, núp trong các công sự bằng bập dừa đã chuẩn bị sẵn, đón lính Mỹ từ trực thăng đổ xuống rất đông. Các chiến sĩ nương gốc dừa, nổ những tràng AK chính xác, khiến quân Mỹ không kịp chống trả, nằm rẹc cả hàng. Chiến sĩ ta luồn gốc dừa nước, lần lần lặn hụp trong nước, ẩn hiện không lường, hướng AK về phía địch vừa đổ từ trực thăng xuống, về phía những hàng quân còn đang nhoai nhoai trong sình nước. Cứ như thế, từ 9 giờ sáng tới chiều địch đổ quân từ trực thăng xuống ba đợt, mỗi đợt cả trên chục chiếc, bao nhiêu quân đổ từ trực thăng xuống, bao vây đen cả vùng bưng. Nhưng vẫn không thu được kết quả như chúng tưởng, nhiều toán đã hứng đạn ngay từ khi mới đặt chân xuống bưng, có những toán ăn đạn một hàng, tốp thì đang dàn hàng đã bị bắn tỉa, các mũi quân địch đổ xuống đều bị hứng đạn, tay súng địch cũng nổ súng hàng tràng vào biền rậm, nhưng bắn trả không kết quả bao nhiêu, bởi “Việt cộng ẩn hiện tàng hình chui sình mất dấu, chẳng thấy đâu mà bắn”. Địch chết nhiều, lại thêm hai máy bay HU1A nữa trúng đạn rơi xuống. Khói lửa rền trời, khắp cả vùng bưng chìm ngập khói lửa, chìm trong tiếng nổ.

Đang “chém vè” dưới bưng, nhìn thấy máy bay trực thăng Mỹ cháy mà lòng hả hê. Bỗng thấy một máy bay lên xuống thẳng (loại cần cẩu) bay ngang trên đầu, Chín Trí quan sát, thấy chuyện lạ: Máy bay dừng tại chỗ trên trời, thả dây, đưa một khối sắt tròn dài, đen sì xuống kênh. Chín Trí nói với anh em:

- Chắc là chúng đang bắc cầu qua kênh, chuẩn bị cho bộ binh kéo qua. Ta sẽ chuẩn bị vũ khí đón bộ binh.

Bỗng nghe khối sắt rơi đánh rầm... cả khối sắt nằm trong nước, rồi lại thấy máy bay từ từ kéo khối sắt kia lên. Máy bay đưa cả khối sắt lớn bay đi, vừa tới chỗ trực thăng đang cháy dưới đất, cái khối sắt khổng lồ kia tách bụng, nước ào tuôn xuống chữa cháy cho máy bay dưới đất. Hóa ra đó là cái thùng khổng lồ, Mỹ chế tạo dùng để múc nước, dùng trực thăng đưa đi, mổ bụng thùng xả nước chữa cháy phía dưới. Anh em chiến sĩ lại được một kinh nghiệm chuẩn bị: Lần sau mà gặp loại máy bay múc nước này, sẽ cho nó nằm dưới sình bằng súng AK.

Trời tối dần. Trận địa đã im tiếng nổ. Địch đã rút hết ra vòng ngoài. Anh em chiến sĩ trong đội gom nhau lại, giao liên từng đơn vị báo cáo tình hình cho chỉ huy.

Hi sinh mất bốn đồng chí, bị thương bảy người. Chỉ huy lệnh cho đơn vị nào tự lo băng bó, lo chôn những đồng chí hi sinh. Thi thể chôn vùi dưới sình, không bao không tăng quấn thây. Anh em ai nấy người chết cũng như người sống, độc một xà lỏn, lẫn trong sình, chỉ chừa lại có con mắt và hàm răng. Những thương binh cũng được sơ cứu ngay tại đồng bưng, không một phương tiện, bị thương lúc này thật là thương tâm. Mỗi người đã có một vắt cơm được chuẩn bị từ ngày hôm trước, ăn dằn bụng đói, bởi từ sáng tới giờ chiến đấu ác liệt, không lúc nào ngơi.

Chỉ huy ra lệnh: Thay đổi chiến thuật, tất cả phân tán mỏng, ngày mai sẽ không đánh bằng súng AK nữa để tiết kiệm đạn. Thực ra, nếu cứ đối đầu như ngày hôm nay, vũ khí không nhiều, ta sẽ khó bề ứng phó. Anh em tỏa vào những điểm thiết yếu trong bờ biền gài trái. Ngày mai, nếu chúng tấn công vào, ta không đánh đối mặt nữa, ta đánh bằng lựu đạn gài. Từ xa bắn tỉa, yêu cầu bách phát bách trúng, bắn rồi rút lặn êm, thay đổi chiến thuật, xem ai thắng.

Trận càn Liên Quân Mỹ ngụy lần này, mới ngày đầu chúng đã thiệt hại khá nặng về con số, nhưng không vì thế mà chúng lại dễ dàng rút quân như những lần trước. Chúng đã quyết đánh đến “tróc gốc”, không để căn cứ Việt cộng tồn tại.

Ngày hôm sau, Liên Quân lại tiếp tục đổ quân. Máy bay đổ quân xuống biền thưa, không như hôm trước bị quân ta phục kích đánh ngay từ lúc vừa đặt chân, hôm nay đặt chân mà chưa thấy có lực lượng nào chống lại. Quân Mỹ vừa xả súng bắn tới tấp về bên biền rậm, vừa dàn đội hình, tiến sang biền rậm, vừa tiến vào vừa lục sạo khắp nơi. Không thấy bóng dáng Việt cộng đâu, chúng hả hê vừa dốc lon bia, nước ngọt uống ừng ực vừa cười nói:

- Bảo đảm bọn Việt cộng còn thằng nào là lẩn đi hết rồi.

- Sao bọn nó còn sống được nữa!

Chúng hí hửng tưởng phen này “tróc gốc” đánh bật, không còn cái căn cứ mà bao lâu nay Việt cộng đã bám dai như dây dù mới. Bỗng một tiếng nổ bùm đanh gọn. Hai tên lính Mỹ lăn ra không kịp giãy. Mấy tên khác vừa vớ được cái hũ, nghi là kho lương thực của Việt cộng, chúng vội mở nắp vò, nhìn thấy đúng là vò gạo, vừa lúc trái gài trong đó phát nổ, nắp vò gạo được cột theo một sợi dây, sợi dây giựt ngòi nổ. Chiếc vò chỉ có chút ít gạo phía trên, bên dưới là trái lựu đạn. Lại một tiếng nổ đanh gọn, ba tên lính ngụy chết. Một cành khô vắt ngang, chúng vừa đụng vào đã phát nổ, dây cột ngòi trái được mắc vô hình trên lá khô... Địch cứ đi từng bước là đụng trái mà không biết đường nào né tránh, chỗ này đùng, chỗ kia đoàng, mìn gài cứ thế tự động tiêu diệt địch. Anh em chiến sĩ ẩn núp đâu không thấy xuất hiện, không để lộ một dấu tích, chỉ thấy tiếng nổ cứ tự động phát ra, trái nào cũng diệt được địch.

Lại nữa, tiếng súng bắn tỉa từ xa, phát nào cũng một lính Mỹ chết. Tới gần tối, cuộc tiến công vào hang ổ Việt cộng lần hai không thu được kết quả, Việt cộng không thấy bóng dáng đâu, chỉ thấy xác lính ngụy và Mỹ khiêng ra lũ lượt. Địch lại phải rút hết quân ra phía ngoài, không dám ở lại bưng ban đêm.

Chiến thuật không đối đầu với địch từ ngày thứ hai đã có hiệu quả. Quân ta ở gần đó thôi, chỉ cách chưa đầy cây số, địch không dám lội sâu vào, sợ đụng trái. Biết chắc Việt cộng còn trong biền rậm nhưng không dám vào. Pháo địch cũng không dám bắn, sợ lạc pháo vào quân mình.

Anh em chiến sĩ ngày thì phân tán mỏng, còn tự nấu cơm ăn, nấu bằng lò xô, không khói, không ánh lửa. Chỉ cần một vắt cơm, lăn lộn vật vã đánh giặc từ sáng tới chiều, tối đến lại kiểm đếm con số, vũ khí, lại rút kinh nghiệm, tìm ra cách đối phó với địch trong ngày mai.

Trận càn đã kéo dài đến cả tuần lễ, kết quả vẫn thế, chúng cứ tiến vào sâu trong biền rậm là bị bắn tỉa, đụng mìn, đạp chông, chỗ nào cũng tiếng la tiếng kêu rên. Chẳng bắt được tên Việt cộng nào, còn tiêu hao lực lượng. Trong căn cứ, gạo đã hết sạch, vũ khí cũng cạn dần. Đêm xuống, một số chiến sĩ được phân công, bò vào ấp, lấy vũ khí, lấy gạo, lấy thức ăn, đến các cơ sở nhà dân lấy đạn trái.

Trận càn kéo dài trên mười ngày, địch tràn vào sâu trong biền rậm, vẫn bị bắn tỉa từ tứ phía, đạp trái bất kể chỗ nào, chông nhọn găm dưới cỏ lác, đe dọa đến từng bước đi của địch. Phía địch mỗi lần tấn công vào, dù không đụng Việt cộng nhưng vẫn thấy chết lai rai, thiệt hại đáng sợ. Còn đối phương của chúng, chẳng thấy bóng dáng đâu, lẩn trong sình như trạch, núp trong lùm bắn tỉa bất ngờ như trời đánh.

Biết chắc đối phương kia đêm đêm vẫn bò vào ấp tiếp tế lương thực vũ khí ra bưng, Chỉ huy trận càn Liên quân địch đã có kế hoạch. Chúng đánh chặn các ngả, cho lính chốt giữ, vây thật siết cả ngày lẫn đêm, quyết tâm không để một người lọt qua. Chúng quyết chặn không cho người của cơ sở ta từ ấp mang lương thực ra tiếp tế, không cho một người từ bưng có thể đi lọt vào dân lấy lương thực. Cuộc càn kéo dài đã hai tuần lễ, chúng biết đối phương không còn lương thực, hết vũ khí khi đường vào ấp đã bị chặn, bị bao vây chặt chẽ suốt ngày đêm, chắc hẳn Việt cộng không thể sống khi không còn gì ăn. Một là chết đói, hai là phải bò ra xin hàng.

Trong khi đó, máy bay hàng ngày vẫn quần đảo rà soát khắp vùng bưng, bắn bừa bãi trút đạn vu vơ xuống bất kể chỗ nào. Máy bay phát hiện một chút gì khả nghi, chúng tụ tập quần đảo, lần lượt tuôn đạn xuống như trâu đái. Không phải thần thánh gì mà né được đạn, chiến sĩ mình trần ngâm trong nước, đạn trúng là hi sinh, bị thương, đạn trật vẫn sống. Có khi đạn trút xuống, chỉ thấy máu đỏ nổi lên, người vẫn còn bám chặt gốc cây trong nước... hi sinh.

Quả thật anh em mình rất đói, mấy ngày nay không có hạt cơm vào bụng. Bom đạn ác liệt quá, xáo trộn sình nước đến không còn con cá con tép nào có thể bắt mà ăn sống. Mình trần, lúc nào cũng ướt và đói, anh em ta chỉ có mỗi món kèo nèo nhai sống, cọng non cọng già bứt nhai hết. Mấy ngày sau, cọng già cũng hết, đào cả gốc củ, gặm nhai. Bứt cả đọt cỏ lác, lưỡi mác, nhai nuốt cho có cái lót trong bao tử, lá nào ăn được là nhai, uống cả nước đục lẫn sình thay cháo. Báo hại tiêu chảy rề rề, phân xanh lè, xanh hơn cả phân heo té re. Ai nấy đói xanh mặt, xanh ruột, hốc hác. Cảnh đói khát cứ kéo dài ngày này sang ngày khác, có dễ đến cả chục ngày như thế. Người chỉ còn như nắm xương nhúng sình, hốc mắt trũng hủng, hai má tóp lại, hàm răng nhô ra.

Nhìn anh em chiến sĩ, Chín Trí đau xót vô cùng. Anh nhớ lại lời hứa với anh Chín Lê, hết gốc dừa bám gốc ô rô, hết gốc ô rô bám dân, cách nào chúng tôi cũng sống được, sống bám bưng, chiến đấu với giặc đến cùng. Anh Chín ơi! Không biết bây giờ, đơn vị của em biết bám vào gì để tiếp tục sống nữa đây. Phải quyết sống, không thể chết dễ dàng trước mắt quân thù như thế được.

Đúng là trời sinh voi trời sinh cỏ, con người cũng là voi, bởi người vùng bưng sinh ra là để bưng nuôi, cây bám vào bưng để sống, người bám vào nước vào cây để sống. Anh em chiến sĩ biệt động bị vây trong bưng đã trên 20 ngày, vẫn ăn lá ăn sình để sống. Thân thể có hốc hác xanh lè, nhưng đôi mắt vẫn còn sáng quắc.

Ngày đêm máy bay trên đầu bắc loa oang oang chóa xuống kêu hàng. Rỉ rả cả đêm tuyên truyền kêu gọi nghe đến sôi cả ruột:

- Hỡi anh em cán binh Việt cộng, hãy noi gương Trung tá Trần Trung Hà của các anh... Một là tử thần, hai là chiêu hồi!

- Các anh không thoát được đâu, lần này chúng tôi quyết bao vây cho đến khi nào tróc hết gốc cây vùng bưng, không còn chỗ cho các anh núp, lòi lưng ra. Lúc đó chúng tôi mới rút về!

Suốt ngày nói ong óc, nói nhiều điều rất khó nghe. Sau cùng của màn tuyên truyền, nó lại vặn cái băng ẹc ẹc có tiếng người phụ nữ óc eo: Con ơi, ba con bỏ mẹ con mình đi đâu rồi, con đừng khóc nữa con ơi, rầu ruột mẹ. Không biết giờ này ba con ra sao! Có cả tiếng gà cục tác, tiếng heo đòi ăn éc éc.

Quả nhiên trận càn này dai dẳng không thể ngờ, mọi khi càn chỉ vài ngày là dài, lần này đúng là chúng quyết “vén sình tróc gốc”, quyết giết bằng hết Việt cộng trong căn cứ bưng mới rút.

Sáng sớm, đã thấy một chiếc trực thăng phành phạch quạt gió, trên máy bay tung ra những tờ rơi, bay tá lả trắng lợp vùng. Trên máy bay đang oang oác chói tai:

- Hỡi anh em cán binh Việt cộng, ai cầm tờ giấy này ra, sẽ được đối xử tử tế như một hàng binh bình thường. Ngay sáng nay, từ bảy giờ, ai cầm tờ thông hành này ra đồn Phú Hữu, gặp Ban chỉ huy Liên quân, sẽ có người đón các anh rất nồng hậu..!

- Nồng hậu tổ cha chúng bay, tao lại cho rúc xuống sình bây giờ.

- Em cho nó vài viên nghe anh Chín!

- Không được phí đạn, cứ mặc chúng nó.

Chín Trí nhặt tờ truyền đơn coi thử, toàn lời hứa hẹn, đàng hoàng đón tiếp, hướng dẫn đến đồn trình diện, sẽ được hưởng khoan hồng, được ưu đãi.

Chín Trí động viên anh em:

- Nó vậy là thua anh em ta rồi, bom đạn dày đặc mà không làm gì nổi ta, khắt khe vây hãm như thế ta vẫn chiến đấu, không có ăn ta vẫn sống, không một ai chịu đầu hàng, cái thứ tuyên truyền như thế ăn nhằm gì. Như vậy là nó thua ta rồi. anh em cứ yên trí đi, thế nào nó cũng phải rút quân nay mai thôi.

Những con người xanh méc, mặt mũi hốc hác kia vẫn sống, không một ai bỏ đội ngũ ra hàng, không một người nản lòng muốn bỏ cuộc. Anh em đều là những chiến sĩ quả cảm, anh hùng. Những tưởng còn sức đâu mà sống, nói gì tới chiến đấu, nhưng không, mỗi lần vào trận, sức mạnh tinh thần dồn về đôi tay, súng vẫn dương lên nhắm quân thù, mỗi viên đạn bắn tỉa ít nhất là một tên địch bỏ mạng. Chông mới đã hết, đêm xuống, anh em mò lấy chông đã găm rồi, chuyển sang chỗ khác, lại thêm những tên lính khác đạp chông kêu la rùm trời bỏ mạng.

Cả đơn vị chỉ có mấy chục người, quần nhau với địch trong vòng vây dày những xe lội nước, máy bay, bộ binh, vũ khí địch hùng hổ ào ạt tấn công vào căn cứ đến cả mấy chục lần, quyết “vén sình tróc gốc”, vậy mà vẫn không đạt được mục đích: Tiêu diệt hết Việt cộng trong căn cứ vùng bưng. Địch phải chấp nhận thất bại, có hàng trăm tên lính liên quân Mỹ ngụy bỏ xác, cả máy bay, xe tăng thiện chiến cũng nằm chôn mình trong sình nước.

Cuối cùng chúng cũng phải thú nhận trong một tờ báo đăng: “Trong bưng nước, Việt cộng như “bóng ma”, lúc ẩn lúc hiện, đem cái chết đến cho chúng ta bất kể lúc nào, bất kể ngày đêm, bên trái, bên phải, trước mặt, sau lưng, dưới chân trên đầu đều bị bắn tới tấp mà không thấy bóng dáng một tên Việt cộng nào”.

Sang đến ngày thứ 23, thấy tình hình địch đã có hiện tượng rút quân, hàng rào bao vây có phần lơi lỏng. Ngoài dân đã nhiều người nhào vô trong bưng tiếp tế cơm vắt cho anh em chiến sĩ. Có cơm, sức trai lại dồn về đôi tay, đôi mắt vẫn sáng quắc lòng quả cảm đánh giặc, lại bung ra trinh sát khắp vùng nắm tình hình.

Trinh sát đã về báo cáo, địch đang rút quân, có hai trung đội ngụy đang đóng quân án ngữ ở Cát Lái, tung quân phục kích chặn đường rút quân của ta. Địch cho rằng, sau 24 ngày liên quân siết chặt vòng vây, hẳn Việt cộng không sống nổi, có còn sống sót tên nào, cũng sẽ tìm đường rút vô thành phố ẩn náu.

Chín Trí tập trung anh em động viên tinh thần:

- Các đồng chí, cho đến nay, cuộc càn của Liên quân vẫn không thực hiện được ý đồ “vén sình tróc gốc”, chúng ta vẫn còn đây. Chúng ta một trọi một trăm, vậy mà ta thắng, chúng đã thua. Nay chúng đang rút, ta quyết phen này tống tiễn cho chúng bằng một trận dằn mặt.

Anh em còn chưa hiểu chỉ huy tính dằn mặt địch ở đâu nữa đây. Nhịn đói hàng chục ngày, người nào người nấy da bọc xương, má mắt trũng hủm, xanh như tàu lá, mới ngày hôm qua, được tiếp tế, vừa được hai bữa cơm nắm dằn bụng, sức chưa hồi là bao, nay anh Chín tính dằn mặt nó ra sao đây. Nhưng đã quen rồi, anh em rất tin tưởng ở người chỉ huy, vui vì thắng lợi, vì còn sống, vì lại được tiếp tục đánh giặc, anh em háo hức chờ lệnh.

Chín Trí cho một số chiến sĩ lần vào cơ sở chuẩn bị vũ khí, tổ chức hai cánh quân trên hai chục người, bí mật lần bưng tiến tới Cát Lái.

Hôm đó là chiều thứ bảy, theo thông lệ của những lính thành, lính công tử, tối ấy là ngày nghỉ ngơi ăn chơi, nghỉ cả phục kích, có thằng còn dẫn gái về trại.

Đúng 11 giờ đêm hai cánh quân biệt động đã được phân công nhiệm vụ cụ thể, tập trung quân về trên hai chục người, mang vũ khí bò lên xa lộ, bò sát đến nơi địch đóng quân.

Gài trái DH10 ngay sát trại. Chuẩn bị vị trí đặt B40, B41, AK. Đội hình quân biệt động ta tới sát mà bọn địch vẫn không hay biết gì, anh em còn nghe rõ có đám lính đang nô dỡn với gái lộ liễu dềnh dang.

Chín Trí chỉ huy trận đánh, thấy tất cả đã vào vị trí, liền phát hiệu lệnh nổ súng. B40, B41 phát hỏa đầu tiên. Những quả tên lửa lao vào thiêu rụt mấy khoảng lớn trại lính. Chúng la rùm trời, lớp chết cháy trụi, lớp nằm kêu la, lớp thoát chết chạy ra toán loạn. Ngay lập tức, hai trái DH10 chập mạch nổ đùng...Đùng... Cả trại lính sau tiếng nổ im re hết lượt. Các tay súng AK thanh toán nốt những tên đang tháo chạy.

Hai trung đội Liên quân phục kích, nhằm triệt tiêu chặn đường rút của Việt cộng thế là đã bị tiêu diệt gọn. Anh em ta chứng kiến cảnh chỉ còn có một tên sống sót ôm tay gẫy chạy lao ra. Tới cầu Rạch Chiếc nó lăn ra kêu cứu thất thanh, không biết nó còn sống sót hay chết nốt.

Trận càn của Liên quân Mỹ ngụy đã diễn ra 24 ngày đêm gần trọn tháng 3 - 1971, quyết “vén sình tróc gốc” lóc hết Việt cộng. Cuối cùng chúng cũng phải rút quân trong mối hận thiệt hại phải đau đớn thốt lên: Việt cộng vẫn còn sống nhăn, đó, nó vừa gửi lời chào tạm biệt Liên quân đó, nó ‘‘tống tiến hai trung đội phục ở Cát Lái về chầu diêm vương”. Trận càn “vén sính tróc gốc” vào vùng bưng, Liên quân chết có hàng trăm xác, chết nhiều hơn cả là lính Mỹ đen, hàng trăm phế binh và còn bao nhiêu vũ khí Mỹ nằm trong sình để lại cho Việt cộng.

Lực lượng vũ trang của Chín Trí gom lại, kiểm điểm thấy hi sinh mất 9 đồng chí, bị thương 5 người, được các má các chị chăm nuôi cho lại sức. Anh em có kế hoạch chuyển thương binh về Long Phước rồi chuyển sang Long Thành. Lại tiếp tục cho những hoạt động sắp tới. Sau trận càn, khi mà tiếng bom pháo, tiếng súng đã yên, Anh em vào ấp, động viên dân lại tiếp tục ra bưng trồng lúa, sản xuất lương thực, nối lại liên lạc với các cơ sở, xây dựng cơ sở mới. Mọi hoạt động sinh hoạt của quân dân vùng bưng lại đâu vào đấy. Vùng Bưng Sáu Xã sau những ngày càn tàn khốc lại vẫn trào dâng nhịp đập con nước lớn ròng, sức khỏe chiến sĩ cùng với cây cỏ hoa lá lại từ từ hồi sinh.

Sau trận chống càn, Chín Trí nhận được lệnh lên căn cứ Phân khu báo cáo. Quãng đường đi không bao xa, từ đồng bưng lên Long Thành, nhưng phải lặn lội vòng vèo né tránh căn cứ địch, Chín Trí cùng hai cán bộ chiến sĩ nữa đi hết cả năm sáu ngày trời mới tới nơi. Cùng mình quần áo sình nhàu tơi tả, tóc tai cái dài cái ngắn bê bết sình, chỉ còn hai hàm răng và một con mắt là thấy rõ. Đến nỗi một cán bộ trên Khu rất quen thuộc mà nhìn không ra, ông ta còn hỏi:

- Chú có đi cùng Chín Trí không?

- Em đây, Chín Trí đây anh Chín.

- Trời đất, em đấy sao, Chín Trí đây hả!

Anh Chín Lê ôm chầm lấy Chín Trí, vuốt vuốt những đám tóc bết bùn, anh Chín nhìn người em yêu quý, người đồng chí thân thương mà cảm động, những giọt nước mắt lăn dài trên má. Anh Chín Lê (Lê Đình Nhơn) đang làm Bí thơ Phân khu Ủy, đã nhiều năm nay chứng kiến đội vũ trang biệt động Cánh Đông Nam, đội trưởng Chín Trí là người đánh rất lỳ, rất ngoan cường, đã mang lại cho Phân khu nhiều thành tích vẻ vang. Trận chống càn liên quân Việt Mỹ vừa qua, tưởng như đã bị “vén sình tróc gốc” cả vùng bưng, tưởng như lực lượng biệt động không còn sống nổi trong vòng vây xiết chặt suốt 24 ngày liền. Vậy mà ngày kết thúc, đội quân ấy còn tống tiễn địch, bằng tiêu diệt gọn hai trung đội. Nghe tin Đội Biệt động do Chín Trí chỉ huy vẫn tồn tại qua trận càn, lại đánh thắng, vẫn chốt giữ vùng bưng tới ngày Liên quân rút khỏi. Nay lại tận mắt chứng kiến người em thân thương ốm nhách, như từ dưới sình móc lên, anh không cảm động sao được.

- Chú em này, anh Chín mầy chưa bao giờ khóc đó nghe, nay thấy em, anh Chín cảm phục em quá, anh thương em nên không cầm lòng được.

- Em không sao đâu anh Chín, đến đây gặp được anh là em mừng lắm rồi.

Anh Chín Lê kêu anh em xung quanh:

- Bây đâu, anh Chín nhờ một việc đây. Nấu nước nóng ngay, kỳ cọ chà tróc cho bóc hết mấy cái lớp váng sình phèn trên người nó đi, lấy bộ quần áo mới vận vô, nghe chưa.

- Thôi, em tự tắm được mà.

- Đừng ngại, cứ để anh em giúp. Thấy mà thương em quá.

Chín Trí cười ngượng ngùng:

- Em cũng cả tháng nay không biết tới bộ quần áo khô, cả tháng nay chưa được tắm lần nào...

Tình nghĩa anh em đồng chí đồng đội trong chiến đấu thật thắm tình đượm nghĩa. Sau trận càn Liên quân, gặp lại Chín Trí, anh Lê Đình Nhơn vừa cảm phục vừa thương xót. Anh rất quý trọng Chín Trí, thương như em ruột, anh Chín đã đề nghị lên cấp trên xét tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND cho Chín Trí. Nhưng ngay ngày hôm sau, lại gặp một trận càn của địch xuống vùng căn cứ Long Thành Rừng Sác, quân ta, nhất là bên lực lượng Đoàn 10 chống càn rất quyết liệt, bắn rơi tới 8 máy bay trực thăng, nhưng căn cứ Phân khu lại một lần nữa tan tác đội hình, lại phải chạy khỏi vùng Long Thành lên Biên Hòa. Chín Trí được một phen bảo vệ anh Chín Lê chạy càn. Bom pháo đạn tới tấp ào ạt nổ dày đặc quanh người, hai anh em ngụp lặn, bám gốc cây đước né pháo.

Đến chiều tối, thấy ngơi tiếng nổ, Chín Trí leo lên ngọn cây quan sát, anh gọi thủ trưởng:

- Chúng rút rồi anh Chín ơi, máy bay tới, chắc là hốt quân bay đi rồi.

- Có đúng là chúng đã rút hết chưa?

- Em thấy rõ mà, máy bay đã bay xa rồi.

- Vậy là anh em ta còn sống.

Anh Chín người cao lớn đẹp đẽ, giữa vùng khói lửa chưa tan mà anh cười rạng rỡ, sáng cả rừng cây, anh vỗ vai Chín Trí:

- Phải nói là cả hai anh em mình cùng gặp may mắn mới còn tính mạng. Nhờ cái hên của chú mầy đó!

Hai anh em cùng cười.

Còn bao nhiêu những trận chiến đấu oanh liệt giòn giã chiến thắng mà ta không thể nói hết, viết hết. Quân và dân vùng Đông, Đông Nam Sài Gòn, vùng ven khói lửa, vùng đồng bưng Thủ Đức anh dũng. Cuốn sách này chỉ điểm được vài cuộc chiến đấu của Đội Biệt động Cánh Đông Nam. Họ chịu đựng gian khổ khó khăn, chiến đấu dũng cảm kiên cường bất khuất, hi sinh anh dũng để làm nên chiến thắng, để có ngày 30-4 1975, ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.