K
hi màn đêm nhiệt đới màu tím buông xuống mặt biển Caribe, chỉ còn không hơn mười người ở lại canh gác trên chiếc tàu Năm vết thương chịu nạn, bởi những người Tây Ban Nha hết sức tự tin, và cũng rất có lý, về sự khuất phục hoàn toàn của cư dân trên đảo. Và khi tôi nói có mười người ở lại canh gác, kỳ thực tôi đang nói tới mục đích họ được để lại trên tàu hơn là bản thân nhiệm vụ họ đang thực thi. Còn trên thực tế, trong khi phần lớn lực lượng Tây Ban Nha đang tiệc tùng phá phách trên bờ, tay pháo thủ cùng thủy thủ đoàn người Tây Ban Nha, những người đã thực hiện hoàn hảo nhiệm vụ của mình và đảm bảo cho chiến thắng trong ngày hôm ấy đang tiệc tùng trong khoang pháo với rượu vang và đồ ăn tươi được đưa từ trên bờ ra. Trên mặt boong, chỉ có hai người trực canh ở mũi và đuôi tàu. Và hai người này cũng chẳng hề cảnh giác như đáng ra họ phải thế, bằng không họ nhất định phải trông thấy hai chiếc xuồng đã rời khỏi bến dưới sự che chở của màn đêm, với những giá đặt mái chèo được bôi trơn kĩ lưỡng, và lặng lẽ cập sát vào dưới thành con tàu lớn.
Từ boong đuôi tàu vẫn còn dòng xuống chiếc thang mà Don Diego đã dùng để leo xuống chiếc xuồng đưa ông ta vào bờ. Người lính trực canh ở đuôi tàu, lúc này đang đi tuần qua hàng lan can này, đột nhiên chạm trán bóng đen của một người đứng trước mặt mình ở ngay đầu chiếc thang.
“Ai đấy?” Tay này hỏi, nhưng chẳng hề có chút cảnh giác nào, cho rằng đó là một trong các đồng đội của mình.
“Tao đây.” Peter Blood nhẹ giọng trả lời bằng thứ tiếng Castilla trôi chảy mà anh thành thạo.
“Là mày hả, Pedro?” Tay Tây Ban Nha bước lại gần hơn một bước.
“Tên tao là Peter; nhưng tao dám ngờ tao không phải gã Peter mày trông đợi đâu.”
“Thế là sao?” Tay lính canh chột dạ hỏi. “Đường này.” Peter Blood nói.
Thanh lan can gỗ khá thấp, và tay Tây Ban Nha hoàn toàn bị bất ngờ. Ngoại trừ tiếng ùm tay này tạo ra khi đập xuống nước, thiếu chút nữa rơi trúng một trong những chiếc xuồng chở đầy người đang chờ dưới thành mạn tàu, không có âm thanh nào khác thông báo tai nạn bất hạnh của hắn. Được trang bị đủ cả áo giáp che ngực, giáp che đùi và mũ sắt, hắn chìm nghỉm và không gây phiền toái gì thêm cho họ nữa.
“Suỵt!” Peter Blood khẽ cảnh báo những phiến quân bị lưu đày đang chờ đợi anh. “Giờ hãy lên đây và không gây tiếng động.”
Trong vòng năm phút họ đã lên cả boong tàu, toàn bộ hai mươi người tỏa ra từ boong đuôi hẹp và tản ra nằm phục xuống trên boong sau. Phía trước có ánh sáng. Dưới cây đèn lồng lớn treo ở mũi tàu, họ thấy bóng đen của tay lính canh còn lại đang đi đi lại lại trên boong mũi. Từ bên dưới vọng tới họ những âm thanh của cuộc chè chén dưới khoang pháo: Một giọng nam trầm đang hát một bản ballad thô tục và những người khác đồng thanh phần điệp khúc:
“Y estos son los usos de Castilla y de Leon!”1
1. Tiếng Tây Ban Nha, nghĩa là “Và đây là các phong tục của Castilla và Leon!”.
“Từ những gì tôi đã thấy hôm nay, tôi có thể tin là thế.” Peter Blood nói và thì thầm. “Tiến lên, theo tôi.”
Khom người thấp xuống, họ lướt tới lặng lẽ như những cái bóng tới lan can boong sau, rồi không một tiếng động leo xuống boong giữa tàu. Hai phần ba trong số họ được vũ trang bằng súng hỏa mai, một vài khẩu họ tìm được trong ngôi nhà của tay đốc công, số khác lấy ra từ kho bí mật mà Peter Blood đã tốn nhiều công sức tích trữ lại cho ngày đào tẩu. Những người còn lại được vũ trang bằng dao và đoản kiếm.
Họ nán lại một lúc ở boong giữa, cho tới khi Peter Blood đã đoan chắc rằng không còn người trực canh nào khác trên mặt boong trừ kẻ phiền toái ở boong mũi. Trước tiên, họ sẽ phải xử trí tay này. Đích thân Peter Blood khom người tiến tới cùng hai đồng đội nữa, để những người còn lại dưới sự chỉ huy của anh chàng Nathaniel Hagthorpe, việc anh này từng có thời phục vụ trong Hải quân Hoàng gia khiến anh ta trở thành người thích hợp nhất cho nhiệm vụ này.
Peter Blood chỉ vắng mặt chốc lát. Khi anh quay trở lại chỗ các đồng đội của mình, trên mặt boong tàu Tây Ban Nha không còn ai canh gác nữa.
Trong khi đó, những người tham dự cuộc vui bên dưới tiếp tục thoải mái vui vẻ trong niềm tin về sự an toàn tuyệt đối của mình. Đồn binh của Barbados đã bị khống chế và tước vũ khí, và đồng đội của bọn họ đang ở trên bờ hoàn toàn làm chủ thành phố, trong lúc này cũng đang thả sức tận hưởng chiến quả một cách đáng ghê tởm. Thế nên có gì để sợ chứ? Ngay cả khi khoang của họ bị tấn công và nhóm người này nhận ra họ bị bao vây bởi hai chục kẻ tóc tai bờm xờm, mình trần trùng trục, những người mà ngoại trừ việc có vẻ từng là người da trắng thì giờ nom chả khác gì một đám man rợ, những người Tây Ban Nha cũng không thể tin nổi vào mắt họ nữa.
Ai có thể mơ nổi là một nhúm nô lệ đồn điền bị lãng quên lại có thể dám làm chuyện to gan đến vậy?
Đám người Tây Ban Nha dở say dở tỉnh, tiếng cười đột nhiên tắt ngấm, tiếng hát im lịm trên môi, tròn mắt nhìn sững sờ vào những khẩu súng hỏa mai đang chĩa vào khống chế họ.
Sau đó, từ trong đám người man rợ lỗ mãng đang lăm lăm súng bước ra một gã cao gầy với đôi mắt màu xanh nhạt trên khuôn mặt rám nắng, đôi mắt ánh lên vẻ giễu cợt ma mãnh. Gã này nói với họ bằng thứ tiếng Castilla hoàn hảo nhất.
“Quý vị sẽ tránh được cho mình khỏi đau đớn và rắc rối nếu tự coi bản thân là tù nhân của chúng tôi, và cam chịu im lặng để chúng tôi chiếu cố khiến các vị không còn khả năng gây phiền phức nữa.”
“Nhân danh Chúa!” Tay pháo thủ thốt lên, câu cảm thán không hề thể hiện được tình trạng kinh ngạc quá mức diễn tả.
“Nếu quý vị vui lòng...” Peter Blood nói, ngay sau đó các quý ông Tây Ban Nha được giục nhảy qua một lỗ thông xuống hầm tàu bên dưới mà không cần đến thêm phiền toái nào hơn ngoài một, hai cú thúc bằng súng hỏa mai.
Sau đó, nhóm phiến quân lưu đày bắt tay vào lấy lại sức lực bằng những món ngon mà họ đã khiến đám người Tây Ban Nha phải bỏ dở giữa chừng. Việc thưởng thức thức ăn Kitô giáo ngon miệng sau hàng tháng trời chỉ có cá muối và bánh ngô đã là một bữa yến tiệc với những con người bất hạnh này. Nhưng không hề có chuyện gì đi quá đà. Peter Blood lo liệu để đảm bảo việc này, cho dù điều đó đòi hỏi tất cả sự nghiêm khắc mà anh có.
Việc chuẩn bị sẵn sàng cần được tiến hành không trì hoãn để đối phó với những gì sắp diễn ra trước khi họ có thể thả lỏng bản thân hoàn toàn cho việc tận hưởng chiến thắng. Những gì vừa diễn ra nói cho cùng chỉ là một cuộc chạm trán sơ bộ nhỏ, cho dù nó đã cho phép họ nắm chìa khóa làm chủ tình hình. Giờ điều còn lại là sắp xếp để khai thác tối đa lợi thế từ nó. Những bố trí chuẩn bị này chiếm một thời gian đáng kể trong đêm đó. Nhưng ít nhất chúng cũng đã hoàn tất trước khi mặt trời ló lên trên sườn núi Hillbay để tỏa sáng xuống một ngày mới chứa đựng vài bất ngờ.
Chẳng bao lâu sau khi mặt trời mọc, người phiến quân lưu đày đi đi lại lại trực canh trên boong sau, mặc áo giáp và đội mũ sắt Tây Ban Nha, vác trên vai một khẩu súng hỏa mai Tây Ban Nha, lớn tiếng thông báo có một chiếc xuồng lại gần. Đó là Don Diego de Espinosa y Valdez quay về tàu cùng bốn rương tiền lớn, mỗi rương đựng hai mươi lăm nghìn đồng tám, khoản tiền chuộc Thống đốc Steed đã giao nộp cho ông ta lúc rạng sáng. Đi cùng ông ta là cậu con trai, Don Esteban, và sáu tay chèo.
Trên chiếc tàu chiến, tất cả vẫn yên ắng và trật tự như phải thế. Con tàu vẫn dập dềnh ở chỗ thả neo, quay mạn trái vào bờ, và thang chính nằm bên mạn phải. Chiếc xuồng chở Don Diego và các rương tiền của ông ta di chuyển vòng sang phía cái thang này. Peter Blood đã bố trí mọi thứ rất hiệu quả. Anh đã phục vụ dưới quyền De Ruyter không hề vô ích. Các dây chão đã sẵn sàng, trục tời đã có người vận hành. Ở dưới khoang pháo, một đội pháo thủ trực sẵn sàng dưới sự chỉ huy của Ogle, người như tôi đã nói từng là pháo thủ trong Hải quân Hoàng gia trước khi dính dáng vào chính trị và đi theo cơ đồ của Công tước Monmouth. Đây là một anh chàng vạm vỡ, quyết đoán đem đến sự tin tưởng cho người khác từ chính sự tin tưởng anh ta thể hiện ở bản thân mình.
Don Diego leo lên thang và bước chân lên mặt boong, một mình, hoàn toàn không ngờ vực gì. Quý ông tội nghiệp có thể nghi ngờ gì chứ?
Trước khi ông ta thậm chí có thể nhìn quanh và quan sát đội danh dự xếp hàng đón mình, một cú nện vào đầu bằng thanh đẩy trục tời do Hagthorpe ra tay hết sức hiệu quả đã tiễn nhà quý tộc vào giấc ngủ mà không gây ra chút ồn ào nào.
Nhà quý tộc được khiêng vào phòng của ông ta, trong khi các rương đựng tiền, được những người đi cùng xuồng với ông ta xử trí, dần được kéo lên boong. Sau khi việc này được hoàn thành một cách trôi chảy, Don Esteban và mấy tay chèo xuồng leo lên thang, từng người một, và cũng được đón tiếp với cùng sự hiệu quả êm ái. Peter Blood có tài năng đặc biệt cho những việc thế này, và tôi đồ rằng anh thực tình cũng có cả khả năng cho việc dàn dựng nên những màn kịch tính. Và màn trình diễn giờ đây được trưng ra trước mắt những nạn nhân còn sống sót của vụ tập kích chắc chắn là đầy kịch tính.
Với Đại tá Bishop đứng hàng đầu trong nhóm người này, và ngài Thống đốc Steed đang bị cơn thống phong giày vò ngồi trên tàn tích của một bức tường bên cạnh ông Đại tá, họ rầu rĩ quan sát tám chiếc xuồng rời bến chở theo những gã đồ tể Tây Ban Nha mệt nhoài, những kẻ đã thỏa mãn bản thân với hiếp tróc, giết người cùng những hành vi bạo lực không thể tả bằng lời.
Họ dõi nhìn theo, vừa nhẹ nhõm trước sự ra đi của những kẻ địch tàn nhẫn, vừa tuyệt vọng trước cuộc tàn phá dã man đã hủy hoại, ít nhất là tạm thời, sự phồn vinh và hạnh phúc của thuộc địa nhỏ bé này.
Những chiếc xuồng rời khỏi bờ, chở trên chúng những gã Tây Ban Nha cười cợt chế giễu, những kẻ vẫn tiếp tục ném lại những lời châm chọc vọng qua mặt nước về phía những nạn nhân còn sống sót trên bờ. Đám này đã đi được nửa quãng đường từ bến về tàu thì đột nhiên không gian chấn động bởi tiếng nổ của một khẩu pháo.
Một quả đạn tròn cắm xuống mặt nước ở cách chiếc xuồng đi đầu chưa đầy một sải1, hất một cột nước vọt lên bắn tung tóe vào những kẻ ngồi trên xuồng. Đám này dừng chèo, im bặt vì sững sờ trong giây lát. Thế rồi lời lẽ vung ra từ bọn họ như sấm nổ. Đám này giận dữ liến thoắng chửi rủa hành vi bất cẩn nguy hiểm từ phía tay pháo thủ của họ, người đáng lẽ phải biết làm tốt hơn chuyện chào mừng bằng một khẩu pháo đã nạp đạn. Đám Tây Ban Nha vẫn đang nguyền rủa tay pháo thủ khi một quả đạn thứ hai, được ngắm chuẩn hơn quả trước, lao tới bắn một chiếc xuồng vỡ tung thành từng mảnh, hất toàn bộ số người trên đó, cả chết lẫn sống, xuống nước.
1. Nguyên văn: 1 fathom, tương đương 1,82m.
Nhưng nếu phát đạn làm im lặng những kẻ này thì nó lại khiến cho miệng lưỡi những kẻ ngồi trên bảy chiếc xuồng còn lại càng thêm tức giận, dữ dội và bối rối hơn. Từ vị trí của mỗi chiếc mái chèo đang bị dừng lại giơ lên trên mặt nước, đám Tây Ban Nha đứng nhổm dậy trong lúc kích động lớn tiếng chửi rủa về phía chiếc tàu, xin cả Chúa lẫn quỷ sứ dưới địa ngục cho bọn họ biết gã điên nào đang tự do hoành hành với những khẩu pháo trên tàu.
Một quả đạn thứ ba nặng nề lao tới giữa những tiếng chửi rủa, bắn tan tành một chiếc xuồng thứ hai với sức phá hoại đáng sợ. Tiếp sau đó lại là một khoảnh khắc im lặng bàng hoàng, rồi trong đám hải tặc Tây Ban Nha vang lên tiếng tranh cãi ồn ào không đầu không đuôi và tiếng mái chèo khỏa nước khi đám này cố gắng di chuyển theo mọi hướng cùng một lúc. Một số hướng vào bờ, số khác hướng thẳng tới chiếc tàu để rồi tìm hiểu xem chuyện gì đang diễn ra tại đó. Không nghi ngờ gì nữa, có điều gì đó rất nghiêm trọng đã xảy ra, nhất là trong khi đám này đang bàn bạc, nổi cáu và chửi rửa thì thêm hai quả đạn nữa bay tới bắn chìm thêm một chiếc xuồng nữa của bọn họ.
Anh chàng Ogle quả quyết đang thực hành một cách tuyệt vời, và hoàn toàn chứng tỏ được tuyên bố có biết ít nhiều về đại bác của mình. Trong lúc hốt hoảng, đám Tây Ban Nha đã giúp nhiệm vụ của anh ta trở nên đơn giản hơn bằng cách xúm hết xuồng vào một chỗ.
Sau phát đại bác thứ tư, quan điểm trong đám hải tặc không còn bị chia rẽ nữa. Như thể với một sự thống nhất, đám này bắt đầu di chuyển, hay định như vậy, bởi vì trước khi bọn họ hoàn tất ý định của mình thì đã có thêm hai chiếc xuồng nữa bị chìm.
Ba chiếc xuồng còn lại, không hề nhọc công bận tâm đến đồng bọn kém may mắn hơn của mình đang phải vật lộn dưới nước, nhất loạt chèo hết tốc độ quay trở lại bến.
Nếu đám Tây Ban Nha không hiểu gì về tất cả chuyện đang xảy ra, thì những cư dân của hòn đảo đang đau khổ trên bờ còn hiểu tình hình ít hơn thế, cho tới khi để giúp đỡ trí khôn của họ, những người này thấy lá cờ Tây Ban Nha bị kéo xuống khỏi cột buồm chính của chiếc Năm vết thương chịu nạn, và lá cờ Anh vút lên thế vào chỗ trống. Ngay cả đến lúc ấy thì ít nhiều nỗi hoang mang vẫn tồn tại, và cư dân trên đảo quan sát với ánh mắt sợ hãi cuộc trở lại của kẻ thù, những kẻ có thể sẽ trút lên đầu họ sự hung hãn bị thổi bùng lên bởi những biến cố khác thường vừa rồi.
Tuy nhiên, Ogle tiếp tục chứng tỏ anh ta không phải chỉ mới làm quen với pháo từ hôm qua. Những quả đạn của anh ta đuổi theo đám Tây Ban Nha đang chạy trốn. Chiếc xuồng cuối cùng của đám này vỡ tung thành từng mảnh khi vừa cập vào bến, và những gì còn lại của nó bị chôn vùi dưới một đống gạch vữa vỡ rời đổ ập xuống.
Đó là đoạn kết của thủy thủ đoàn hải tặc mới chưa đầy mười phút trước còn cười phá lên cùng nhau đếm các đồng tám sẽ chui vào túi mỗi gã nhờ phần đóng góp vào hành vi xấu xa này. Gần sáu mươi kẻ sống sót xoay xở vào được bờ. Liệu đám này có lý do để tự chúc mừng hay không, tôi không thể nói được bởi vì không hề có bất cứ hồ sơ nào trong đó có thể lần tìm được số phận của chúng. Nguyên sự vắng mặt của các hồ sơ cũng tự nói lên nhiều điều. Chúng ta biết đám này đã bị trói nghiến lại ngay khi vào bờ, và xét đến những tội lỗi đám này đã gây ra, tôi không thể cho phép mình nghi ngờ việc chúng có mọi lý do để nuối tiếc vì đã sống sót.
Sự bí hiểm của cuộc cứu viện này đã diễn ra vào phút chót để giáng đòn báo thù lên đám Tây Ban Nha, cũng như bảo toàn cho hòn đảo khoản tiền chuộc cắt cổ tới một trăm nghìn đồng tám vẫn còn phải được tìm hiểu. Việc Năm vết thương chịu nạn lúc này đang nằm trong những bàn tay thân thiện thì không thể nghi ngờ nữa sau những bằng chứng đã diễn ra. Nhưng ai, các cư dân Bridgetown hỏi nhau, là những người đang nắm quyền kiểm soát chiếc tàu, và họ từ đâu tới? Giả thiết duy nhất khả dĩ đã đi tới gần sát với sự thật. Một toán người dũng cảm trên đảo hẳn đã lẻn lên tàu trong đêm và chiếm tàu. Việc còn lại bây giờ là tìm hiểu rõ danh tính của những vị cứu tinh bí ẩn này, và dành cho họ sự tôn vinh xứng đáng.
Để làm nhiệm vụ này, bởi tình trạng của Thống đốc Steed không cho phép ông này đích thân thực hiện, Đại tá Bishop ra chỗ con tàu với tư cách đại diện cho ngài Thống đốc với hai sĩ quan tháp tùng.
Khi ông ta bước từ thang lên boong giữa tàu, viên Đại tá trông thấy ở đó, bên cạnh cửa chính xuống khoang tàu, bốn chiếc rương đựng tiền chuộc, một trong số đó đựng số tiền gần như do ông ta đóng góp hoàn toàn. Quả là một cảnh tượng đáng mừng, và đôi mắt ông Đại tá sáng long lanh khi thấy nó.
Đứng xếp thành hàng ở hai bên, ngang qua mặt boong, là hai mươi người thành hai hàng chỉnh tề, mặc áo giáp che ngực và lưng, trên đầu đội mũ sắt Tây Ban Nha sáng loáng phủ bóng xuống khuôn mặt họ, và mỗi người đều bồng súng hỏa mai bên cạnh sườn.
Không thể trông đợi Đại tá Bishop nhận ra từ cái nhìn đầu tiên rằng những thân hình đứng thẳng, bảnh bao, đầy khí chất nhà binh này lại chính là những gã nô lệ bẩn thỉu, rách rưới như bù nhìn giữ ruộng mới hôm qua còn nai lưng ra làm việc tại đồn điền của ông ta. Lại càng khó lòng trông đợi ông Đại tá nhận ra lập tức quý ông lịch lãm đang bước tới chào mừng ông ta, một quý ông cao gầy, phong nhã mặc theo phong cách Tây Ban Nha, trang phục toàn màu đen với đăng ten chỉ bạc, bên hông đung đưa một thanh kiếm đốc khảm vàng được đeo bằng một dây đeo gươm chéo vai thêu kim tuyến, một cái mũ rộng vành với một cụm lông trang trí dài rủ xuống đội trên những lọn tóc được uốn cẩn thận có màu đen nhánh.
“Chào mừng ngài lên boong tàu Năm vết thương chịu nạn, ngài Đại tá thân mến.” Một giọng nói láng máng quen thuộc cất lên chào vị chủ đồn điền. “Chúng tôi đã tận dụng hết mức trang phục của đám người Tây Ban Nha để hân hạnh đón tiếp chuyến thăm này, cho dù chúng tôi không dám hy vọng đích thân ngài lên tàu. Ngài sẽ thấy mình đang ở giữa những người bạn - tất cả ở đây đều là những người bạn cũ của ngài.” Viên Đại tá bàng hoàng nhìn trân trối. Peter Blood, được trang hoàng với tất cả sự lộng lẫy mà sở thích cá nhân của anh cho phép, mặt cạo cẩn thận, tóc được chải uốn chu đáo không kém, dường như biến thành một người trẻ tuổi hơn. Sự thật là trông anh lúc này không hơn chút nào so với tuổi thực ba mươi ba của mình.
“Peter Blood!” Đó là một lời thốt lên đầy kinh ngạc. Nhanh chóng theo sau là sự hài lòng. “Vậy ra là mày...?”
“Chính tôi, chính là tôi đây, và những người này nữa, chiến hữu tốt của tôi và của ngài.” Peter Blood hất búi đăng ten cầu kỳ quanh cổ tay mình để đưa một bàn tay hướng về phía hàng người đang đứng nghiêm đó.
Viên Đại tá chăm chú nhìn kĩ hơn. “Có Chúa chứng giám!” Ông ta kêu lên the thé với giọng hân hoan ngốc nghếch. “Và với những thằng này mà mày đã chiếm chiếc tàu Tây Ban Nha và xoay ngược tình thế trước lũ chó ấy! Quỷ quái thật! Quả là anh hùng!”
“Anh hùng thôi ấy à? Có Chúa chứng giám, phải là kỳ công! Ông bắt đầu nhận thấy tài năng xuất chúng trong tôi rồi đấy.”
Đại tá Bishop ngồi xuống thành cửa xuống hầm tàu, bỏ cái mũ rộng vành xuống và lau trán.
“Mày khiến tao kinh ngạc đấy!” Ông ta thốt lên. “Có linh hồn của tao làm chứng, mày khiến tao kinh ngạc! Lấy lại số tiền, chiếm cả chiếc tàu đẹp đẽ này cùng mọi thứ trên nó! Việc này ít nhiều sẽ bù đắp cho những tổn thất khác mà chúng ta vừa phải chịu đựng. Và có Chúa ban sự sống, mày xứng đáng được khen thưởng vì việc này lắm.”
“Tôi hoàn toàn đồng ý với ngài.”
“Chết tiệt! Tất cả chúng mày đều đáng được thưởng, và chết tiệt, chúng mày sẽ thấy tao biết ơn thế nào.”
“Cái đó thì đúng là nên rồi.” Peter Blood nói. “Vấn đề là chúng tôi đáng được thưởng đến mức nào, và chúng tôi sẽ thấy ngài biết ơn đến mức nào đây?”
Đại tá Bishop nhìn anh. Trên khuôn mặt ông ta thoáng chút ngạc nhiên.
“Sao chứ, đức ông Thống đốc sẽ viết về chính quốc một bản tường trình về chiến công của chúng mày, và có thể một phần bản án của chúng mày sẽ được ân giảm.”
“Sự rộng lượng của Vua James thì quá nổi tiếng rồi.” Nathaniel Hagthorpe, người đứng ngay cạnh, lên tiếng dè bỉu, và trong hàng các phiến quân bị lưu đày, ai đó táo tợn bật cười.
Đại tá Bishop chột dạ. Cảm giác bất an đầu tiên lan ra trong tâm trí ông ta. Viên Đại tá cảm thấy tất cả mọi thứ ở đây không hề thân thiện như vẻ ngoài.
“Và còn một chuyện nữa.” Peter Blood nói tiếp. “Có một cuộc phạt roi được hẹn dành cho tôi. Ngài là một người thủ tín trong những chuyện như thế, thưa Đại tá, nếu không phải trong những chuyện khác, và tôi nhớ ngài có nói sẽ không để lại một mẩu da lành lặn nào trên lưng tôi.”
Ông chủ đồn điền phẩy tay xua chuyện này sang một bên. Gần như thể nó khiến ông ta bị xúc phạm.
“Nào! Nào! Sau chiến công huy hoàng này của các cậu, cậu thực sự cho rằng ta có thể nghĩ về những việc như thế sao?”
“Tôi lấy làm mừng là ngài cảm thấy như vậy về chuyện ấy. Nhưng tôi vẫn nghĩ có thể đã là cực kỳ may cho tôi bởi đám Tây Ban Nha không tới vào hôm nay mà lại là hôm qua, nếu không thì chính lúc này chắc hẳn tôi cũng đang ở vào cảnh ngộ thảm thương như Jeremy Pitt rồi. Và trong trường hợp đó thì lấy đâu ra tài năng cho phép lật ngược tình thế với đám Tây Ban Nha du đãng này chứ?”
“Tại sao lại nói tới chuyện đó lúc này?”
Peter Blood nói tiếp. “Ngài sẽ vui lòng hiểu rằng tôi buộc phải nói, thưa Đại tá thân mến. Ngài đã gây ra không ít điều xấu xa tàn bạo trong đời mình, và tôi muốn đây sẽ là một bài học cho ngài, một bài học ngài sẽ nhớ lấy vì lợi ích của những người có thể sẽ tới sau chúng tôi. Jeremy đang ở trên kia trong một khoang tàu với một cái lưng mang đủ bảy sắc cầu vồng, và cậu nhóc khốn khổ sẽ phải mất một tháng nữa mới bình phục nổi. Nếu không nhờ đám Tây Ban Nha thì có lẽ lúc này cậu ấy đã chết rồi, và có khi cả tôi cũng thế.”
Hagthorpe uể oải bước tới. Anh ta là một người khá cao, vạm vỡ với khuôn mặt sắc nét, cuốn hút, tướng mạo đó đã cho biết xuất thân của con người này.
“Tại sao anh phí lời với con lợn này làm gì?” Anh chàng từng có thời là sĩ quan trong Hải quân Hoàng gia thắc mắc. “Hãy ném hắn qua thành tàu cho xong chuyện.”
Đôi mắt viên Đại tá như lồi ra. “Ý mày là thế quái nào hả?” Ông ta quát.
“Ngài là một người hoàn toàn may mắn đấy, thưa Đại tá, cho dù ngài không đoán được nguồn gốc vận may của mình đâu.”
Đến lúc này, lại thêm một người nữa chen vào, là lão Wolverstone một mắt vạm vỡ, ít rộng lượng hơn người đồng cảnh lưu đày có phong thái quý ông của lão.
“Treo cổ lão lên đầu trục căng buồm.” Lão hét lớn, giọng nói trầm trầm của lão gay gắt đầy giận dữ, và vài người trong nhóm nô lệ giơ cánh tay lên phụ họa.
Đại tá Bishop run rẩy. Peter Blood quay lại. Anh khá bình thản. “Nếu ông vui lòng, Wolverstone…” Anh nói. “Tôi xử trí mọi việc theo cách của tôi. Đó là thỏa thuận. Ông vui lòng nhớ
cho điều đó.” Đôi mắt anh nhìn dọc theo hai hàng, làm rõ rằng anh nói với tất cả họ. “Tôi muốn Đại tá Bishop được bảo toàn tính mạng. Một lý do là tôi muốn có ông ta làm con tin. Nếu các vị khăng khăng đòi treo cổ ông ta, các vị sẽ phải treo cổ cả tôi cùng với ông ta, hoặc nếu không tôi sẽ lên bờ.”
Anh dừng lời. Không có câu trả lời. Song bọn họ đứng trước mặt anh lầm lì nửa như muốn nổi loạn, ngoại trừ Hagthorpe, người nhún vai và mỉm cười chán chường.
Peter Blood nói tiếp: “Các vị vui lòng hiểu cho rằng trên boong một chiếc tàu chỉ có một thuyền trưởng. Thế đấy.” Anh lại quay sang viên Đại tá đang sững sờ. “Dẫu tôi hứa bảo toàn tính mạng cho ông, như ông cũng vừa nghe thấy đấy, tôi buộc phải giữ ông trên tàu làm con tin để đảm bảo cho sự biết điều của Thống đốc Steed cũng như những gì còn lại của pháo đài cho tới lúc chúng tôi ra khơi.”
“Cho tới khi các người…” Nỗi hoảng sợ ngăn không cho Đại tá Bishop nhắc lại nốt phần còn lại của câu nói khó tin đó. “Đúng thế.” Peter Blood nói, và anh quay sang mấy sĩ quan tháp tùng viên Đại tá. “Xuồng đang đợi, thưa các quý ngài. Các vị đã nghe thấy những gì tôi nói. Hãy chuyển lại nó cùng lời hỏi thăm của tôi tới đức ông Thống đốc.”
“Nhưng, thưa ông…” Một trong số họ lên tiếng.
“Không có gì thêm để nói nữa, thưa các quý ngài. Họ của tôi là Blood. Thưa quý vị, Thuyền trưởng Blood của chiếc tàu này, Năm vết thương chịu nạn, được chiếm làm chiến lợi phẩm từ tay Don Diego de Espinosa y Valdez, người đang là tù nhân của tôi trên tàu. Các vị cần hiểu là tôi đã lật ngược tình thế không chỉ với đám Tây Ban Nha. Thang kia! Các vị sẽ thấy dùng nó thuận tiện hơn nhiều so với việc bị ném qua thành tàu, điều sẽ xảy ra nếu các vị lừng khừng.”
Họ làm theo, cho dù không khỏi phải cần tới vài cú đẩy, bất chấp tiếng gào thét của Đại tá Bishop, cơn cuồng nộ của ông ta càng được thổi bùng lên bởi nỗi kinh hoàng khi nhận ra bản thân mình đang nằm dưới sự định đoạt của những người mà ông ta hoàn toàn ý thức được là có lý do để căm thù mình.
Sáu người trong số họ, chưa kể Jeremy Pitt đang hoàn toàn phải bất động vào lúc này, có hiểu biết ít nhiều về việc điều khiển tàu. Hagthorpe, cho dù từng là một sĩ quan tác chiến không được đào tạo về hàng hải, vẫn biết cách điều khiển một con tàu, và dưới sự chỉ huy của anh này, họ bắt đầu lên đường.
Neo được kéo lên, và lá buồm chính được buông xuống, họ nương theo một cơn gió nhẹ hướng ra ngoài khơi, không hề gặp sự can thiệp nào của pháo đài.
Khi họ đi qua gần mũi đất ở phía đông vịnh, Peter Blood quay sang phía viên Đại tá đã chán nản ngồi trở lại chỗ thành cửa chính xuống hầm tàu trong cảnh bị canh gác và tâm trạng hoảng sợ.
“Ngài biết bơi chứ, ngài Đại tá?”
Đại tá Bishop ngước nhìn lên. Khuôn mặt to bạnh của ông ta vàng ệch và vào khoảnh khắc đó dường như mềm yếu đến khác thường; đôi mắt tròn xoe nhỏ xíu của ông ta càng giống mắt chuột hơn bao giờ hết.
“Là bác sĩ của ngài, tôi kê đơn một cữ bơi để làm nguội tính khí nóng nảy thái quá của ngài.” Blood đưa ra lời giải thích một cách vui vẻ, và tiếp tục khi vẫn không nhận được câu trả lời nào từ viên Đại tá. “Thật may cho ngài là bản tính của tôi không khát máu như vài người bạn tôi ở đây. Và tôi đã phải khổ sở cùng cực để thuyết phục họ không báo thù. Tôi dám ngờ là ngài chẳng đáng với công sức tôi đã bỏ ra vì ngài.”
Anh đang nói dối. Anh chẳng có chút ngờ vực nào hết. Nếu làm theo mong muốn và bản năng của chính mình, chắc hẳn anh đã treo cổ viên Đại tá lên và coi đó là một hành động đáng khen ngợi. Chính ý nghĩ về Arabella Bishop đã thôi thúc anh nhân từ, và đã khiến anh chống lại khao khát báo thù tự nhiên của những người đồng cảnh nô lệ cho tới khi anh rơi vào nguy cơ làm bùng lên một cuộc nổi loạn. Hoàn toàn chỉ vì viên Đại tá là chú ruột nàng mà ông ta nhận được sự khoan hồng lúc này, cho dù ông ta thậm chí chẳng thể ngờ tới một lý do như thế.
“Ông sẽ có một cơ hội để bơi tới đó.” Peter Blood nói tiếp. “Từ đây tới mũi đất đằng kia chỉ không quá một phần tư dặm, và với vận may thông thường hẳn ngài sẽ làm được. Quả thực, ngài đủ béo để nổi đấy. Đi nào! Bây giờ đừng có do dự nữa, nếu không ngài sẽ phải đi cùng chúng tôi một chuyến dài đấy, và có quỷ mới biết chuyện gì có thể xảy đến với ngài. Ngài không được yêu mến hơn mức ngài xứng đáng đâu.”
Đại tá Bishop trấn tĩnh bản thân và đứng dậy. Vốn là một kẻ bạo chúa không biết thương xót, kẻ chưa bao giờ từng biết đến sự cần thiết phải kiềm chế trong suốt bấy nhiêu năm, ông ta đã bị số phận mỉa mai buộc phải thực hành kiềm chế vào đúng thời điểm cảm xúc của ông ta đã đạt tới cực đỉnh dữ dội của nó.
Peter Blood ra lệnh. Một tấm ván gỗ được đẩy thò ra ngoài mép thành tàu và được buộc dây chắc lại.
“Xin mời, ngài Đại tá.” Anh nói với một cử chỉ vung tay chào mời kiểu cách.
Viên Đại tá nhìn anh, và trong ánh mắt ông ta là cả địa ngục. Sau đó, đi tới quyết định và chưng ra vẻ mặt khá nhất để thực hiện nó bởi chẳng ai khác có thể giúp ông ta ở đây, ông Đại tá hất văng đôi giày đang đi ra, cởi bỏ chiếc áo khoác bảnh chọe bằng lụa bóng màu bánh quy và leo lên tấm ván.
Ông ta dừng lại giây lát, giữ thăng bằng nhờ một bàn tay bám chặt lấy chiếc thang dây, kinh hãi nhìn xuống mặt nước màu xanh lục đang vùn vụt trôi qua cách bên dưới hơn bảy mét.
“Hãy tản bộ vài bước nào, Đại tá thân mến.” Một giọng nói trơn tru, giễu cợt cất lên sau lưng ông ta.
Vẫn bám chặt lấy lan can, Đại tá Bishop do dự nhìn quanh, và thấy dọc theo mạn tàu là những khuôn mặt ngăm đen, khuôn mặt của những người mới chỉ hôm qua thôi hẳn đã tái mét trước một cái cau mày của ông ta, những khuôn mặt giờ đây đều nhăn nhở cười đểu cáng.
Trong giây lát, thịnh nộ xua tan sợ hãi trong ông ta. Viên Đại tá lớn tiếng nguyền rủa bọn họ thậm tệ và lảm nhảm, rồi buông tay ra và bước đi trên tấm ván. Ông ta đi được ba bước thì mất thăng bằng và rơi tòm xuống làn nước xanh lục sâu thẳm bên dưới.
Khi ông ta trồi trở lên mặt nước, hổn hển thở lấy hơi, chiếc Năm vết thương chịu nạn đã đi xa được vài trăm sải về phía dưới gió. Nhưng tiếng reo hò giễu cợt chào tạm biệt của các phiến quân lưu đày vẫn vọng qua mặt nước tới chỗ ông ta, để làm cơn thịnh nộ bất lực như sắt nung đỏ hằn sâu thêm vào tâm hồn viên Đại tá.