G
iờ là lúc cần hé lộ hoàn toàn thực tế rằng việc lưu lại được câu chuyện về các chiến công của Thuyền trưởng Blood đều là nhờ sự cần mẫn của Jeremy Pitt, anh chàng Thuyền trưởng người Somersetshire. Ngoài năng lực trong vai trò một hoa tiêu của mình, chàng trai trẻ đáng mến có vẻ cũng là một tay bút không biết mệt mỏi, và đã tìm thấy nguồn cảm hứng để chiều theo sự tuôn chảy của nó trong sự quý mến mà rõ ràng cậu ta dành cho Peter Blood.
Chàng trai là người ghi nhật ký của chiếc tàu chiến bốn mươi pháo Arabella khi phục vụ trên đó trong vai trò sĩ quan trưởng, hay như chúng ta ngày nay hẳn sẽ gọi là sĩ quan hoa tiêu, tôi chưa bao giờ gặp một cuốn nhật ký hàng hải tương tự nào như thế. Bộ nhật ký tàu này gồm đến hơn hai mươi tập kích cỡ rất chênh lệch nhau, trong đó có những tập đã thất lạc hoàn toàn, có những tập khác thật đáng buồn bị rách thiếu mất nhiều trang đến mức chẳng còn mấy hữu dụng. Nhưng nếu có những thời điểm trong quá trình khổ công tìm hiểu các bản thảo này - chúng được lưu trữ trong thư viện của ông James Speke tại Comerton - tôi đã rất phẫn nộ với những khuyết thiếu kể trên, thì vào những thời điểm khác tôi cũng gặp khó khăn tương tự với sự rườm rà thái quá của những ghi chép còn lưu lại cũng như khó khăn trong việc chắt lọc từ tổng thể lộn xộn này ra những phần thực sự quan trọng.
Tôi có nghi vấn rằng Esquemeling1 - cho dù theo cách nào hay ở đâu thì tôi không thể phỏng đoán - chắc chắn đã tiếp cận được với các ghi chép này, và ông ta đã lấy ra những chi tiết đắt giá của một số kỳ công để gán vào tô điểm cho vị anh hùng của chính mình, Thuyền trưởng Morgan2. Nhưng đó chỉ là vài lời tiện thể nói ra mà thôi. Tôi nhắc tới chuyện này chủ yếu như một lời cảnh báo, bởi sắp tới đây khi tôi thuật lại câu chuyện xảy ra tại Maracaybo3, những ai trong quý vị từng đọc qua Esquemeling có thể sẽ rơi vào nguy cơ phỏng đoán rằng Henry Morgan đã thực sự thực hiện những điều mà trong cuốn sách này được dành cho Peter Blood một cách chân thực. Tuy nhiên, tôi nghĩ khi quý vị cân nhắc các động cơ thúc đẩy cả Blood lẫn viên Đô đốc Tây Ban Nha trong sự kiện đó, và khi quý vị thấy biến cố này là một phần liền mạch trong cả câu chuyện về Blood - trong khi nó chỉ là một sự kiện tách biệt trong câu chuyện về Morgan - quý vị sẽ đi tới cùng kết luận như tôi về chuyện đâu là kẻ đạo văn thực sự.
1. Tên gọi được Anh hóa của Alexandre Olivier Exquemelin (1645-1707): nhà văn sáng tác bằng tiếng Pháp và Hà Lan, tác giả của một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất thế kỷ XVII về đề tài cướp biển De Americaensche Zee-Roovers (tạm dịch: Lịch sử cướp biển ở châu Mỹ).
2. Henry Morgan: Tên nhân vật chính trong tác phẩm nổi tiếng của Esquemeling.
3. Nguyên văn cách gọi của tác giả trong bản gốc. Ngày nay địa danh này có tên Maracaibo, thủ phủ bang Zulia, thành phố lớn thứ hai của Venezuela.
Tập đầu tiên trong những cuốn nhật ký này của Pitt dành gần như toàn bộ để tường thuật qua hồi tưởng các biến cố đã xảy ra cho tới thời điểm Blood lần đầu tiên tới Tortuga. Cuốn nhật ký cũng như Bộ sưu tập Tannath về biên bản các phiên tòa là các nguồn chính - dù không phải duy nhất - cho câu chuyện của tôi tới lúc này.
Pitt đã rất nhấn mạnh rằng chính các hoàn cảnh mà tôi cũng đã nhắc đi nhay lại nhiều lần, và chỉ mình chúng, đã đẩy Peter Blood tới tìm nơi trú chân tại Tortuga. Chàng thanh niên đã dành ra khá nhiều giấy mực để quả quyết, chính thái độ dữ dội ấy cũng cho thấy rõ ràng vẫn nảy sinh những quan điểm đối lập, rằng Blood hay bất cứ ai trong số những con người bất hạnh đồng cảnh ngộ của anh không hề có mục đích câu kết với đám thợ săn biển, dưới sự bảo trợ bán chính thức của nước Pháp, đang biến Tortuga thành hang ổ của bọn họ, để từ đây họ có thể tỏa đi thực hiện thứ nghề nghiệp hải tặc không biết thương xót của mình, chủ yếu nhắm vào Tây Ban Nha.
Pitt cho chúng ta hay rằng ý định ban đầu của Blood là tìm đường tới Pháp hay Hà Lan. Song những tuần dài chờ đợi một chiếc tàu đưa anh tới một trong hai nước này đã khiến tiền của anh cạn dần rồi cuối cùng sạch nhẵn. Thêm nữa, người thuật chuyện về anh nghĩ rằng cậu ta đã phát hiện ra những dấu hiệu của một vấn đề bí mật nào đó ở người bạn của mình, và chàng thanh niên quy nguyên nhân của chuyện này cho việc lạm dụng thứ rượu mạnh của vùng Tây Ấn mà Blood thành ra phạm tội vào những ngày nhàn cư ấy, và cũng bởi thế mà chìm xuống ngang hàng với những kẻ phiêu lưu bạt tử mà anh kết giao trên bờ.
Tôi không nghĩ ở đây Pitt chỉ đơn thuần phạm phải lỗi biện hộ ngụy biện, rằng chàng trai đang đưa ra lý lẽ để bào chữa cho người hùng của mình. Tôi cho rằng những ngày đó có khá nhiều điều đè nặng lên tâm trí Peter Blood. Đó là ý nghĩ về Arabella Bishop - và việc ý nghĩ này hiện hữu mạnh mẽ trong tâm trí anh là điều chúng ta không được phép nghi ngờ. Anh đã phát điên bởi sự giày vò cảm xúc xuất phát từ điều không thể đạt tới được. Anh khao khát Arabella, song lại biết nàng nằm ngoài tầm với của mình một cách vô phương cứu vãn và mãi mãi. Thêm nữa, trong khi anh hẳn là đã mong muốn đi Pháp hay Hà Lan, nếu tới được đó đi chăng nữa thì anh không hề có mục đích rõ ràng nào cả. Nói cho cùng, anh là một nô lệ đào tẩu, một kẻ ngoài vòng pháp luật tại đất nước mình và là kẻ lang thang vô gia cư ở bất cứ đất nước nào khác. Chỉ còn lại biển, tự do đối với tất cả mọi người, và đặc biệt cuốn hút với những kẻ cảm thấy bản thân đang xung đột với nhân loại. Và bởi thế, nếu xét tới tinh thần phiêu lưu vốn đã một lần lôi kéo anh đi chu du thuần túy vì yêu thích điều đó, nếu xét tới việc tinh thần ấy giờ đây càng dâng cao bởi tâm trạng bất cần nảy sinh từ tình cảnh ngoài vòng pháp luật của anh, rồi kinh nghiệm và năng lực của anh trong hải chiến cũng cổ động cho những cám dỗ được bày ra trước mắt anh, liệu quý vị có còn thấy ngạc nhiên, hay liệu quý vị còn dám trách cứ anh, khi cuối cùng anh gục ngã trước cám dỗ? Và hãy nhớ cho là những cám dỗ này không chỉ được đưa ra từ những tay giang hồ làm nghề săn biển anh làm quen trong các tửu quán ở ổ quỷ Tortuga đó, mà thậm chí từ cả ông d'Ogeron, Thống đốc hòn đảo này, người thu phí cập cảng của mình ở tỉ lệ một phần mười tất cả các chiến lợi phẩm được mang vào vịnh, đồng thời còn hưởng lợi hơn nữa từ khoản hoa hồng thu trên số tiền người ta mong muốn ông Thống đốc chuyển đổi giúp thành hối phiếu có thể thanh toán được tại Pháp.
Một nghề rất có thể mang bộ dạng đáng ghê tởm khi được dẫn chứng bởi hình ảnh đám gian manh say ngà ngật bẩn thỉu, những tay thợ săn, thợ lấy gỗ, những kẻ sống lang thang bên bờ biển người Anh, người Pháp hay người Hà Lan, thì giờ trở thành một hình thức đàng hoàng, gần như hợp pháp của nghề săn biển khi được ủng hộ bởi nhà quý tộc trung niên lịch thiệp, thông qua việc đại diện cho công ty Tây Ấn của Pháp dường như đang đại diện cho chính nước Pháp.
Hơn nữa, tất cả những người đã cùng Peter Blood đào thoát khỏi đồn điền ở Barbados - bao gồm cả chính Jeremy Pitt, trong huyết mạch của cậu ta luôn vang vọng tiếng gọi mãnh liệt của biển cả - những người cũng như anh không biết phải làm gì tiếp theo, đều quyết định gia nhập đội ngũ đông đảo của Bằng hữu Duyên hải, như cách đám cướp biển tự xưng. Và họ đồng tâm hợp lực ra sức thuyết phục Blood, yêu cầu rằng giờ đây anh cần tiếp tục đảm nhiệm vai trò chỉ huy họ như đã làm kể từ khi họ rời Barbados, và thề trung thành đi theo anh đến bất cứ nơi đâu anh dẫn họ dấn thân vào.
Vậy là, để tóm lại tất cả những gì Jeremy đã ghi chép về chủ đề này, cuối cùng Blood đã chịu thuận theo sức ép bên ngoài cũng như bên trong, buông mình theo dòng đưa đẩy của số mệnh. “Fata viam invenient1” là những lời chính anh nói về nó.
1. Tiếng Latin, nghĩa là: “Số mệnh sẽ tìm ra cách.”
Nếu Blood cự lại lâu được đến thế, tôi cho rằng đó là do ý nghĩ về Arabella Bishop đã ngăn trở anh. Ngay từ đầu, anh đã cho rằng định mệnh vốn khiến hai người khó mà gặp lại nhau được, hay kỳ thực là khả năng đó sẽ chẳng bao giờ xảy đến. Anh hình dung ra sự khinh miệt của nàng khi nghe được tin anh trở thành cướp biển, và sự khinh miệt ấy, dù chỉ là tưởng tượng, vẫn khiến anh đau khổ như thể đó chính là thực tại rồi. Và ngay cả khi anh vượt qua được chướng ngại kể trên, ý nghĩ về cô gái vẫn luôn hiện hữu. Anh đành thỏa hiệp với phần lương tâm mà ký ức về nàng đã giữ cho luôn thức tỉnh một cách đáng bối rối. Anh thề rằng ý nghĩ về nàng sẽ mãi luôn hiện hữu trước mắt anh để giúp anh giữ bàn tay mình sạch sẽ hết mức có thể với một người theo đuổi thứ nghề liều lĩnh anh đang dấn thân vào. Vậy là, dẫu rằng anh không nuôi chút hy vọng hão huyền nào về chuyện có lúc nào đó giành được nàng cho riêng mình, hay thậm chí là được gặp lại nàng, tuy nhiên ký ức về cô gái vẫn tồn tại trong tâm hồn anh mang một sức ảnh hưởng vừa ngọt ngào vừa cay đắng, giúp thanh tẩy cho linh hồn anh. Tình yêu không bao giờ thành hiện thực thường sẽ là lý tưởng dẫn đường cho một người đàn ông. Sau khi đã quyết, anh hăng hái bắt tay vào việc. D'Ogeron, vị Thống đốc sẵn sàng trợ giúp nhất trên đời, đã ứng trước tiền cho anh để trang bị chu đáo cho chiếc tàu của anh, Năm vết thương chịu nạn, được anh đặt tên lại là Arabella. Việc đổi tên này được thực hiện sau chút do dự khi anh sợ làm vậy để lộ ra tâm sự thầm kín của mình. Song những người bạn từ Barbados của anh chỉ coi đó là một biểu hiện cho sự châm biếm luôn thường trực trong cách vị Thuyền trưởng của họ vẫn xử sự.
Bên cạnh hai mươi thuộc hạ đã có sẵn, anh bổ sung thêm sáu mươi người nữa, lựa chọn người của mình một cách thận trọng và có chọn lọc - và anh là một người có khả năng đánh giá con người xuất chúng - từ những kẻ giang hồ tụ hội tại Tortuga. Anh đặt ra với tất cả bọn họ những điều khoản giao ước thông thường của đám Bằng hữu Duyên hải, theo đó mỗi người sẽ được trả bằng một phần giá trị chiến lợi phẩm cướp được. Tuy nhiên, về các khía cạnh khác, các điều khoản lại khác hẳn. Trên tàu Arabella không có chỗ cho thứ ngang tàng vô kỷ luật thường phổ biến trên các tàu săn biển. Những ai đi biển cùng anh phải thực hiện việc phục tùng và tuân thủ mệnh lệnh của chính anh và của các sĩ quan được chỉ định qua bầu cử trong mọi chuyện. Bất cứ ai thấy khó chịu với điều khoản này trong giao kèo đều có thể chọn đi theo một đầu lĩnh khác.
Đến cuối tháng Mười hai, khi mùa bão đã tự kết thúc, anh ra khơi trên chiếc tàu được trang bị chu đáo với thủy thủ đoàn đầy đủ, và trước khi anh quay về vào tháng Năm năm sau từ một chuyến hải hành dài đằng đẵng và đầy mạo hiểm, tiếng tăm của Thuyền trưởng Peter Blood đã lan xa như những gợn sóng trước gió trên khắp mặt biển Caribe. Đã diễn ra một cuộc giao chiến tại Eo biển Đầu gió1 vào ngay đầu chuyến đi với một chiếc tàu buôn lớn của Tây Ban Nha, kết quả là chiếc tàu Tây Ban Nha bị cướp sạch rồi cuối cùng bị đánh chìm. Một cuộc tập kích táo bạo bằng vài chiếc thuyền độc mộc thích hợp được thực hiện nhắm vào một hải đội mò ngọc trai của Tây Ban Nha tại Rio de la Hacha2, từ vụ này họ đoạt được một mẻ ngọc trai đặc biệt có giá trị. Còn có một cuộc đột kích lên bờ tới các bãi đãi vàng ở Santa Maria, tại vùng Main thuộc Tây Ban Nha, câu chuyện đầy đủ được kể lại về cuộc phiêu lưu này thật khó lòng tin nổi, và còn vài cuộc phiêu lưu ít ấn tượng hơn, trong tất cả, thủy thủ đoàn của tàu Arabella luôn giành phần thắng và kiếm được những món lợi lớn, dù không phải lúc nào cũng toàn vẹn không tổn thất.
1. Eo biển trên biển Caribe, nằm giữa hai đảo Cuba và Hispaniola.
2. Thành phố ở miền Bắc Columbia, nằm ở cửa sông Rancheria đổ ra biển Caribe.
Kết quả là trước khi chiếc Arabella quay về bến nhà tại Tortuga vào tháng Năm năm sau để sửa chữa và tân trang - vì con tàu không phải không chịu chút xây xước nào như quý vị cũng có thể luận ra - tiếng tăm của con tàu cũng như của vị Thuyền trưởng Peter Blood đã lan rộng từ Bahamas tới quần đảo Đầu gió, từ New Providence tới Trinidad.
Tiếng vang của nó đã lan tới châu Âu, để rồi những lời trách cứ giận dữ đã được đại sứ Tây Ban Nha bày tỏ tại triều đình St. James, và ông này nhận được câu trả lời là không thể cho rằng tên Thuyền trưởng Blood này có bất cứ sự ủy thác nào của vua nước Anh, mà kỳ thực đó là một tên phản nghịch đã bị kết án, một nô lệ đào tẩu, và bất cứ biện pháp nào được Đức Vương thượng Công giáo đưa ra để chống lại anh ta cũng sẽ nhận được sự tán thưởng nhiệt thành của Vua James Đệ nhị.
Don Miguel de Espinosa, Đô đốc Tây Ban Nha ở Tây Ấn, và cháu trai Don Esteban ra khơi cùng ông ta đều rất sẵn lòng đưa gã giang hồ này tới với đầu trục căng buồm. Đối với họ, việc bắt giữ Blood, giờ đây đã trở thành một việc mang tính quốc tế, cũng đồng thời là chuyện gia đình.
Tây Ban Nha, qua phát ngôn của Don Miguel, không hề dè sẻn những lời đe dọa. Lời thuật lại về chúng truyền tới Tortuga, kèm theo sự quả quyết rằng Don Miguel được chống lưng không chỉ bởi quyền lực của đất nước mình, mà cả sự ủng hộ của Vua Anh.
Đó là một lời dọa dẫm ghê gớm nhưng sáo rỗng, chẳng thể khiến Thuyền trưởng Blood phải mảy may run sợ. Và cũng chẳng có vẻ gì là chàng Thuyền trưởng vì thế mà phải ru rú trong cảnh an toàn tại Tortuga. Vì anh đã chọn biến Tây Ban Nha làm đích trút giận cho những nỗi thống khổ phải chịu dưới tay con người. Như thế, anh cho rằng mình đang thực hiện được một mục đích kép: Anh có được sự bù đắp, và đồng thời giúp ích cho nước Anh, chứ quả thực không phải để phục vụ vị vua dòng Stuart mà anh căm ghét, cũng như giúp cho phần nhân loại văn minh còn lại đang bị xứ Castilla tàn bạo, phản trắc, tham lam và cuồng tín ngăn cản giao tiếp với Tân Thế giới.
Một ngày nọ, trong khi anh đang ngồi cùng Hagthorpe và Wolverstone hút tẩu và uống một chai rum trong bầu không khí ngột ngạt nồng nặc mùi hắc ín và khói thuốc lá quẩn trong một tửu quán bên bờ biển, một tay anh chị bảnh bao mặc áo khoác bằng vải xa tanh màu xanh sẫm có viền đăng ten kim tuyến và quấn một dải thắt lưng màu huyết dụ rộng đến gần hai gang tay ở ngang hông xáp tới gần bắt chuyện với anh.
“C'est vous qu'on appelle Le Sang?1” Gã này vồn vã hỏi.
Thuyền trưởng Blood ngước nhìn lên để xem xét người đặt câu hỏi trước khi trả lời. Tay này cao ráo, đường nét cơ thể khỏe khoắn lanh lợi, với khuôn mặt ngăm ngăm và cái mũi diều hâu tuấn tú một cách tàn nhẫn. Một viên kim cương có giá trị lớn lấp lánh như phát lửa trên bàn tay chẳng mấy sạch sẽ đang chống lên đốc thanh kiếm dài của gã, và hai tai của tay này đeo khuyên vàng, bị che khuất đi một phần sau những lọn tóc xoăn dài màu hạt dẻ bóng nhẫy.
1. Tiếng Pháp, nghĩa là “Ông là người được mọi người gọi là Le Sang phải không?” Trong tiếng Pháp, Le Sang là máu, tương tự như Blood trong tiếng Anh.
Thuyền trưởng Blood nhấc cán tẩu ra khỏi môi.
“Tên tôi là Peter Blood.” Anh nói. “Người Tây Ban Nha biết tôi dưới cái tên Don Pedro Sangre, và một người Pháp có thể gọi tôi là Le Sang nếu anh ta thích.”
“Tốt.” Kẻ tiếp chuyện lòe loẹt nói bằng tiếng Anh, và chẳng cần được mời chào thêm, gã kéo một chiếc ghế đẩu rồi ngồi xuống bên cái bàn trơn nhẫy đó. “Họ của tôi là Levasseur.” Gã tự giới thiệu với ba người cùng bàn, trong đó ít nhất hai người đang nhìn gã ngờ vực. “Các vị có thể đã nghe nói về tôi.”
Quả là họ có nghe qua. Anh chàng này chỉ huy một chiếc tàu săn biển hai mươi pháo đã bỏ neo trong vịnh trước đó một tuần, với thủy thủ đoàn chủ yếu là những thợ săn thú từ vùng bắc đảo Hispaniola, những người có lý do chính đáng để căm thù người Tây Ban Nha với sự mãnh liệt vượt quá người Anh. Levasseur đã đưa họ quay về Tortuga sau một chuyến hải hành chẳng mấy phát tài. Tuy nhiên, cần đến điều gì đó to tát hơn sự thất bại đơn thuần này để làm xẹp bớt sự phù phiếm khổng lồ của gã. Là một gã du đãng to mồm, ưa gây gổ, nát rượu và máu mê cờ bạc, tiếng tăm của gã này với tư cách một thợ săn biển nổi như cồn trong giới Bằng hữu Duyên hải điên cuồng. Gã cũng sở hữu cả một thứ tiếng tăm khác nữa. Trong vẻ ngông nghênh lòe loẹt khoác lác của gã có điều gì đó khiến phụ nữ thấy đặc biệt hấp dẫn. Việc tay du đãng này công khai huênh hoang về vận đỏ của gã dường như chẳng khiến Thuyền trưởng Blood thấy lạ, điều có lẽ anh thấy lạ là những lời huênh hoang này có vẻ lại ít nhiều được xác nhận.
Những lời đồn đại khi đó cho hay là thậm chí cả tiểu thư d'Ogeron, con gái ngài Thống đốc, cũng lọt bẫy sự quyến rũ ngang tàng của gã, và Levasseur đã đẩy sự táo tợn đi xa tới mức ngỏ lời cầu hôn nàng với người cha. Ông d'Ogeron đã dành cho gã câu trả lời duy nhất khả dĩ. Ông này đã mời tay hải tặc ra khỏi cửa. Levasseur rời đi trong cơn thịnh nộ, thề rằng gã sẽ cưới quý tiểu thư làm vợ ngay trước mũi tất cả các người cha trong thế giới Kitô giáo, và ông d'Ogeron sẽ phải cay đắng hối hận sự xúc phạm đã dành cho gã.
Đó chính là người lúc này chủ động tìm gặp Thuyền trưởng Blood với một đề xuất hợp tác, ngỏ ý góp sức với anh không chỉ thanh kiếm của gã, mà cả chiếc tàu của gã cũng như thủy thủ đoàn của nó.
Mười hai năm trước, khi là một thanh niên mới chỉ đôi mươi, Levasseur đã đi biển cùng con quái vật tàn bạo L'Ollonais1, và những chiến tích sau đó của chính gã đã minh chứng và xác nhận cho thành công của môi trường trong đó gã được rèn giũa.
1. Ám chỉ Francois L’Ollonais (Francois - người đến từ Ollone) có biệt danh “Lưỡi hái Tây Ban Nha”, được coi là “kẻ tàn ác nhất đại dương”.
Tôi dám ngờ là vào thời đó, trong đám Bằng hữu Duyên hải lại có thể có kẻ nào đê tiện hơn tay Levasseur này. Và dẫu thế, dù thấy nhân vật này thật đáng tởm, Thuyền trưởng Blood cũng không thể phủ nhận rằng các đề nghị của gã thể hiện sự can đảm, trí tưởng tượng và sự tháo vát, và anh buộc phải thừa nhận là hợp sức cùng nhau, họ có thể hứa hẹn những hoạt động có quy mô tầm cỡ hơn khi bọn họ chỉ thực hiện riêng lẻ. Đích tối hậu cho dự định của Levasseur là một cuộc tấn công vào thành phố Maracaybo giàu có trên lục địa; nhưng gã thừa nhận việc này sẽ phải cần đến tối thiểu sáu trăm người, và không thể chở được sáu trăm người trên hai chiếc tàu họ đang có trong tay hiện tại. Cần tiến hành những chuyến đi chuẩn bị với một trong các mục đích nhắm tới là chiếm thêm tàu.
Vì anh không thích con người này, Thuyền trưởng Blood không lập tức đưa ra cam kết gì. Nhưng bởi anh thích lời đề nghị, anh ưng thuận sẽ cân nhắc về nó. Rồi sau đó, bị cả Hagthorpe và Wolverstone thúc ép, hai người họ không có chung ác cảm cá nhân với anh chàng người Pháp như Blood, kết cục là sau một tuần các giao kèo được soạn thảo thống nhất giữa Levasseur và Blood, được ký xác nhận bởi họ và - như lệ thường - bởi các đại diện được chọn ra trong đám thuộc hạ của họ.
Những khoản giao kèo này, bên cạnh các điểm khác, chứa đựng thỏa thuận chung rằng nếu hai chiếc tàu tách riêng ra, sau đó cần phải thống kê lại nghiêm ngặt tất cả các khoản chiến lợi phẩm chiếm riêng được, trong đó tàu chiếm được chiến lợi phẩm sẽ giữ lại ba phần năm giá trị, chuyển hai phần năm còn lại cho bên cộng tác. Những phần này sau đó sẽ được chia trong thủy thủ đoàn của mỗi tàu, theo các điều khoản đã nhất trí giữa mỗi thuyền trưởng và người của anh ta. Về phần còn lại, các điều khoản giao kèo bao gồm tất cả những điều khoản thông thường, trong đó có điều khoản quy định rằng bất cứ ai bị phát hiện bớt xén hoặc cất giấu một phần bất kỳ của một chiến lợi phẩm, dù giá trị chỉ không hơn một peso1 đi chăng nữa, cũng sẽ lập tức bị treo cổ lên đầu trục căng buồm.
1. Đơn vị tiền tệ do Tây Ban Nha và các vùng thuộc địa của Tây Ban Nha phát hành, về nguồn gốc, ban đầu đồng peso được gọi là đồng tám.
Giờ đây, khi tất cả đã được thu xếp ổn thỏa, họ chuẩn bị sẵn sàng để ra khơi, và vào đúng hôm trước ngày rời bến, Levasseur thiếu chút nữa bị ăn đạn trong nỗ lực lãng mạn trèo qua tường bao khu vườn nhà Thống đốc nhằm mục đích chia tay mùi mẫn với tiểu thư d'Ogeron đang mê mẩn đến phát cuồng. Gã bỏ cuộc sau khi bị nhắm bắn hai lần từ một ổ phục kích của lính canh của ngài Thống đốc được bố trí sau những cây ớt tiêu Jamaica thơm ngát, và anh chàng rời đi với lời thề sẽ viện đến những biện pháp dứt khoát và khác hẳn khi trở về.
Tối đó, tên săn biển ngủ trên tàu của mình, con tàu được tay Thuyền trưởng đặt tên là Tia sét2 theo đúng bản tính khoa trương lòe loẹt của gã, và tại đây vào ngày hôm sau, gã đón nhận chuyến tới thăm của Thuyền trưởng Blood, người mà gã vẫn xưng hô có phần giễu cợt là Đô đốc. Chàng Ireland tới để hoàn tất nốt một vài chi tiết cuối cùng mà tất cả những gì chúng ta cần biết đến là một thỏa thuận rằng trong trường hợp hai chiếc tàu bị tách ra một cách ngoại ý hoặc có chủ đích, họ sẽ gặp lại nhau càng sớm càng tốt tại Tortuga.
2. La Foudre.
Sau đó, Levasseur mời Đô đốc của gã dùng bữa tối, và hai người cùng uống chúc thành công của cuộc viễn chinh này, việc uống mừng này về phần Levasseur dào dạt tới độ đến lúc chia tay gã đã gần như say bí tỉ, quên cả trời trăng.
Cuối cùng, khi đêm gần xuống, Thuyền trưởng Blood xuống qua mạn tàu rồi được xuồng đưa trở về chiếc tàu lớn với thân tàu sơn đỏ và các lỗ châu mai thếp vàng của anh, được mặt trời hoàng hôn tô điểm thành một vật thể thật đáng yêu.
Anh cảm thấy hơi bất an. Tôi từng nói anh là một người biết xét đoán con người, và sự xét đoán về Levasseur khiến anh đầy ắp lo âu, nỗi lo âu ngày càng trĩu nặng hơn khi ngày ra khơi càng cận kề.
Anh bộc lộ cảm nghĩ của mình với Wolverstone lúc anh gặp ông ta khi đặt chân lên mặt boong tàu Arabella:
“Các người đã dồn ép thuyết phục tôi ký cái giao kèo đó, chết tiệt; và tôi sẽ lấy làm ngạc nhiên nếu có gì hay ho đến từ cuộc hợp tác này.”
Lão hộ pháp đảo con mắt độc nhất đầy khát máu của mình, chìa khuôn hàm đồ sộ của lão ra. “Chúng ta sẽ vặn cổ loại chó má ấy nếu có bất cứ sự phản trắc nào.”
“Chúng ta sẽ làm thế - nếu lúc ấy chúng ta có mặt ở đó để vặn cổ nó.” Nói xong, anh gạt chuyện này đi. “Chúng ta sẽ giương buồm vào buổi sáng, trong cơn thủy triều rút đầu tiên.” Anh thông báo, rồi đi về phía phòng của mình.