G
iải phóng rồi! Anh về thăm quê!
Quê hương ơi! Ta đã về đây, bao nhiêu mừng mừng tủi tủi.
Từ nơi đây, miền đồng bưng nghèo Mỹ Lạc Thủ Thừa ven sông Vàm Cỏ Tây, cậu bé Chín Trí sớm mồ côi, các chị gái cũng nghèo lắm, vậy mà cố phụ nuôi cho cậu Chín ăn học, nhưng cũng chỉ cố được hết tiểu học xã làng. 12 tuổi đã là một cậu bé biết làm thuê nhổ cỏ cuốc mướn nuôi thân, từng có ước mơ được đi học, ước mơ được tự tay khai phá đất đai đồng bưng cỏ lác quê hương thành cánh đồng lúa xanh tốt, quăng chài giăng câu trên kinh rạch để nấu những món ăn dân dã cho gia đình. Ước mơ bình dị đó không thực hiện được. Quê hương chìm ngập trong khói lửa chiến tranh. Chín Trí đã theo các anh các chú đi đánh giặc, lăn lộn từ Vòng Ông Tưởng đến Vườn Thơm chiến đấu. Nơi nào ác liệt nhất là có mặt, từ chiến trường Long An trong đoàn quân chủ lực, rồi lên Tây Ninh Trảng Bàng, Củ Chi đất thép, những Rạch Chanh, Gò Xoài, Hố Bò, Lào Táo, Bàu Tre Bến Đình, đến Long Thành Hắc Dịch Rừng Sác, lại xuống đồng bưng Thủ Đức, thuộc làu từng bờ ruộng trảng bưng. Cả những khi tay không bốc cát ném vào mặt lính, nhảy tới cướp súng tiêu diệt địch. Cả lúc mình trần đầy sình lầy cỏ lác, vác súng đạn đối mặt với quân thù. Chiến đấu quên mình, quên ăn, quên cả tình yêu và tuổi trẻ, để đạt được mục đích quét sạch giặc thù, giải phóng quê hương. Ngày chèo xuồng vượt sông Vàm Cỏ tạm biệt quê hương Thủ Thừa ra đi, đi suốt chưa có lần về quê, đi đến hôm nay ngày hòa bình thống nhất đất nước. Nhịp đập con tim, hơi thở của người dân vùng bưng, suốt mấy chục năm khói lửa chiến tranh, đã đập trong tim anh, những nhịp đập như thế.
Hôm nay đã hòa bình rồi. Nhưng bao nhiêu năm bom đạn cày xới, tan hoang xơ xác. Gia đình nào cũng đổ máu mất mát hi sinh. Gia đình Chín Trí! Ba mẹ mất trong chiến tranh. Chị gái hi sinh, em trai hi sinh. Chị Hai anh rể còn những hai con hi sinh, chị Ba anh Ba còn những bốn con đã hi sinh. Trong nhà cạn kiệt đết hạt gạo manh áo cuối cùng. Chiến tranh đã cướp đi nhiều quá!.. Chỉ còn tiếng nói của chị gái gục bên tai khi đón em trai trong nước mắt nghẹn ngào:
- Thức ơi! Em ơi!.. Bao nhiêu năm nay rồi.
- Chị nghe tiếng súng xa khóc em..! Chị nghe tiếng súng gần khóc con..!
Chín Trí đứng nghe gió sông Vàm Cỏ đang vọng về đây lời ru của mẹ:
Ầu ơ..! Dù cho sóng gió bão bùng
Đói no mẹ chịu lạnh lùng mẹ cam,
Miễn sao con giỏi con ngoan
Giống cha, gánh vác vẹn toàn nước non.
Nhịp đập con tim của cha mẹ, của chị, một đời với cách mạng, của các mẹ các chị vùng ven, khói lửa đạn bom mất mát hi sinh đã theo anh từng bước, nuôi dưỡng anh trưởng thành, trong chiến trường gian nan suốt mấy chục năm trời.
Giải phóng rồi, anh trở về với công việc xã hội và những hậu quả của chiến tranh đang bộn bề ngổn ngang. Vẫn gánh nặng trách nhiệm vì dân vì nước trên hai vai người chiến sĩ. Ngành công an trong thời bình, giữ trật tự an ninh xã hội, đòi hỏi người cán bộ phải tỉnh táo, phải dũng cảm mới vuợt qua những cái bẫy vô hình, những hầm chông không mũi nhọn, để làm gương trước công chúng, trước anh em chiến sĩ, để giữ cho mình một phẩm giá trong sạch, anh phải giữ mình. Điều này nói thì dễ, đi vào thực tế không dễ chút nào. Nhất là khi anh đang ở vị trí lãnh đạo trong ngành Công an Thành phố. Anh tự hào vì những năm tháng chiến tranh, đã tôi luyện anh thành một người chân chính.
Đoàn người từ Bến Tre, kéo nhau lên Thành phố kiến nghị, phản đối về việc chính quyền địa phương dưới quê lợi dụng quyền thế, chiếm đoạt đất của dân. Lãnh nhiệm vụ giải quyết trật tự an ninh chính trị, lại “quyền sinh quyền sát” trong tay, thiếu gì cách giải quết, thế mà người ta thấy anh Chín mặc thường phục, lân la tới gần đoàn biểu tình, hỏi thăm các mẹ, mấy chị em, bằng những câu hỏi, những lời giải thích ân tình hợp lý. Một bà má quắc thước, nhìn Chín Trí, anh tới gần, ngồi cạnh.
- Bây bị thương hồi nào đây?
- Tôi bị mảnh pháo vào mắt từ Mậu Thân sáu tám.
- Chu cha! Thằng Năm em tôi cũng hi sinh năm đó!
- Sau đó tôi còn suýt vỡ sọ vì bom, đây này, chị Hai sờ đỉnh đầu em coi, còn lõm một đám. Đó thấy chưa.
- Ừa, bây may mà còn sống, em tui và đơn vị nó hi sinh mười mấy đứa, bom pháo đánh gần hết ráo đơn vị.
- Chị Hai!
Chín Trí nhẹ giọng.
- Chúng ta đánh Mỹ, lật đổ chế độ Ngụy, bao nhiêu xương máu mất mát hi sinh mới có ngày hòa bình. Ngày nay, chế độ này, chính quyền này là của dân ta, do chúng ta xây dựng nên. Nếu ai làm sai, có hành vị ức hiếp dân, người đó phải chịu tội trước pháp luật của nhà nước. Nhưng ta phải giải quyết bằng biện pháp khác, ai lại đi biểu tình rùm rề rùm beng như thế, có khác gì mình phản đối chính quyền của mình!
- Chúng tôi không biểu tình phản đối chính quyền nhà nước gì hết trọi, anh nhìn cái băng rôn kia coi. “đả đảo chủ tịch huyện… Bến Tre chiếm đoạt đất của dân!..”
- Đúng rồi, các bà các chị phản đối người có chức có quyền làm sai, ức hiếp dân là đúng. Nhưng ta kéo nhau lên đây như vậy có khác gì biểu tình chống chế độ. Thời nay chính quyền nhà nước là của nhân dân, có độc ác như thời Ngô Đình Diệm, thời Nguyễn Văn Thiệu trước đây đâu mà các mẹ “đả đảo”.
- Thế bây nói coi, không làm vậy, tụi nó dựa vào quyền hành dân, ức hiếp dân quá xá, không biểu tình đòi lật đổ chúng, đòi nhà nước đuổi cổ những thằng làm sai, cướp đất của dân, hỏi bây chứ chả nhẽ ngồi yên cho tụi nó muốn làm càn gì thì làm sao?
- Đúng, chị Hai nói đúng, phải đấu tranh, phải vạch mặt bọn làm sai, làm ẩu, nhưng không nên tổ chức kéo nhau đi biểu tình, giống như “Đội quân tóc dài của Bà Định” ở Bến Tre ngày trước, tôi thấy không nên đấu tranh kiểu này…
- Vậy phải làm sao?
- Chị Hai nên vận động bà con về làm đơn, trình bày cụ thể, gửi lên các cấp lãnh đạo giải quyết.
- Rồi, làm đơn rồi, làm hai ba lần rồi mà có ai giải quyết đâu, chờ hoài nên chúng tao phải kéo nhau đi lên tận đây vậy đó.
- Bây giờ, chị Hai nói bà con về làm đơn đi. Cử người đưa lên đây, lên Sở Công an Thành phố, cứ đưa cho Chín Trí, tôi sẽ nhận đơn cho, tôi sẽ mang lên cấp trên, nơi nào cần gửi, tôi sẽ gửi dùm bà con.
- Cậu làm lãnh đạo Công an hả?
- Đúng, lãnh đạo thì cũng bà con anh em mình thôi, có làm càn làm sai gì đâu mà lo dân đánh cho vỡ sọ.
- Ờ, cậu Chín nầy nói nghe thấy được, làm lãnh đạo như bây phải biết nghe ý kiến của dân chớ, đừng có coi dân Bến Tre nghèo, chỉ có đất, muốn cướp, muốn ức hiếp sao cũng phải im, không được đâu nghe. Rồi, cậu Chín hứa rồi đó, giúp bà con Bến Tre nghe, đơn chúng tôi sẽ gửi cậu đó!
Con người của thời bình khác hẳn con người thời chiến. Anh cứ tưởng những suy nghĩ của mình là phù hợp với thời đại nhất rồi: Trung thực thẳng thắn, nào hết lòng vì dân vì nước, vì quyền lợi của nhân dân mà làm việc, nào chấp hành nghiêm chỉnh nhiệm vụ được giao phó, tuyệt đối tận tụy trung thành. Nhưng anh đã không giải thích cặn kẽ một câu hỏi bình dị của người nông dân:
- Thưa các ông cán bộ nhà nước, nhà tôi trồng lúa, muốn có tiền để trang trải, thì bán lúa gạo, các ông cấm vận chuyển đi thì làm sao bán?
- Hàng hóa lưu thông trong xã hội cũng như “nước chảy chỗ trũng”, nếu không mang hàng từ nơi này tới nơi khác để bán, cho đỡ chênh lệch giá cả, ăn cái tiền chênh lệch ấy gọi là buôn bán, sao lại gọi là buôn lậu? Cấm buôn bán, cái gì cũng cho là buôn lậu, như vậy có phải là các ông “ngăn sông cấm chợ” không?
Buôn lậu, thế nào là buôn lậu? Bao nhiêu câu hỏi trong đầu. Chính sách một đằng, mỗi nơi thực hiện một nẻo. Làm sao cho đúng, khó thật. Nhưng mục tiêu cho dân giầu nước mạnh là đích sống của cán bộ bây giờ, vậy mà đích ấy mỗi người mỗi nơi chạy đến bằng một cách.
Đêm về nằm suy nghĩ trằn trọc vì những gì ban ngày xảy ra. Người nông dân đó nói đúng. Có phải việc đặt những trạm kiểm soát, ngăn cấm tất cả những gì có liên quan đến vận chuyển hàng hóa cả lương thực thực phẩm, không được lưu thông trong thị trường, tất cả đều cột vào cái tội “buôn lậu”… có đúng không!
Những năm tám mươi, các trạm kiểm soát mọc ra như nấm, dùng quyền hành bắt bớ, có trạm tịch thu từ hai ba lít gạo của dân, thu từ một vài con gà, miếng thịt heo… ngăn cản việc lưu thông hàng hóa. Liệu có đúng là “ngăn sông cấm chợ” không!.. Có những lúc anh không hiểu nổi “cơ chế”, nhưng vẫn nghiêm chỉnh làm việc. Ôi trong tư tưởng đầy mâu thuẫn, sai hay đúng, đó là chính sách của nhà nước, ai dám nói sai! Anh là người thi hành, nhận nhiệm vụ thi hành chính sách chống buôn lậu, anh phải làm thật tốt, phải bắt, phải hoàn thành nhiệm vụ, tính cách của một đảng viên, của người cán bộ nhà nước, anh đã nghiêm chỉnh làm nhiệm vụ.
Đêm nằm trong căn phòng êm bề gia thất, tràn ngập hạnh phúc khi có tiếng cười trẻ thơ, anh vẫn mơ màng lắng nghe hơi thở vùng ven. Tiếng mái dầm khua nước, tiếng ếch nhái côn trùng, tiếng gà gáy cầm canh, tiếng vọng từ vùng ven như vết bỏng, đã in dấu đậm trong tâm hồn anh!
Ngày trước, khi biệt động tới nhà chị Tám cơ sở lấy vũ khí, lấy thuốc nổ TNT đi đánh khách sạn “năm sao”, mái nhà chị lủng có đến trăm lỗ nhìn lên trời thấy cả trăm sao. Nay Chín Trí về thăm nhà chị, một bà già cô đơn yếu đau, chồng hi sinh, con hi sinh, nhìn lên mái nhà đã nát, đã lủng lỗ nhiều đến thấy cả ngàn sao trong nhà. Chín Trí vơ lấy bộ quần áo dơ vắt trên dây, tự tay giặt giũ cho Chị Tám, người chị đã chở che cho anh những ngày vùng ven khói lửa.
Tết, Chín Trí đến nhà má Năm, thấy quần áo má rách trước lủng sau, anh lập tức lấy tiền túi đưa cho người đi cùng:
- Em may ngay cho má bộ đồ, để má có quần áo mặc tết này.
Công tác xã hội được anh chú trọng nhiều nhất là chứng nhận cho những đồng chí trong đơn vị, các gia đình có công với cách mạng, bị thất lạc những hồ sơ lý lịch. Ngày ấy có lý lịch hồ sơ giấy khen danh hiệu huân huy chương gì đâu, chỉ có anh là chỉ huy đơn vị mới biết. Và công tác đền ơn đáp nghĩa, xây nhà tình nghĩa, xây dựng trường học được anh vận động tích cực, kết hợp với cơ quan Công an, Báo Công an xây mới và sửa chữa hàng trăm căn nhà cho đồng bào có công ở vùng ven. Tấm lòng vẫn đầy ắp nghĩa tình thủy chung trước sau với bà con, anh vẫn lắng nghe nhịp đập từng hơi thở vùng ven.
Công việc trước mắt dù bộn bề gấp gáp, nhưng không lúc nào nguôi ngoai thổn thức trong tim anh, hình ảnh những người đồng chí đã ngã xuống, nằm sâu trong lòng đất Củ Chi, nằm dưới sình nước vùng bưng; hình ảnh các mẹ, các chị cứ ngày đêm hiện về trong tâm trí. Anh vẫn thường trở về quê hương Thủ Thừa, về Củ Chi, về Đồng Bưng Sáu Xã, tìm lại những người thân, ai còn ai mất, ai đói ai no, nhà nào rách nát trống trơn, mẹ nào có con hi sinh! Nhưng làm sao có thể đền đáp hết công lao của bà con. Nghĩ đến những điều đó, nó khiến anh canh cánh bên lòng như người mắc nợ. Không làm được nhiều, chỉ là chút tấm lòng nhường cơm sẻ áo, giống như ngày xưa các mẹ các chị sẻ gạo chắt nước uống cho anh; chút ít tiền túi hỏi thăm các mẹ các chị đang còn quá khó khăn, vận động người có tấm lòng, cơ quan đơn vị có tấm lòng từ thiện chia sẻ với bà con. Dù không thấm tháp tới đâu, nhưng việc làm đó đã sưởi ấm lòng anh.
Nhìn tấm vải anh cho, má ngạc nhiên:
- Ô thằng Chín Trí, mày còn về thăm má sao!
- Tưởng mày quên má rồi chớ!
- Ăn quả nhớ người trồng cây, uống nước nhớ nguồn, ăn kèo nèo nhớ đồng bưng chứ má, con quên má sao được.
Cho dù đã là đại tá, lại có địa vị, cho dù bao nhiêu cám dỗ vây quanh, nhưng anh vẫn giữ được bản chất quê hương, vẫn ưa chuộng những bữa ăn thanh bạch chân quê giản dị với mắm thái chấm kèo nèo, không màng hưởng thụ, sống chân chỉ tằn tiện bằng đồng lương. Anh đã nguyện không bao giờ chịu hạ mình nhận tiền hối lộ đút lót, đó là người xấu, là phạm tội. Điều này thật hiếm hoi giữa những người thịnh vinh hiển, chốn phồn hoa, giữa những người có chức quyền hưởng thụ lắm tiền nhiều của ngay giữa thành phố đầy sức cám dỗ.
Cơ hội, danh vọng, bê tha, địa vị tiền tài không có trong con người anh suốt những năm công tác ngành công an.
Năm 1997 khi được tiếp xúc với phái đoàn Mỹ sang Việt Nam đi tìm hài cốt Mỹ, Chín Trí được một người Mỹ hỏi:
- Thưa ông, lúc ông bắt tù binh Mỹ, ông cấp bậc gì? Chín Trí cười:
- Cấp gì thì tôi không nhớ, nhưng chúng tôi bắt được tù binh Mỹ cấp gì, đương nhiên chúng tôi phải to hơn.
Anh Tư Chu (Đại tá Nguyễn Đức Hùng, đặc trách Biệt động Sài Gòn) lúc đó hỏi một người Mỹ:
- Các ông sang Việt Nam tìm hài cốt lính Mỹ, đó là việc làm nhân đạo; nhưng cho tôi được hỏi: Xác của 15 chiến sĩ biệt động của tôi hi sinh trong tòa Đại sứ quán Mỹ tết Mậu Thân 1968, người Mỹ các ông đã dọn đi đâu!..
Khi một người Mỹ hỏi Chín Trí:
- Trong quá trình làm việc, ông đã có những bằng cấp gì?
Chín Trí cười:
- Tôi có cái… “bằng lòng”
Người Mỹ kia không hiểu, Chín Trí giải thích:
- Tổng thống các ông khi thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược ở Việt Nam, bị sinh viên và nhiều người dân Mỹ đón tiếp bằng trứng thối, cà chua thối, bị la lối là quân giết người. Còn cán bộ chiến sĩ chúng tôi đi đến đâu được dân tiếp tế bằng trứng ngon, cà chua ngon. Vậy bằng của chúng tôi là “bằng lòng”, bằng lòng dân, bằng đó hơn hẳn bằng của các ông rồi, không đúng sao!
Mấy người trong phái đoàn Mỹ chắp tay xá..!
Liên tục phát triển
Đời sống trong thời bình, lại có một chuỗi đầy mâu thuẫn, nếu không kịp thay đổi cùng xã hội, dễ bị văng bên lề, bị vòng quay của bánh xe lịch sử chèn ép. Có thể về cái tình cái đức anh đúng, nhưng trong cái thiên thời địa lợi, thiên biến vạn hóa của tư tưởng con người, mà anh lại cứ lấy đức ra làm nền, đôi khi anh không theo kịp thời đại. Chứng kiến những tật xấu, ăn hối lộ, cửa quyền, anh không chấp nhận. Nhưng sức anh giữ sao nổi cái cán cân cho bằng giữa một bên là những tệ nạn tham nhũng cửa quyền đang “liên tục phát triển’’ đang nặng ký và một bên là công lý, là đạo đức, là lương tâm đang ở thế mơ hồ “xa thực tế”. Anh tôn trọng tình cảm chân thực, thành khẩn, thành tích kết quả đích thực. Nhưng thực tế đôi khi cứ ngược lại, quay cuồng đến không hiểu nổi. Anh đang sống giữa thời kỳ quá độ những tư tưởng mới cũ đan chen, sống giữa mâu thuẫn ngày càng dày lên, tất nhiên anh phải chính kiến, phải chịu đựng.
Gia đình anh cũng là một đầu mối mâu thuẫn. Tưởng làm ăn chân chỉ, thu vén chăm lo cho gia đình, hết lòng chăm lo cho vợ con, anh cứ nghĩ thế là đủ. Nhưng có lẽ số phận một con người chân chất tận tụy thủy chung, sống trong cơn cuồng phong của những tha hóa trụy lạc, đã không để cho anh được sống như những điều mong muốn. Khi người trong gia đình anh đang lao vào vòng xoay “đổi mới” nhanh quá, thích ăn chơi hưởng thụ, anh mất dần hạnh phúc, mất những gì đã dầy công vun đắp. Có thể nói cuộc đời anh sau này, mất mát đau thương, thất vọng còn nhiều hơn cả trong cuộc chiến tranh… Trước đây, một thân một mình, chết cái đùng, mất xác là hết, không vương vấn nợ nần để đau khổ cho ai! Trước đây, một mảnh pháo găm, mất một mắt, một miếng sọ bể, đau trong thời gian ngắn rồi qua khỏi, anh vẫn tiếp tục chiến đấu. Nhưng nỗi đau bây giờ vô hình, vô lý, nó đã tàn phá hành hạ âm ỷ tinh thần con người anh.
Anh cũng không hiểu nổi lòng người. Một con mắt bỏ lại sau chiến tranh, thời mới quen nhau anh đã nhận được sự cảm thông của người bạn đời. Nhưng nay thời “đổi mới” lại nhận được thái độ mới: “Trông cái mặt có một mắt thấy mà gớm!..” Ăn mắm thái bị cho là quê mùa, là hôi! Chắt chiu vun đắp xây dựng gia đình con cái lại bị chê là cù lần. Sống chân thật tin yêu thì lại bị chê đần độn, không biết ga lăng. Anh không thể hiểu nổi lòng người.
Lên án tha hóa đạo đức, lên án lòng người đổi trắng thay đen, lên án ngoại tình là đúng. Ấy thế mà bị chê bai là lạc hậu, kém hiểu biết. Anh thật không hiểu nổi!
Thực ra, họ có cái lý của họ. Sao lại lên án người phụ nữ đòi hỏi ăn ngon mặc đẹp, thích của lạ, đòi hỏi người đàn ông phải biết ga lăng, biết nhảy đầm, phải đủ món ngón nghề ăn chơi hưởng thụ trong khi có tiền của… Mâu thuẫn gia đình là cá thể trong một tổng thể xã hội đầy mâu thuẫn, hai khối lượng tư tưởng đang chứa đựng đầy ắp trong từng căn nhà, trong cả xã hội hào hoa nơi đô thành, làm sao không nẩy sinh mâu thuẫn, tan vỡ hạnh phúc là điều tất nhiên. Phân hóa xã hội là điều tất yếu, là nạn nhân của hai luồng tư tưởng đối nghịch khó dung hòa. Cũng tại cả anh, vì anh đã không chạy đua với nó, thay đổi để theo kịp thời đại.
Gia đình đã như thế, lại đang sống trong xã hội có những thành phần cơ hội, cửa quyền, tham nhũng, ăn hối lộ, bè phái, hưởng thụ, xài “tiền chùa” như “ném qua cửa sổ”. Trong khi anh ra sức sống trong sạch, vì dân vì nước vì người nghèo. Hai luồng tư tưởng ấy cứ tồn tại song song bên nhau, trong gia đình và trong xã hội như thế, tránh sao khỏi mâu thuẫn. Và anh phải chịu trận là điều tất nhiên.
Trách ai bây giờ, hay trách số phận. Anh còn lương tâm nên anh đau khổ. Tại sao anh lại để họ dẫm đạp lên sự đau khổ của mình. Anh hiền lành nhân hậu quá, có lẽ anh đã già rồi, không đủ sức vật lộn với những mâu thuẫn của con người mới nảy sinh trong xã hội.
Tàn mà không phế
Đã đến tuổi về hưu, nén đau buồn mất mát để lại trong căn nhà mà nhà nước cấp cho anh ở thành phố, lánh về nơi hoang sơ, về lập ấp ở đồng bưng Củ Chi, nơi anh từng đánh trận ngày trước. Đêm nằm nghe tiếng ếch nhái, tiếng hơi thở vùng bưng, ăn rau biền nước bưng. Anh sống bằng những kỷ niệm, bằng tình đồng đội với anh em bạn hữu. Về đây với không khí tĩnh mịch trong lành, anh em đồng chí đến với anh nhiều hơn.
Đêm nằm vẫn nghe tiếng anh em đồng đội năm nào vọng về:
- Anh Chín ơi! Đừng bỏ cuộc nghe anh, anh phải gắng lên, phải tiếp tục sống để có nơi cho chúng em còn tìm về ăn bát cơm cúng của anh!
- Các em ơi, đau lòng lắm, có lẽ anh Chín sẽ vào chùa quy y!
- Đừng, anh đừng bỏ chúng em, không ai biết chúng ta đã sống, chiến đấu và hi sinh trong đồng bưng gian khổ ác liệt như thế nào đâu, chỉ có anh là người chứng kiến.
- Đúng rồi, anh làm sao quên được, anh không nghỉ đâu. Đúng rồi, các em hãy cứ về đây với anh, anh không quên các em!
Mỗi lần đi vòng quanh “cánh đồng chó ngáp” Củ Chi– Đức Hòa, Chín Trí không khỏi chạnh lòng; bao nhiêu năm rồi, từ ngày xa xưa đến giờ vẫn thế, vẫn nước ngập mùa mưa mênh mông cỏ lác, chó chạy ngáp hả họng cả chục hồi chưa qua hết cánh đồng, vậy mà thời kháng chiến, đây là căn cứ cách mạng, quân dân một lòng xây dựng căn cứ trong “đồng chó ngáp” để đánh giặc, lòng dân trong sáng và đẹp biết bao. Chín Trí vẫn nhớ như in ngày nào vượt sông Vàm Cỏ lên căn cứ Tây Ninh, một đêm trăng sao đầy trời, nước lấp lánh gợn sóng theo nhịp chèo mái đẩy, xô ánh vàng long lanh, cảnh vật lúc đó sao mà đẹp, mà êm ả đến thế, ra đi xa quê lần này, biết đến bao giờ trở về.
Anh những ước ao ngày nào hết giặc, về đây sống vui vầy bên đồng lúa dòng kênh, thả lưới cắm câu, nấu canh chua bông súng, bông điên điển.
Đến bây giờ trở lại bên dòng sông quê, thoắt mới ngày nào mà nay đã bốn mươi năm! Không nhẽ cánh đồng đã ngàn năm hoang vu, nay vẫn cứ thế để hoang vu mãi. Ta hãy làm gì đi chứ, thử cải tạo nó xem, lên liếp rửa phèn, trồng loại cây ưa phèn trước. Đất nước ta mênh mông, người đông như thế, chẳng nhẽ cứ để hoang sơ đời này đời khác sao! Bên kia, nông trường Lê Minh Xuân đã có kênh khai thông nước phèn, giữ nước ngọt, đã biến đồng cỏ lác cỏ lăn thành cánh đồng lúa xanh tốt. Bên này, mình cũng có thể cải tạo được chứ!
Chín Trí bàn với một số anh em chí cốt, những thương binh cựu chiến binh:
- Bác Hồ dạy chúng ta, “Tàn mà không phế” phải không các đồng chí, ta làm gì đi để cải tạo đồng bưng.
- Đúng! Chúng ta sẽ làm được.
- Muốn làm được, trước hết phải đầu tư...
Được anh em nhất trí, người ít người nhiều, dồn vốn liếng, người vay thêm, người cầm cố nhà cửa đất cát, dồn tiền mua 10 ha cánh “đồng chó ngáp”, đồng hoang cỏ lác cỏ lăn thuộc xã Đức Lập, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Năm đó là 2001, Chín Trí đứng tên chủ quyền đất.
Thủ tục xong xuôi, anh em bắt tay ngay vào lên liếp. Công thuê đã nhiều, sức bỏ ra còn nhiều hơn. Ngày đêm lên kế hoạch cải tạo, lên liếp trồng bạch đàn, đào kinh rạch rửa phèn. Mồ hôi thấm trên lưng áo, mồ hôi nhỏ giọt xuống đồng bưng, những con người đã trải qua một thời đạn bom, người còn một mắt, người còn mảnh đạn trong cơ thể, người còn một chân, người mất một tay, ai cũng lặn lội gắng sức góp công góp của, đêm ngày cải tạo vùng bưng phèn, trước hết là đào rãnh lên liếp trồng bạch đàn.
Kết quả của sự đầu tư công sức đã thấy rõ, những liếp bạch đàn ngày ngày lên xanh rờn, như khoác một tấm áo mới, thay áo mới cho vùng bưng ngàn năm cỏ lăn ngập phèn. Mục đích cải tạo vỡ hoang đồng cỏ lác ngập nước phèn đã thành công; mục đích làm kinh tế gia đình đã trông thấy. 10 ha bạch đàn xanh tốt kia là tương lai đổi mới kinh tế gia đình, có tiền lo cho các con, cho các cháu nội cháu ngoại của những gia đình thương binh làm kinh tế giỏi, tương lai tươi đẹp đang nở rộ như bông mai vàng ngày tết. Những hàng bạch đàn xanh tốt kia đang tung bay chào đón, những người con của đất, những thương binh “tàn mà không phế”, đã giải phóng quê hương, giải phóng hoang vu đồng cỏ lác muôn đời nằm im. Báo hiệu mùa thu hoạch sắp tới, chứa chan hy vọng xóa được đói nghèo, thỏa lòng cho lời nguyện sống chết với vùng bưng. Viễn cảnh làm kinh tế gia đình, phát triển kinh tế phủ xanh vùng đồng cỏ hoang, đang nở hoa trước mắt.
Thế rồi tai ương đã đến, có thể gọi đây là một “cuộc chiến tranh giải phóng mặt bằng” trong mặt trận: Dự án - quy hoạch - giải tỏa - đền bù. Khi gặp một số người dùng quyền, lạm dụng quyền hành dân, làm sai chính sách để chiếm dụng đất, cụ thể là không theo luật lệ đền bù mà dùng quyền để cưỡng bức. Thậm chí, còn dùng quyền lực để dối dân, đây là đất của “nhà nước”, tung tin hàng trăm ha đất này phải giải tỏa phục vụ cho Quốc phòng, có lúc họ còn cho người lén đốt phá một số bạch đàn để không phải trả giá đền bù cây hoa màu. Thật là ấu trĩ trong quản lý, trắng trợn trước pháp luật, nhẫn tâm dùng quyền áp đặt cưỡng chế. Cuối cùng, đền bù ép buộc dân theo diện cào bằng tất cả, liếp bạch đàn cũng đền bù bằng đồng cỏ lác. Bất chấp hoa màu, liếp cây bạch đàn và những thương binh thương tận, áp đặt lên cả những công sức tiền của đầu tư của dân.
Anh không muốn làm lớn chuyện, mà chỉ làm đơn trình bày lên cấp có thẩm quền, nhưng không được trả lời!.. Ngại đụng chạm tới người có quyền hành, anh chỉ cho là “con sâu bỏ rầu nồi canh” nên đành chịu đựng. Anh đã quen chịu đựng, nhưng chịu đựng bao gian khổ hi sinh xương máu trong chiến tranh thì được, mà ngày nay nỗi chịu đựng bất công cứ dày vò anh, còn khó chịu hơn trên mặt trận đối mặt với quân thù, khó hơn nhiều. Ngày trước mỗi trận đánh, anh thẳng tay tiêu diệt địch, tiêu diệt những kẻ hại dân hại nước. Ngày nay nhìn thấy kẻ hại dân hại nước ngay trước mắt, anh không thể, không dám làm gì. Bởi chính quyền mới ấy lại do chính các anh đã đổ xương máu xây dựng nên, sao lại đi phản đối chính quyền do chính mình lập nên. Anh không muốn đối mặt với người có quyền hành đang làm sai, ngại ảnh hưởng tới vấn đề chính trị xã hội.
Việc sai trái còn sờ sờ đang diễn ra trước mắt đó: trên những phần đất bưng cỏ lác anh và đồng đội, cả dân nghèo đã dày công dày sức đầu tư lên liếp trồng bạch đàn. Bạch đàn đã lên xanh tốt như rừng kia, nay họ phá, họ ép các anh chỉ được nhận tiền đền bù giống như giá đền bù quy hoạch đồng cỏ lác. Khi anh chưa chịu nhận điều bất công, họ vẫn ngang nhiên cắm đất có chủ quyền của anh, và của những người dân khác nữa, để tự ý đưa vào “dự án” vào “quy hoạch” đưa ra “kế hoạch” “giải tỏa”, “đền bù”, giống như ăn cướp để tự ý “kinh doanh”. Họ vội vàng cấp sổ đỏ chủ quyền cho một công ty. Họ đã đứng ra bán. Công ty mới liền vội vàng lấy ngay sổ đỏ đó, thế chấp cho ngân hàng, rất hợp lệ, vay ngay 60 tỷ đồng. Họ liên kết với nhau, ăn chia thoải mái tiền nhà nước, trên mảnh đất của anh và bà con nông dân đã dày công dày của để khai phá.
Rồi ngay sau đó công ty ma kia đã biến mất đúng như ma! Mất tiêu biến ngay 60 tỷ đồng năm 2004, hỏi giá trị là bao? Họ, chính quyền huyện và công ty ma kia đã dùng quyền trong tay, thông đồng, hợp lực, hợp lý rút tiền ngân hàng chia nhau bỏ túi trên đất của dân. Hỏi tiền 60 tỷ ngân hàng mất ấy ai chịu! Ai xử! Ngân hàng chịu chứ ai! Ngân hàng mất là nhà nước mất, nhà nước mất thì dân nghèo phải chịu nghèo thêm. Những người này chỉ là một số ít, nhưng có chức quyền, dựa vào quyền hành thông đồng ăn chia, nhân danh chính quyền, làm sai mà không ai dám nói, dám xử. Bởi “một con sâu làm rầu nồi canh”, ai đứng ra xử chính quyền huyện bây giờ. Anh chịu thua! Chỉ người dân bị mất đất là thiệt thòi, giống y như bị ăn cướp.
Bây giờ anh là dân thường, anh là một cán bộ quân đội, lính Cụ Hồ nghỉ hưu, là một đảng viên chân chính đã có huy hiệu 50 năm tuổi Đảng, anh phải gương mẫu chịu đựng, phải cắn răng chịu đựng, không biết thưa kiện ai, không biết phản đối ai bây giờ! Khó lắm..!
Anh thường ngẫm đời bằng lời các cụ: “có làm thì mới có ăn”, hay “tay làm hàm nhai” phải làm rồi mới có thành quả mà ăn, làm đấy mà chưa chắc là đã có ăn, huống chi!.. Ở đây một số người chưa làm, không làm mà chỉ muốn ăn, mà ăn đậm, ăn bậm trợn, ăn cướp, ăn trên mồ hôi nước mắt máu xương của người khác, của dân; ăn đó, lòng tham đó là tội ác, là trái ngược với lòng yêu nước thương dân.
Ngày trước anh dũng cảm chiến đấu, một sống một chết đối mặt với kẻ thù; bao nhiêu năm ăn bờ ngủ bụi, đói gặm kèo nèo đánh giặc, để có ngày hòa bình giải phóng đất nước, để dân được tự do xây dựng lo toan cuộc sống gia đình. Vậy mà bây giờ phải cắn răng chịu bị ăn hiếp một cách vô lý, bất công, không biết kêu ở đâu. Anh chỉ biết gởi nỗi đau vào những dòng nước mắt. Anh đau nhiều lắm, vết thương ở đầu làm nứt sọ vẫn còn đau, đau ở lòng người đổi trắng thay đen, đau hơn cả là nỗi sinh tử biệt ly khi mất một đứa con vì tai nạn, đau ở sự mất mát hi sinh từ tuổi trẻ của đồng đội, đau ở nhân tình thế thái lương tri bị đồng tiền hủy hoại. Anh đau buồn và âm thầm rút về bên những am thờ, cầu kinh gõ mõ bên âm hồn đồng đội. Thờ những đồng chí cùng chỉ huy trên các mặt trận vùng ven đã đổ máu, những anh em chiến sĩ trẻ đã nằm xuống sình bưng trong lòng đất mẹ. Anh lập am thờ, cúng hương hồn đồng đội, những người chiến sĩ khi sống chiến đấu phải khai khác tên đổi họ, thay quê, đùng một cái chết, thành ra vô danh, không tên tuổi quê quán gia đình. Hẳn người mẹ ở nhà không biết con còn hay mất, hi sinh ở đâu..!
Ngày 27-7, anh cúng cơm hương hồn liệt sĩ, mời đồng đội về nhà anh ăn cơm cúng. Anh em nào còn nhớ ngày hi sinh, như Mười Trường, Năm Bô, Hai Sang, Tư Quỳ, Mười Minh, Bảy Hát, Năm Lý, Mẫm, Sen, Ba Chiến… người chiến đấu hi sinh, người trúng đạn pháo hi sinh, người thì lọt ổ phục kích hi sinh... Nhằm đúng ngày giờ họ hi sinh, anh cúng bát cơm lồng úp, cắm quả trứng luộc trên cây đũa tre vót xòe bông. Lúc ấy là hồn về, cúng vậy có cơm cho hồn ăn mỗi ngày. Phật dạy, một ngày dưới âm bằng một năm trên trần thế. Vậy là ngày nào hồn anh em cũng được ăn bát cơm cúng của Chín Trí. Anh thường tụng kinh gõ mõ cho hương hồn Chính ủy Phân khu, anh Tư Quỳ, chính tay Chín Trí gói gém chôn người anh thân thương ở ấp Nam, mà sau này bom cày pháo xới tung tả, đến nay tìm vẫn không ra hài cốt anh Tư Quỳ (Nguyễn Ngọc Lộc, Chánh ủy Quân khu). Mỗi lần tụng kinh, gọi hồn anh Tư Quỳ về, Chín Trí lại tưởng như ngày nào hai anh em đang còn ngồi bên nhau.
Riêng ngày 7 tháng 7 âm lịch cúng cô hồn, những vong hồn liệt sĩ vô danh không mồ, bơ vơ không ai đón nhận, tên tuổi và nắm xương không còn nguyên vẹn nằm sâu trong hầm địa đạo Củ Chi, nằm trong bụng cá sấu, nằm sâu trong bưng sình vùng ven Thủ Đức. Thắp hương tụng kinh gõ mõ cho các linh hồn vô chủ hãy về ăn cơm nhà anh Chín Trí trên đất Củ Chi.
Tụng kinh gõ mõ cho quốc thái dân an, danh vọng tiền tài ái tình chỉ là hư vô mà thôi, anh đã thoát ra khỏi những cám dỗ bụi bặm trần gian, những đau buồn mất mát, ngồi bên am tụng kinh gõ mõ cho lòng thanh thản!
Trên bàn thờ lung linh hương khói, dưới thánh thần phật tổ linh thiêng là hình Bác Hồ, mỗi ngày anh nhìn vào đôi mắt Bác để giữ niềm tin cho cuộc sống. Dưới nữa là thờ anh Chín Dũng, người thủ trưởng ngày còn sống đã mấy lần anh Kiệt tới căn nhà giữa đồng bưng này an ủi động viên Chín Trí.
Trên bàn thờ nhà Chín Trí bây giờ có Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Bác Giáp là Đại tướng trong lòng dân. Năm 2004 Chí Trí đã được vinh dự đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm nhà(1). Chuyến thăm ấy, Đại tướng muốn thăm một thương binh, một chiến sĩ biệt động. Bộ chỉ huy quân sự và Công an Thành phố hướng dẫn cho Đại tướng đến thăm nhà Chín Trí tại ấp Tam Tân trên đồng bưng Củ Chi. Đây là vinh dự lớn, là niềm tự hào của Chín Trí.
(1) Nhân trong chuyến Đại tướng đi thăm di tích Bàu Cò- Láng Le, nơi mà trong cuộc kháng chiến chín năm chống pháp đã xảy ra một trận đánh lừng danh, lúc đó Bác Hồ và Tổng chỉ huy quân đội Việt Nam Võ Nguyên Giáp đang ở căn cứ Việt Bắc đã nghe. Di tích này nằm sát với chiến khu vườn Thơm một chiến khu đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là đơn vị hành chính kháng chiến chống Pháp xâm lược. Năm 1947 quân và dân liên huyện tỉnh chợ Lớn (Bình Chánh, Thủ Thừa, Đức Hòa) đánh thắng ở Bàu Cò- Láng Le đã tiêu diệt gọn một trung đoàn 400 lính Lê Dương Pháp, khi chúng càn vào đồng bưng quyết tiêu diệt chiến khu, căn cứ Vườn Thơm
Về hưu, anh mới có thời gian ngồi suy ngẫm, tưởng nhớ, ôn lại cuộc đời từ những năm sáu mươi Đồng Khởi, cùng đại đội quân chủ lực Long An trên 300 chiến sĩ, tấn công huyện lỵ Đức Hòa, giữa ban ngày, hạ cờ địch, kéo cờ đỏ sao vàng ngay trên nóc dinh huyện. Diệt bốt Rạch Chanh, Gò Xoài, đưa đoàn quân chủ lực Long An lên căn cứ Hố Bò - Củ Chi, lên Tây Ninh, chiến đấu ở Trảng Bàng, Truông Mít, Bàu Cồn, Dương Minh Châu. Khi về Quân khu Sài Gòn- Gia Định, được phân công bảo vệ Quân khu Bộ, gặp anh Chín Dũng(1), bí thư đầu tiên của Quân khu. Chín Trí đã tham gia đánh trận trên đất Củ Chi- Bến Cát, trận diệt bốt Tân Quy, cắt đường số 7, số 13, số 15, ba lần đánh bốt An Nhơn Tây, hàng trăm trận vang dội ở Lào Táo, Gò Nổi, Gót Chàng, Bàu Tre, Suối Cụt, Bến Đình, Thái Mỹ, Bình Mỹ, Hố Bò… Từ chiến khu Củ Chi, đi dọc xuống ven sông Soài Rạp, xuống Rừng Sác, ra Bà Rịa, núi Bể, Mây Tàu, rồi dọc đường 15… Cuối năm 1962 Chín Trí từng tham gia chỉ huy đội “trồng mì” xuống Long Thành, đó là đội thanh niên xung phong vận chuyển vũ khí từ vùng đầm lầy Rừng Sác, lên rừng Hắc Dịch, Long Thành, cung cấp vũ khí cho mặt trận Bà Rịa, Hóc Môn, Bình Tân…Gặp anh Tư Qùy, Chín Lê, Trần Hải Phụng, anh Tư Chu, những người anh, người chỉ huy mà anh kính mến thân thương như anh em. Rồi những năm tháng gian nan kiên cường chiến đấu ở Cánh Đông Nam thành phố, căn cứ trong vùng Bưng Sáu Xã Thủ Đức, từ gây dựng cơ sở trong các hãng xưởng trên vùng Thủ Đức. Đánh vào đồn bốt địch giăng đầy cửa ngõ phía đông, đánh thọc sâu vào tận đô thành Sài Gòn. Những trận chống càn liên tiếp vào vùng bưng, lần nào, thời điểm nào địch cũng bị quân ta đánh cho thất điên bát đảo. Hầu như người chiến sĩ Chín Trí từng có mặt, đặt chân trên các mặt trận từ cánh nam, tây nam, cánh tây, tây bắc, cánh đông, đông nam, vùng ven Sài Gòn ngập tràn khói lửa, ngang dọc chiều dài chiều rộng địa bàn Quân khu Sài Gòn- Gia Định. Mười lăm năm gian nan mà anh dũng, với bề dày chiến công, một lòng sắt son thực hiện bằng được lời nguyền: “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” cho đến ngày giải phóng hoàn toàn đất nước. Những năm sau giải phóng, anh lại xoay vần với mặt trận giữ gìn trật tự an ninh cho xã hội, vẫn giữ vững bản chất của anh Bộ đội Cụ Hồ, người chiến sĩ suốt đời tận trung với nước với dân.
(1) Sáu Dân- Võ Văn Kiệt