L
ịch sử đã lật sang trang, bây giờ đã là tháng 4-1975. Lúc này không chỉ là đánh biệt động trên đồng bưng khói lửa, quân giải phóng đã lớn mạnh, quy mô, chính quy hiện đại, chúng ta đang thắng lớn, đang tiến gần tới ngày giải phóng.
Tháng 4-1975, trên vùng đông nam Sài Sòn, cửa ngõ phía đông thành phố, chiến trận đã xảy ra như thế nào, trước giờ ngọn cờ giải phóng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập!
Trên nóc tòa nhà Đại sứ quán Mỹ, Martin bị sức ép của cấp dưới, đã phải cho đốt bớt những tập tài liệu và đốt bớt “đô la”. Tài liệu gì mà lắm thế, những 14 tấn. Toàn những tài liệu mật của các nhân viên tình báo, bố trí mạng lưới điệp viên CIA ở Việt Nam và các nước Đông Nam Á.
Ngài Đại sứ vẫn còn bình tĩnh tuyên bố trước hàng chục chuyên viên quân sự Mỹ:
- Việt cộng chỉ đến ngoài cửa ngõ Sài Gòn thôi. Việt cộng phải rải quân ra giữ những vùng mới giải phóng dọc miền Trung thì đã mòn hơi rồi! Chưa có khả năng tiến vào Sài Gòn đâu! Lực lượng đâu mà tiến tới Sài Gòn! Người Mỹ phải bình tĩnh, các công chức Việt Nam nhìn vào người Mỹ đó! Vả lại quân đội Miền Nam Việt Nam đã được trang bị đến tận răng, không nhẽ bó tay ngồi nhìn! Sẽ có giải pháp thương lượng chính trị..!
Nói mạnh vậy thôi, người Mỹ đã bắt đầu di tản. Chính ngài Polaga trùm CIA tại miền Nam Việt Nam ngày 7- 4 – 1975 đã vội xếp hành lý riêng, cho vợ mang về Mỹ trước. Và trong tòa Đại sứ Mỹ, ai cũng phải uống rượu mạnh, nhai thuốc an thần cả ngày cho dằn cơn khủng hoảng.
Tháng 4-1975 Bộ Chính trị đặt tên cho kế hoạch mới là Chiến dịch Hồ Chí Minh, để tiến tới thắng lợi cuối cùng. Theo một mệnh lệnh hiệp đồng chung của Ban chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh đặt tại rừng Lộc Ninh – Dầu Tiếng, các cánh quân đều đã vào vị trí xuất phát tấn công. Tiến vào Sài Gòn.
Quân đoàn 3 từ hướng Tây Bắc theo trục đường Củ Chi Hóc Môn
Quân đoàn 1 từ hướng Bắc theo đường Bình Dương Lái Thiêu.
Quân đoàn 4 từ hướng đông theo đường Xuân Lộc – Biên Hòa.
Quân đoàn 2 từ hướng đông nam theo đường Long Thành.
Đoàn 232 từ hướng nam treo trục đường từ Bến Lức Bình Chánh.
Thắng lợi của quân ta lớn mạnh như bão lốc, cuốn dọc các tỉnh miền Trung, đoàn xe tăng của quân ta rầm rộ thẳng tiến về phía nam.
Tiến vào Sài Gòn! Không phải chỉ một mạch trên đà thắng lớn, đoàn quân giải phóng cứ thế mà tiến vào Sài Gòn! Ta hãy điểm vài nét tại mặt trận Cánh Đông và Đông Nam cửa ngõ Sài Gòn. Nơi đây các chiến sĩ quân giải phóng đã chiến đấu vô cùng dũng cảm, đã phải chịu tổn thất hi sinh nặng nề như thế nào ngay cửa ngõ thành đô trong những ngày tiến vào Sài Gòn, cuối tháng 4-1975.
Xuân Lộc là một cứ điểm then chốt ngay trên quốc lộ I, cửa ngõ bảo vệ Sài Gòn. Đây là nơi trận chiến xảy ra ác liệt nhất, vì Sư đoàn 18 của quân đội Cộng hòa đã tử thủ kháng cự rất quyết liệt. Giao tranh nẩy lửa ở đây hai tuần lễ, giam chân và tàn sát cánh quân Quân Đoàn 4. Đến ngày 20-4, khi ta xóa sổ được sư đoàn 18 ngụy ở Xuân Lộc, thì đã có tới 37 xe tăng cùng với 5.000 chiến sĩ quân Giải phóng đã bị tiêu hủy và hi sinh tại đây. Tin tình báo ta biết rất rõ việc tuy Mỹ đã rút về, không viện trợ cho ngụy nữa, nhưng họ vẫn ngoan cố, vẫn lén lút can thiệp, cả bằng võ trang. Rõ nhất là những ngày quân ta tiến vào Sài Gòn tháng 4-1975. Một tờ báo Mỹ đã viết:... Ngày 24-4, một phi cơ Mỹ từ ngoài khơi bắn tên lửa không đối đất Wild Weasel vào đất liền, đã phá một bệ phóng tên lửa Sam – 2 của quân đội Bắc Việt tại khu Bắc Biên Hòa...
Từ cuối tháng 3 - 1975, tướng Weyand, Tham mưu trưởng lục quân Mỹ, đến Việt Nam đề ra tuyến phòng thủ Phan Rang – Xuân Lộc – Tây Ninh để cố thủ Sài Gòn. Chứng kiến Xuân Lộc đã tràn ngập khói lửa đạn bom và máu đỏ những ngày giữa tháng tư. Khi thấy Xuân Lộc giải phóng, máy bay Mỹ đã chở bom CBU-55 và bom Daisy Cautters thả xuống ven Xuân Lộc để tàn sát quân ta, chặn bước tiến đang tràn xuống Biên Hoà - Sài Gòn.
Một tài liệu Mỹ đã viết: “... Ngày 24-4, được sự giúp đỡ của phái viên quân sự Mỹ, một phi cơ Miền Nam Việt Nam đã lắp vào máy bay C130 một loại bom đặc biệt do Marbod và Weyand đưa sang hồi đầu tháng 4. Bom CBU– 55 là loại vũ khí đáng sợ, mới chế tạo, có ba khoang chứa đầy nhiên liệu protan, một hỗn hợp bí mật các loại chất khí và chất nổ. CBU – 55 chưa hề được sử dụng trong chiến tranh. Tướng Homer Smith theo lệnh của Martin, tất nhiên có sự đồng ý của Tổng thống Mỹ, đã cho phép sử dụng loại vũ khí này ở Miền Nam Việt Nam. Ở độ cao 6000m cánh cửa đuôi chiếc máy bay vận tải C130 mở ra, cái dù thăng bằng đeo quả bom rơi vào không trung, một tiếng nổ rền nghe có vẻ dồn nén khí. Một quả cầu lửa khổng lồ bùng lên. Phi hành đoàn kinh sợ nhìn xuống mặt đất. Ít nhất cũng có 250 lính Bắc Việt trong phạm vi bom nổ đã biến thành tro bụi hoặc bị chết ngạt vì thiếu không khí!..”
Còn bom Daisy Cutters là loại bom bảy tấn rưỡi, dùng để san bằng cánh rừng thành bãi trống cho trực thăng đáp xuống đổ quân trước đây, những ngày này cũng được đem dùng xung quanh Xuân Lộc, để “đào giao thông hào, đào kinh ngăn chặn”, chặn đường tiến xuống của xe tăng ta, xem như những cố gắng cuối cùng của Mỹ. Còn nữa, cũng lúc đó Mỹ đã cho đổ xuống khu vực này 21 tấn mũ sắt và quân trang quân dụng. Ở bên nước Mỹ thì Tổng thống Ford và ngoại trưởng Kissinger cứ yêu cầu Quốc hội thông qua khoản viện trợ Việt Nam 722 triệu đô la cho quân sự và 250 triệu đô la cho kinh tế, để giúp Thiệu giữ phần đất còn lại. Nước Mỹ đã không chi! Vì họ biết, ngày Martin rút, ông ta còn bí mật cho đốt đi 2,5 triệu đô la, là vì máy bay phải chở người, chật quá nặng quá, không có chỗ để chở theo những va ly đô la.
Mà dù có bao nhiêu tiền và vũ khí đổ vào Miền Nam Việt Nam lúc này cũng không làm gì được, khi tinh thần binh lính ngụy đã bạc nhược, tan tác..!
Lữ đoàn 316 đặc công biệt động Sài Gòn vừa thành lập tháng 4 năm 1975, có nhiệm vụ đặc biệt là giữ cầu, dọn đường cho đại quân cơ giới của chúng ta tiến vào giải phóng Sài Gòn. Đó là nhiệm vụ chiếm giữ cầu Rạch Chiếc, cầu Sài Gòn. Mất Xuân Lộc ngày 20-4, địch dồn vào tử thủ từ Biên Hòa về thành phố. Nay một đơn vị của ta cỡ tiểu đoàn mà bất ngờ xuất hiện đánh chiếm giữ cây cầu Rạch Chiếc ngay cửa ngõ Sài Gòn là vấn đề rất khó khăn. Nhưng đó lại là nhiệm vụ quan trọng nhất của Đoàn đặc công biệt động 316 dưới sự chỉ huy của Lữ đoàn trưởng Mười Tùng, Lữ đoàn phó Tư Tăng và Chính ủy Lữ đoàn Tư Cang.
Hai đại đội C32, C33 của Lữ đoàn 126 Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được huấn luyện đặc công nước, đào tạo chính quy từ miền Bắc. Trước đó mấy tháng, họ đã cấp tốc hành quân theo đường Trường Sơn xuống Lộc Linh. Hai đại đội nhưng con số chỉ hơn 40 người. Trên vai những người chiến sĩ trẻ khoác một dề hàng trăm kíp nổ Hải quân và những ống thở.
Muốn đến được mục tiêu cầu Rạch Chiếc, chỉ huy Lữ đoàn đã cử người trinh sát kỹ trận địa. Lực lượng địch canh giữ bố phòng bảo vệ cầu rất chắc chắn. Anh em ta phải hành quân bí mật lặn ngụp trong đồng bưng Thủ Đức, lặn ngụp dưới dòng nước nhiều ngày. Người nào cũng ngậm ống thở chỉ nhô lên mặt nước 2cm, đội những lùi cỏ, lục bình, vừa bơi vừa mang theo vũ khí nặng nề. Mỗi người khoác AK và các loại súng bộ binh, bao quanh mình 16 quả thủ pháo, 2 quả lựu đạn, có những đồng chí mang B40, B41 cộng với 10 trái đạn.
Cái khoản lội kinh băng đồng bưng thì không ai bằng quân biệt động thuộc Cánh Đông Nam Sài Gòn.
Nay lại thấy anh em lính đặc công nước của Lữ 126 mang nặng vũ khí di chuyển trong thủy đạo, cũng là đội quân nhà nghề, bơi qua nhiều rạch, lại mang nặng vũ khí, cả hai đội đều đến đúng vị trí ém quân lúc 11 giờ đêm.
3 giờ 15 phút đêm 27-4, các chiến sĩ bất ngờ như những mũi tên nhảy từ mặt nước lao lên cầu. Chiến sĩ Thọ dương khẩu B40 nhằm chòi canh đầu cầu nhả đạn, nhưng vì nằm dưới sình nên trái B40 bắn trệch vút mất. Ngay lập tức anh lắp trái đạn thứ hai, cũng là lúc chỉ huy hô to: Bắn tiếp. Thọ đứng thẳng người lên, nhắm chòi canh, trái đạn B40 thứ hai đã khiến chòi canh nổ tan tành. Anh em ta xông lên, hai bên bắn nhau dữ dội. Thọ đã thấy một số anh em đồng chí ngay bên cạnh hi sinh, nhưng nhiệm vụ chiếm cầu là trên hết, không thể cứu chữa thương binh hay ngại hi sinh, cứ thẳng tiến như mũi tên đã tách khỏi nỏ, chạy như bay lên chiếm cầu. Sau một tiếng đồng hồ giao tranh nẩy lửa, địch hoảng loạn bất ngờ, chúng tháo chạy tán loạn khỏi vị trí. Ta đã chiếm hoàn toàn cầu Rạch Chiếc, bắt sống 7 tù binh ngụy. Trên trời, máy bay loạn xạ, có cả máy bay thả bom, địch tính cắt cầu Đồng Nai, cầu Rạch Chiếc, cầu Sài Gòn, hòng ngăn chặn đoàn xe tăng của quân Giải phóng đang trùng trùng từ hướng Bắc tiến về Sài Gòn. Dưới đất thì các hỏa lực cả của địch cả của ta đang ra sức triển khai, tiếng pháo bắn máy bay, tiếng đại bác, tiếng bom rung chuyển cả trời đất. Lại xen lẫn có cả những chiếc máy bay di tản từ phía Tân Sơn Nhất cất cánh bay ra phía biển, có chiếc bốc cháy trên bầu trời đêm, thật là một cảnh tượng nháo loạn trời đất đêm ngày 27-4-1975.
8 giờ sáng, các lực lượng địch từ nhiều phía bắt đầu phản công rất mãnh liệt về phía cầu Rạch Chiếc. Máy bay trên trời bắn xuống, tàu chiến với những hỏa lực mạnh từ sông Sài Gòn bắn lên, bộ binh thiết giáp pháo binh từ hai phía bắn vào. Trận chiến nảy lửa kiên cường của những người chiến sĩ đặc công với địch trên cầu Rạch Chiếc, kéo dài từ 8 giờ sáng đến hơn 3 giờ chiều. Pháo chụp pháo bầy nổ tung trận địa. Địch đã đánh bật được quân ta, chiếm lại cầu Rạch Chiếc. Anh em chiến sĩ ta được lệnh rút khỏi cầu Rạch Chiếc. Lực lượng ta ít ỏi, vũ khí mang theo người không là bao nhiêu nên hết cách chống trả, hầu hết chiến sĩ ta hi sinh ngay trên cầu khi quyết giữ trận địa, trước khi có lệnh rút xuống nước.
4 giờ chiều 28 tháng 4, địch đã chiếm lại cầu Rạch Chiếc.
Một số chiến sĩ còn sống sót lặn xuống sông, rút ra khỏi cầu vài trăm mét, cố thủ trên bờ rạch. Đêm xuống ta lại củng cố lực lượng, bổ sung người và vũ khí, tiếp tục bơi lại gần cầu, tấn công lên đánh chiếm cầu lần thứ hai. Lợi thế thuộc về quân địch, quân ta tiến công lên cầu từng mũi, từng tổ. Chúng cứ liên thanh nhắm vào quân ta đang ở dưới dòng nước ngoi lên mà bắn.
Quân ta hi sinh nhiều quá, bao nhiêu người hi sinh, chìm xuống dưới chân cầu Rạch Chiếc. Cuộc tiến quân lên chiếm cầu lần thứ hai vào đêm 28 tháng 4 lại thất bại, quân ta không chiếm giữ được cầu. Các chiến sĩ cảm tử đoàn đặc công 316 hi sinh ngay trên cầu Rạch Chiếc, hi sinh ngay trên dòng nước chảy dưới chân cầu, chìm dưới chân cầu Rạch Chiếc. Nguyễn Văn Thất đánh cản giặc phía sau cho anh em rút, bị giặc bắt được, chúng chặt đôi người anh vứt xác hai nơi dưới bãi cỏ sình lầy dưới chân cầu Rạch Chiếc. Nguyễn Văn Minh đi cùng chính trị viên Thẩm, Minh bị thương mất nhiều máu, sức yếu dần anh bị bắt, chúng lấy súng giáng gẫy hai hàm răng, sau đó chúng mổ banh bụng moi gan ruột phơi ra. Máu các anh đổ loang đỏ trên mặt cầu khi quyết chiếm giữ cầu Rạch Chiếc. Một chiến sĩ lúc sắp chìm dưới sông còn thảng thốt kêu lên:
- Mẹ ơi, mẹ ơi! Cứu con!...
Anh tên là Chiến, anh còn trẻ quá!
Cả ngày 29-4, pháo địch bắn dập suốt dọc sông và hai bên bờ Rạch Chiếc. Chiến sĩ Thọ nằm ôm gốc dừa, pháo nổ đánh bật cả gốc lật tung lên, tưởng ít nhất cũng bị thương, nhưng thấy không việc gì. Một số anh em sống sót, nương theo bờ sông Rạch Chiếc, lui về căn cứ xuất phát, để chuẩn bị cho đợt tấn công tiếp theo.
Các chiến sĩ đặc công đoàn 316 đánh chiếm giữ cầu Rạch Chiếc, bám nước bám gốc cây bụi cỏ, bám cầu, giữ cầu bằng bất cứ giá nào để đón đại quân thiết giáp của chúng ta đang rầm rập tiến về Sài Gòn. Các chiến sĩ đặc công anh hùng đã hi sinh ngay cầu Rạch Chiếc. Các chiến sĩ đặc công hải quân, các anh đã không bao giờ còn được nhìn thấy đường phố Sài Gòn nữa rồi! Các anh có biết đâu, chỉ còn một ngày nữa thôi là giải phóng!..
Hầu hết đại đội đặc công nước được bổ sung vào Lữ đoàn đặc công biệt động 316 là những thanh niên người xã Quảng Yên, huyện Quảng Xương Thanh Hóa. Viết đến đây, tôi khóc...
Khóc những người cùng lứa tuổi như tôi
Chiến tranh khói lửa một thời đạn bom
Ra đi từ thuở còn son
Mấy ai đã biết nụ hôn là gì
Họ đã nằm xuống giữ lấy cây cầu Rạch Chiếc, ngay cửa ngõ Sài Gòn, máu các anh đã nhuộm đỏ ngọn cờ giải phóng chỉ ít giờ sau đó đã tung bay trên nóc Dinh Độc lập, báo hiệu đất nước ta được hòa bình thống nhất.
Đêm ngày 29 - 4, đoàn đặc công được lệnh của chỉ huy, quyết tâm bằng mọi giá tập trung dồn hết lực lượng đánh chiếm bằng được cầu Rạch Chiếc. Thay vì tấn công lên chiếm cầu vào lúc 11 giờ đêm như lần trước, nhưng chiếm sớm sợ địch lại tập trung lực lượng chiếm lại cầu như hai lần trước; chỉ huy và các chiến sĩ ta quyết định cứ nằm im ém quân chờ, để đến tận 3 giờ 30 phút sáng 30-4, đoàn đặc công mới tấn công lên chiếm giữ cầu.
Lúc này, địch cũng đã rệu rã hết, sức chống cự không còn quyết liệt, lớp chết, lớp bỏ chạy tháo thân. Cũng mất hai tiếng đồng hồ giao tranh, đến 5 giờ 30 sáng, ngày 30-4 quân ta đã chiếm hoàn toàn cầu Rạch Chiếc. Chiếm được cầu, các chiến sĩ bám sát giữ chặt lấy cầu đến hai tiếng đồng hồ như thế, để đến 7 giờ 30 sáng đó, ngày 30 - 4, đón chiếc xe tăng đi đầu thuộc Lữ đoàn tăng 203, Quân đoàn 2, rầm rầm băng qua cầu Rạch Chiếc, đang thừa thắng xông lên tiến vào Sài Gòn.
Ngày 27, 28, 29-4, trên cầu Rạch Chiếc phía Đông Sài Gòn, để hoàn thành nhiệm vụ chiếm cầu, giữ cầu bằng được, đón đại quân ta, đón đoàn xe tăng tiến vào giải phóng Sài Gòn, trên 50 chiến sĩ đặc công của chúng ta hi sinh và bị thương tại đây, ngay trên mặt cầu và dưới chân cầu, chỉ trước có vài giờ đồng hồ, các anh đã không được vào tới Sài Gòn, không được nhìn thấy lá cờ giải phóng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập 11 giờ ngày 30-4-1975.
Bốn mươi năm rồi bên cầu Rạch Chiếc
Sông vẫn còn in hàng dừa biếc năm xưa
Con nước đầy vơi tha thiết đợi chờ
Thèm nén nhang thơm, thèm màu xanh cây cỏ!
Dưới đáy sông bạn tôi đang nằm đó
Ơi Thất, Minh, Nho, Quang, có phải Chiến, Việt, Thành...
Các anh nằm đâu! Không nấm mồ vô danh
Không mồ dưới đáy sông, khắc vào đâu tên tuổi.
Dưới chân cầu Rạch Chiếc, vẫn còn đang nhức nhối
Trái tim đồng đội, trái tim tôi người cầm bút viết về anh!..
Sau này có người hỏi Chính ủy Lữ đoàn 316 Tư Cang: Tại sao đánh chiếm cầu Rạch Chiếc từ đêm 27-4? Chiếm cầu sớm như vậy, rồi không giữ được cầu, để thương vong nhiều chiến sĩ... Chính ủy cười nhẹ: Nếu không bị mắc ở căn cứ Nước Trong ba ngày, thì đoàn xe tăng 203 của Quân đoàn 2 Tướng Lê Trọng Tấn đã vượt qua cầu Đồng Nai, qua cầu Rạch Chiếc ngày 27-4 rồi! Không chiếm cầu ngay đêm 27, lấy đường đâu cho xe tăng ta qua!..
Không phải dễ dàng chỉ một mạch, thần tốc, thần tốc hành quân xốc tới, tiến vào Sài gòn..! Khi Quân đoàn 4 bị chặn đánh ở Xuân Lộc cả chục ngày trời, với tổn thất hi sinh rất lớn, bên cánh Quân đoàn 2 của ông Lê Trọng Tấn phía Long Thành cũng gặp nhiều cản trở.
Suốt ba ngày hôm trước: 26-27-28/4, Tiểu đoàn xe tăng của Quân đoàn 2 đã quần nhau với tăng địch tóe lửa ở căn cứ Nước Trong. Địch quyết tử thủ, cuộc chiến ác liệt suốt từ 17 giờ ngày 26-4 đến chiều 28-4 quân ta vẫn không đánh được. Xe tăng ta tấn công lên, đạn đại liên địch bắn chặn, xe tăng ta lật tung, mất sức chiến đấu gần hết, chỉ còn sống sót lại có 2 chiếc!
7 xe tăng của Đại đội 4 Tiểu đoàn 1 Quân đoàn 2, nhận lệnh tiếp tục vào chiếm căn cứ Nước Trong. Cả đoàn xe đã ào ạt tấn công. Sấm chớp bão lửa rền trời, xe tăng địch lồng lên như những con trâu điên, đạn pháo ác liệt như sấm chớp trong cơn cuồng phong bão lửa. 7 xe tăng của Đại đội 4 còn dũng mãnh hơn, cùng với 2 xe còn lại của Tiểu đoàn 2 còn sống sót, tấn công như thần sấm sét cũng lồng lên nhả đạn. Những cánh tay thép, lái xe tăng quần ngang quét dọc xông xáo trong bão đạn, chiến đấu ác liệt suốt 5 giờ đồng hồ liền, từ 7 giờ sáng 29-4 đến 12 giờ trưa hôm ấy, Đại đội 4 với 9 xe tăng đã thanh toán hết sạch căn cứ thiết giáp, giải phóng toàn bộ căn cứ Nước Trong.
Ngay lúc khói súng đạn pháo còn chưa tan, nòng pháo còn nóng bỏng, toàn đơn vị đại đội xe tăng được lệnh của Tiểu đoàn trưởng, tất cả chuẩn bị hành quân, tiến về Sài Gòn. Nhận lệnh cấp tốc hành quân chiến đấu, các chiến sĩ ta không biết Sài Gòn còn bao xa nữa, và nào có biết ngày mai giải phóng! Tất cả đã sẵn sàng! Anh nuôi không kịp nấu cơm, mà có nấu được thì lại phải vắt chân lên cổ, vác cả bao cơm nắm lên xe chạy đuổi theo đoàn quân để đưa cơm. Chưa bao giờ lại thần tốc như lúc này. Được lệnh trên “Tranh thủ từng giờ từng phút xốc tới mặt trận”, chiến sĩ xe tăng không có thời gian để ăn. Xe tăng 390, bốn anh em trên chiếc xe tăng 390 có hai người cùng quê tỉnh Hải Dương với tôi.
Anh Vũ Đăng Toàn, trung úy Chính trị viên Đại đội 4, chỉ huy xe tăng 390, Nguyễn Văn Tập lái xe tăng. Ngô Sỹ Nguyên và Lê Văn Phượng pháo thủ.
Bốn anh em mấy ngày này không có bữa cơm nào, được mấy nắm cơm anh nuôi phát cho, lúc xông xáo đánh căn cứ Nước Trong đã văng đâu mất sạch, mấy ngày không ăn nhưng không ai thấy đói, không ngủ cứ được lệnh hành quân chiến đấu là xốc tới, quên hết cả mệt cả đói.
Vừa chuẩn bị hành quân thì nhận lệnh tạm nghỉ..! Toàn thắc mắc:
- Vì sao vậy! Sao lại dừng!
Hóa ra cầu Sông Buông vừa bị địch đánh sập, với mục đích ngăn chặn bước tiến công của xe tăng quân ta. Cầu sông Buông cách ngã ba Vũng Tàu mấy cây số về phía Long Thành. Phải mất 4-5 tiếng đồng hồ chờ đợi, đoàn công binh mới khắc phục được. Cũng vì lý do đó mà xe tăng đại đội 4 mới có thời gian ăn uống nghỉ lấy sức sau mấy ngày nay toàn hành quân và chiến đấu, tranh thủ từng giờ từng phút xốc tới mặt trận.
Một giờ đêm 30-4 vượt qua cầu ngầm sông Buông ra ngã ba Vũng Tàu tiến về Sài Gòn. Tiểu đoàn 1 thuộc Lữ đoàn xe tăng 203 lúc này có tất cả 22 xe, chia làm 3 đại đội. Đại đội 2 và 3 đi đầu, đã gặp phải sức kháng cự quyết liệt của địch ở các tụ điểm hỏa lực dọc đường hành quân, từ ngã Ba Vũng Tàu, đến cầu Đồng Nai, nhất là ở đoạn cầu Rạch chiếc. Trên xa lộ, nhiều xe của ta bị trúng đạn nằm bốc cháy. Anh em thương binh và xác đồng đội hi sinh còn nằm la liệt ngay trên mặt đường, ngay trên cầu Rạch Chiếc. Trận chiến giữ cầu Rạch Chiếc vừa mới xảy ra cách hai giờ đồng hồ. Xe tăng ta phải dừng, chiến sĩ chạy xuống lôi đồng đội vào mé đường, sơ cứu vì... không thể cán lên xác anh em mà tiến.
Rầm rập tiến qua cầu Rạch Chiếc, đoàn xe tăng Đại đội 4 tiến đến ngã ba Cát Lái, trận chiến vẫn còn xảy ra rất ác liệt, khói lửa còn ngùn ngụt. Địch vẫn quyết chiến chặn đường tiến công của xe tăng quân Giải phóng tiến về cầu Sài Gòn. Từ sông Sài Gòn, pháo ở tàu hải quân ngụy bắn lên ào ạt, máy bay trên trời lượn bắn xuống, thả bom chặn đánh đoàn xe tăng. Đoàn xe tăng của Đại đội 2 và 3 đi đầu đã gặp sức kháng cự chặn đánh của địch. Đến đây 16 xe tăng đã bị trúng đạn, chỉ còn có một xe sống sót. Bộ binh cũng bị tổn thất nặng nề, đội hình xe tăng tan tác, một số xe tăng lao xuống nằm bất động ven xa lộ. Thương binh và đồng đội hi sinh còn nằm trên mặt đường, trận địa ngay cửa ngõ Sài Gòn ác liệt, thảm khốc như thế đấy. Hai đại đội 16 xe tăng đã hi sinh hết, Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn tăng 203 cũng đã hi sinh tại đây..!
Tiểu đoàn phòng không của Quân Đoàn 2 bắn trả máy bay quyết liệt, đến lúc này đội hình máy bay địch toán loạn, dội bom không còn trúng cầu Rạch Chiếc, cầu Sài Gòn, không trúng đội hình xe tăng. Trên mặt xa lộ, suốt từ cầu Đồng Nai, cầu Rạch Chiếc, cầu Sài Gòn, sau khi thất thủ ở Xuân Lộc, địch đã đắp ụ, khuân những phy cát chắn tăng. Xe tăng của Đại đội 4 vừa chiến đấu bắn trả địch, vừa cho xe tăng xông lên. Ngay đoạn từ ngã ba Cát Lái đến chân cầu Sài Gòn, đoàn tăng của đại đội 4 cũng phải chiến đấu quần nhau với lực lượng tử thủ của địch hàng tiếng đồng hồ, các loại vũ khí của địch từ các ụ điểm phòng thủ hai phía Thảo Điền và An Khánh bắn ra cố tình cản đoàn xe tăng của quân ta. Chỉ còn 6 xe tăng của đại đội 4 (6 xe sống sót, trong số 22 xe tăng), tiến lên cầu Sài Gòn.
9 giờ 30 phút, sau khi tung hoành trong bão lửa và bom đạn, đoàn xe tăng Đại đội 4 sáu chiếc, hiên ngang chạy lên cầu Sài Gòn.
Vừa qua cầu Sài Gòn mấy trăm mét, tới ngã tư Hàng Xanh, lại thấy có một xe thiết giáp của địch nổ súng vào đoàn xe ta. Pháo thủ số một trên xe tăng 390 là Ngô Sỹ Nguyên, chĩa nòng súng, bắn một phát diệt gọn chiếc xe này. Đường phố Sài Gòn đây rồi ư! Các anh vui sướng lâng lâng trong cảm xúc trào dâng, một cảm giác của mơ ước và niềm tin, đây có phải là sự thật không!
Đoàn xe tăng của Đại đội 4 ngừng ở ngã tư Hàng Xanh, Đại đội trưởng Bùi Quang Thận, Chính trị viên Vũ Đăng Toàn đang tìm hướng tiến. Đường phố vắng người, cửa đóng kín mít vì chiến cuộc đang diễn ra.
Bỗng có mấy người chạy honda tới, có người nhảy lên các xe tăng, nói như ra lệnh:
- Các đồng chí, theo tôi!
Có cả những người phụ nữ nhảy lên xe tăng:
- Theo tôi, tôi xin dẫn đường vào Dinh Độc Lập. Mấy anh trong xe ngạc nhiên, nhưng nhìn thấy tư thế của những người dẫn đường, họ hiểu rằng đó là lực lượng quân ta trong Sài Gòn.
Sau này mới biết đó là các chiến sĩ biệt động đặc công Sài Gòn, thuộc Lữ đoàn 316, có nhiệm vụ dẫn đường về Dinh Độc Lập, xe tăng 390 dẫn đầu theo đường Xô Viết Nghệ Tĩnh rồi rẽ vào Nam Kỳ Khởi Nghĩa(1), xe tăng 843 của đại đội trưởng Thận được dẫn theo ngả Sở Thú vào Dinh.
(1) Tên đường ngày nay
Đến Sài Gòn rồi đây! Nhà cao tầng, kia Sở Thú, bóng cây xanh mát rung rinh trong nắng đang giơ tay vẫy chào đoàn quân. Không thể nói hết được tâm tư tình cảm của các anh lúc ấy, chỉ có những giọt nước mắt lăn dài trên má, giọt nước mắt vừa xúc động vui mừng ngày giải phóng đã đến thật rồi, vừa nghẹn ngào thương xót đồng đội mình ngã xuống suốt chặng đường chiến đấu gian khổ ác liệt. Nước mắt cho đồng đội vừa mới hi sinh ngay cửa ngõ Sài Gòn! Các anh đã không được nhìn thấy đường phố Sài Gòn, thấy giờ phút giải phóng nữa rồi!..
Tới cổng Dinh Độc Lập, bên cổng phụ Dinh kia là chiếc xe tăng số 843 của Đại đội trưởng Thận, cũng vừa lao tới đang bị kẹt nằm ở đó.
Tập, lái xe tăng 390 chậm lại hỏi chỉ huy:
- Thế nào, anh Toàn?
- Lao thẳng vào cổng chính!
Tập bình tĩnh quan sát, mắt anh long lên, lùi xe lại mươi thước, đánh tay lái ngoặt sang phải, tăng hết tốc lực, cho xe tông thẳng vào cánh cổng sắt cao đang đóng chặt, cánh cổng Dinh Độc Lập đổ tung, xe tăng 390 lao vào trong sân. lúc đó là 10 giờ 45 phút ngày 30-4-1975. Chính trị viên Toàn hô to:
- Chiếm vị trí trong sân, yểm trợ lên cắm cờ.
Xe vừa dừng, Vũ Đăng Toàn cầm cờ nhảy xuống, Lê Văn Phượng nói to:
- Đại đội trưởng Thận cầm cờ kia rồi.
Chính trị viên Toàn liền triển khai đội hình, chuẩn bị súng cùng đồng đội chờ Đại đội trưởng Thận ở xe tăng 843 đang cầm cờ chạy vào trong cổng.
Toàn hô to:
- Đội hình yểm trợ đại đội trưởng Thận lên cắm cờ trên nóc Dinh Độc Lập.
Không chậm trễ một bước, Đại đội trưởng Thận đang cầm cờ chạy thật nhanh lên cầu thang. Nhiệm vụ của anh là cắm cờ khi vào tới Dinh Độc Lập. Nhưng lại thấy lá cờ trong tay Thận chạy vòng vèo, vẫn chưa tìm được lối lên lầu trên.
- Đưa chúng tôi lên cắm cờ. Một thanh niên bước lên:
- Dạ thưa ông, tôi xin dẫn đường lên… Đại đội trưởng Bùi Quang Thận người quê Thái Bình, cầm cờ chạy lên trên lầu. Lá cờ giải phóng đã tung bay trên nóc Dinh Độc lập, lúc 11giờ 30 phút ngày 30- 4-1975, báo hiệu một niềm vui trọn vẹn cả non sông đất nước hòa bình và thống nhất từ đây.