H
ệ quả tự nhiên của việc giải cứu tiểu thư d'Ogeron là một bước cải thiện trong mối quan hệ vốn đã thân thiết giữa Thuyền trưởng Blood và ngài Thống đốc Tortuga. Trong ngôi nhà đẹp bằng đá với những ô cửa sổ có khung chấn song màu xanh lục được ông d'Ogeron xây cho mình giữa một khu vườn rộng rãi tươi tốt ở phía đông Cayona, chàng Thuyền trưởng trở thành một vị khách rất được chào đón. Ông d'Ogeron nợ chàng Thuyền trưởng nhiều hơn khoản hai mươi nghìn đồng tám mà anh đã ứng ra để chuộc tiểu thư. Cho dù là một người khôn ngoan đầy toan tính mặc cả, nhà quý tộc Pháp có thể hào phóng và hiểu thế nào là sự biết ơn. Điều này giờ đây được ngài Thống đốc chứng minh theo mọi cách có thể, và dưới sự bảo trợ quyền uy của ông, uy tín của Thuyền trưởng Blood trong giới săn biển nhanh chóng đạt tới đỉnh cao.
Bởi thế, khi chuẩn bị hải đội của mình cho cuộc tập kích Maracaybo vốn ban đầu là dự định của Levasseur, anh không hề thiếu tàu hay người để đi theo mình. Anh chiêu mộ tất cả năm trăm tay lính đánh thuê, và anh đã có thể tập hợp tới cả nhiều nghìn người nếu có đủ phương tiện chuyên chở họ. Tương tự như vậy, anh hẳn cũng chẳng chút khó khăn nếu định nâng số tàu trong hải đội của mình lên gấp đôi, nhưng anh thích duy trì quy mô của nó như hiện có. Ba chiếc tàu anh giới hạn cho hải đội gồm có Arabella, Tia sét mà lúc này do Cahusac chỉ huy với thủy thủ đoàn gồm khoảng một trăm hai mươi người Pháp, và Santiago - đã được sửa sang lại và đổi tên thành Elizabeth, theo tên vị Nữ vương Anh mà các thủy thủ Anh dưới thời bà đã hạ gục đám Tây Ban Nha, vì giờ đây Thuyền trưởng Blood hy vọng sẽ lại khuất phục đối thủ lần nữa. Hagthorpe, vì từng phục vụ trong hải quân, được Blood chỉ định làm chỉ huy chiếc tàu này, và việc chỉ định đã được đội cướp biển xác nhận.
Vài tháng sau cuộc giải cứu tiểu thư d'Ogeron - vào tháng Tám năm 1687 - sau vài cuộc phiêu lưu không đáng kể tôi sẽ lặng lẽ bỏ qua, hải đội nhỏ này giương buồm tiến vào hồ lớn Maracaybo và thực hiện cuộc tập kích lên thành phố giàu có đó của vùng Main thuộc Tây Ban Nha.
Cuộc tập kích không diễn ra chính xác như hy vọng, và lực lượng của Blood rơi vào một tình thế hiểm nghèo. Tình thế này được mô tả chuẩn nhất trong những từ được Cahusac sử dụng - mà Pitt đã cẩn thận ghi chép lại - trong một cuộc đấu khẩu nổ ra trên các bậc cấp của Nhà thờ Đức Mẹ Carmen mà Thuyền trưởng Blood đã trưng dụng một cách bất kính làm nhà giam. Như tôi đã nói, anh chỉ là tín đồ Công giáo khi điều đó thích hợp với mục đích của anh.
Cuộc đấu khẩu diễn ra giữa một bên là Hagthorpe, Wolverstone và Pitt, còn bên kia là Cahusac, xuất phát hoàn toàn từ sự bất an của phe ít người. Đằng sau lưng họ, trên quảng trường bụi bặm bị ánh nắng thiêu đốt, chỉ lác đác vài cây cọ có những tàu lá rũ xuống xác xơ dưới cái nóng gay gắt, tụ tập chừng hai trăm gã giang hồ thuộc về cả hai phe, lúc này sự kích động của bản thân những kẻ này tạm lắng xuống để chúng có thể lắng nghe những gì đang diễn ra giữa các đầu lĩnh của chúng.
Cahusac có vẻ đang nắm mọi thứ trong tay theo ý hắn, và tay này cất cao giọng nói khàn khàn cáu kỉnh lên thật to để tất cả có thể nghe thấy lời tố cáo hung hăng của hắn. Pitt cho chúng ta hay là hắn nói một thứ tiếng Anh kinh khủng, tuy nhiên chàng trai trẻ không mất công tái hiện thứ đó. Trang phục của gã người Bretagne cũng lôi thôi chẳng kém gì ngôn ngữ của hắn. Đó là một cách để quảng bá về nghề nghiệp của hắn, và tương phản một cách tức cười với bộ trang phục nghiêm chỉnh của Hagthorpe và bộ dạng bảnh bao gần như tay chơi của Jeremy Pitt. Chiếc áo sơ mi bẩn thỉu dính máu bằng vải bông màu xanh lơ mở phanh trước ngực giúp bộ ngực lông lá được mát mẻ hơn, còn chiếc đai lưng thắt quanh hông cái quần da mang cả một kho súng ngắn cùng một con dao, trong khi một thanh kiếm ngắn lưỡi cong ở đầu một dây đeo bằng da chéo qua vai treo lủng lẳng bên người hắn. Bên trên khuôn mặt rộng bèn bẹt như mặt một người Mông Cổ, hắn quấn một cái khăn đỏ quanh đầu như một chiếc khăn xếp.
“Chẳng phải tôi đã cảnh cáo mọi người ngay từ đầu là mọi thứ quá dễ dàng hay sao?” Hắn hỏi nửa than phiền nửa tức giận. “Tôi không phải kẻ ngốc, thưa quý vị. Tôi có mắt, tôi đây. Và tôi thấy. Tôi thấy một pháo đài bị bỏ trống ở lối vào hồ, chẳng có ai ở đó để bắn một khẩu pháo vào chúng ta khi chúng ta tiến vào. Khi đó tôi đã nghi ngờ cái bẫy. Ai có mắt và có trí óc lại không thế chứ? Kệ! Chúng ta đi tiếp. Chúng ta tìm thấy gì nào? Một thành phố, cũng bị bỏ trống như pháo đài, một thành phố nơi dân cư đã khuân sạch đi mọi thứ có giá trị. Một lần nữa tôi cảnh cáo Thuyền trưởng Blood. Đây là một cái bẫy, tôi nói. Chúng ta lại tiến tiếp, luôn tiến tiếp, không hề gặp kháng cự, cho tới khi chúng ta phát hiện ra đã quá trễ để ra biển trở lại, rằng chúng ta không thể quay trở lại nữa. Nhưng sẽ chẳng ai nghe tôi. Tất cả các vị đều biết nhiều hơn nhiều. Nhân danh Chúa! Thuyền trưởng Blood, anh ta sẽ đi tiếp, và chúng ta đi tiếp. Chúng ta tới Gibraltar. Đúng là cuối cùng thì, sau một thời gian dài, chúng ta cũng tóm được lão Phó Thống đốc, đúng thế, chúng ta buộc lão phải trả một khoản tiền chuộc lớn cho Gibraltar, đúng là với khoản tiền chuộc và những gì cướp được, chúng ta trở về đây với hàng tá bịch tiền. Nhưng trên thực tế thì nó là cái gì đây, các vị sẽ nói cho tôi hay chứ? Hay tôi sẽ nói cho các vị hay? Đó là một miếng pho mát - một miếng pho mát trong một cái bẫy chuột, và chúng ta là những con chuột nhỏ. Chết tiệt! Còn lũ mèo - ồ, lũ mèo đang đợi chúng ta! Lũ mèo là bốn chiếc tàu chiến Tây Ban Nha đã tới trong khi chúng ta chui vào bẫy. Và chúng đợi chúng ta bên ngoài eo thắt cổ chai của vũng biển này. Có Đức Chúa tuẫn nạn! Đó là điều đã tới từ sự bướng bỉnh đáng nguyền rủa của Thuyền trưởng Blood quý hóa của các vị đấy.”
Wolverstone bật cười. Cahusac nổi xung.
“À, nhân danh Chúa! Mày cười à, đồ súc sinh? Mày cười! Nói cho tao hay điều này: Làm thế nào chúng ta thoát ra ngoài được trừ khi chúng ta chấp nhận các điều kiện của ngài Đô đốc Tây Ban Nha?”
Từ đám hải tặc đứng dưới chân bậc cấp vang lên tiếng rì rầm tức giận tán thành. Con mắt độc nhất của lão khổng lồ Wolverstone đảo đi thật đáng sợ, và lão siết chặt hai nắm tay to tướng lại như thể muốn nện tay người Pháp, kẻ đang đẩy họ vào thế phải đối phó với một cuộc nổi loạn. Nhưng Cahusac không nao núng. Tâm trạng đám hải tặc cổ vũ thêm cho hắn.
“Có lẽ mày nghĩ Thuyền trưởng Blood của mày là Chúa lòng lành. Rằng hắn ta có thể tạo ra phép màu hẳn? Mày biết không, hắn ta thật lố bịch, tay Thuyền trưởng Blood của mày ấy, với vẻ ông lớn và...”
Hắn ngừng bặt. Đúng lúc ấy, Peter Blood ung dung bước ra khỏi nhà thờ với đúng bộ dạng ông lớn. Đi cùng anh là một con sói biển người Pháp rắn rỏi, cẳng sếu có họ Yberville, người cho dù còn trẻ đã kịp giành được tiếng tăm trong vai trò một chỉ huy hải tặc trước khi việc bị mất tàu buộc anh ta phải tìm tới phục vụ dưới quyền Blood. Chàng Thuyền trưởng bước tới chỗ nhóm người đang cãi cọ, hơi tựa người trên cây gậy dài bằng gỗ mun, khuôn mặt anh được che dưới một cái mũ phớt rộng vành. Vẻ bề ngoài của anh chẳng có dấu vết gì của một tay hải tặc. Trông anh có phong thái của một tay chơi nhàn tản dạo bước trên đường phố ở Mall hoặc đô thị Alameda - càng giống ở địa danh của Tây Ban Nha này, bởi bộ đồ lịch sự bằng lụa bóng màu tím với các lỗ khuyết thêu kim tuyến của anh được may theo thời trang nước này. Nhưng thanh kiếm dài cứng rắn dùng để chiến đấu, được ấn hất lên ở phía sau bởi bàn tay trái đang nhẹ nhàng đặt lên đốc kiếm đã đính chính lại ấn tượng kể trên. Chi tiết đó cũng như đôi mắt lạnh lùng ánh thép của anh cho biết đây là một kẻ giang hồ.
“Anh thấy tôi lố bịch sao, Cahusac?” Anh nói khi dừng lại trước mặt gã người Bretagne, cơn giận dữ của tay này dường như đã trôi tuột khỏi người hắn. “Vậy thì tôi cần phải thấy anh thế nào đây?” Anh nói khẽ, gần như ngán ngẩm. “Anh sẽ nói với họ rằng chúng ta đã trì hoãn, và chính sự trì hoãn đã mang tới nguy hiểm cho chúng ta. Nhưng sự trì hoãn ấy là do lỗi của ai nhỉ? Chúng ta đã mất một tháng để làm điều đáng lẽ đã xong xuôi chỉ trong vòng một tuần, nếu không vì sự ngớ ngẩn của anh.”
“Ái chà! Sáng danh Chúa! Liệu có phải là lỗi của tôi khi...”
“Liệu đó là lỗi của ai khác đây khi anh đưa tàu Tia sét của anh mắc cạn ở bãi cát ngầm ngay giữa hồ? Anh không cần đến hoa tiêu. Anh biết cách của mình. Thậm chí anh còn chẳng thèm dò độ sâu. Kết quả là chúng ta mất ba ngày quý báu để đưa ca nô tới di chuyển người và đồ của anh. Ba ngày đó đã khiến cư dân tại Gibraltar không chỉ có thời gian để biết chúng ta tới, mà cả thời gian để rời đi. Sau đó, và cũng vì chuyện ấy, chúng ta đã phải đuổi theo viên Thống đốc tới cái pháo đài trên hòn đảo địa ngục của ông ta, và mất hai tuần cùng gần một trăm mạng người để đánh chiếm nó. Chúng ta đã bị trì hoãn như thế đấy cho tới khi hải đội Tây Ban Nha được một tàu tuần duyên gọi tới đây từ La Guayra, và nếu anh không làm mất tàu Tia sét, khiến hải đội của chúng ta bị giảm từ ba tàu xuống còn hai, thậm chí ngay lúc này chúng ta vẫn có thể chiến đấu để phá vây với một hy vọng thành công hợp lý. Ấy vậy nhưng anh lại nghĩ anh có quyền đến la lối ở đây, trách cứ chúng tôi vì một tình thế chính là kết quả từ sự vô lý của chính anh.”
Anh đã nói với một sự kiềm chế mà tôi tin quý vị sẽ đồng ý là đáng ngưỡng mộ khi tôi kể cho quý vị hay rằng hải đội Tây Ban Nha đang canh giữ lối ra thắt cổ chai của hồ lớn Maracaybo, và ở đó chờ đợi Thuyền trưởng Blood xuất hiện với sự tự tin bình thản dựa trên sức mạnh vượt trội của nó, được chỉ huy bởi kẻ thù không đội trời chung của anh, Don Miguel de Espinosa y Valdez, Đô đốc Tây Ban Nha. Thêm vào bổn phận với đất nước mình, như quý vị cũng biết, ngài Đô đốc còn có một động cơ cá nhân hình thành từ biến cố xảy ra trên tàu Hiện thân của Chúa trước đó một năm và từ cái chết của em trai ông này, Don Diego. Và đi cùng ngài Đô đốc là cháu trai ông ta, Esteban, người có khao khát báo thù còn mãnh liệt hơn cả chính người bác ruột.
Ấy thế nhưng, dù biết tất cả chuyện này, Thuyền trưởng Blood vẫn có thể giữ được bình tĩnh khi quở trách sự hoảng hốt đớn hèn của một kẻ đang ở trong tình thế chẳng nguy hiểm bằng một nửa những gì đe dọa bản thân anh. Anh quay từ Cahusac sang nói với đám đông hải tặc, những kẻ đã chen nhau dồn lại gần hơn để lắng nghe anh, vì anh đã không hề nhọc công lớn giọng hơn khi nói. “Tôi hy vọng điều đó sẽ đính chính một số hiểu lầm có vẻ đang làm quý vị băn khoăn.” Anh nói.
“Chẳng có gì hay ho khi nhắc về chuyện đã qua và sự đã rồi.” Cahusac lớn tiếng, lúc này sưng sỉa hơn là hung hăng. Nghe tới đây, Wolverstone bật cười, một tiếng cười nghe như tiếng ngựa hí. “Câu hỏi ở đây là giờ chúng ta phải làm gì?”
“Đương nhiên bây giờ chẳng có câu hỏi nào hết.” Thuyền trưởng Blood nói.
“Quả vậy, nhưng có đấy.” Cahusac khăng khăng. “Don Miguel, Đô đốc Tây Ban Nha, đã đề nghị cho chúng ta ra biển an toàn nếu chúng ta rời đi ngay lập tức, không gây tổn hại gì cho thành phố, thả tất cả tù binh chúng ta bắt được và giao lại tất cả những gì chúng ta đã cướp ở Gibraltar.”
Thuyền trưởng Blood lặng lẽ mỉm cười, biết rõ lời lẽ của Don Miguel đáng giá bao nhiêu. Chính Yberville là người trả lời để bày tỏ sự coi khinh gã đồng hương của anh ta:
“Điều đó cho thấy rằng ngay cả khi hắn đang đẩy chúng ta vào thế bất lợi như thế mà tay Đô đốc Tây Ban Nha vẫn sợ chúng ta.”
“Đó có thể chỉ vì ông ta không biết tình cảnh yếu thế thực sự của chúng ta.” Đó là câu đáp trả gay gắt. “Và dù thế nào đi nữa chúng ta phải chấp nhận các điều kiện này. Chúng ta không có lựa chọn. Đó là quan điểm của tôi.”
“À, đó không phải quan điểm của tôi.” Thuyền trưởng Blood nói. “Thế nên tôi đã bác bỏ chúng.”
“Bác bỏ!” Khuôn mặt vành vạnh của Cahusac trở nên đỏ bầm. Một tiếng rì rầm từ đám người sau lưng làm hắn thêm can đảm. “Anh đã bác bỏ? Anh đã bác bỏ rồi - và không thèm hỏi ý tôi?”
“Sự không đồng tình của anh cũng chẳng thay đổi gì. Khi đó anh hẳn đã trở thành thiểu số khi biểu quyết, vì Hagthorpe đây hoàn toàn nhất trí với tôi. Thêm nữa…” Anh nói tiếp. “Nếu anh và nhóm người Pháp của anh muốn làm theo các điều kiện của người Tây Ban Nha, chúng tôi sẽ không cản trở các anh. Hãy cử một trong các tù binh của các anh tới thông báo điều đó với viên Đô đốc. Don Miguel sẽ hoan nghênh quyết định của các anh, anh có thể tin chắc như vậy.”
Cahusac im lặng nhìn anh gườm gườm trong giây lát. Rồi sau khi đã kiềm chế được bản thân, hắn hỏi với giọng bình tĩnh:
“Chính xác thì anh đã trả lời ngài Đô đốc như thế nào?” Một nụ cười rạng lên trên khuôn mặt và trong đôi mắt của Thuyền trưởng Blood. “Tôi đã trả lời ông ta là trừ khi trong vòng hai mươi bốn giờ chúng ta có được lời hứa danh dự của ông ta là sẽ lui ra ngoài biển, ngừng chặn đường đi hay cản trở sự ra đi của chúng ta, và giao một khoản tiền chuộc năm mươi nghìn đồng tám cho Maracaybo, chúng ta sẽ biến thành phố đẹp đẽ này thành tro, rồi sau đó đi ra tiêu diệt hải đội của ông ta.”
Sự ngang ngạnh của câu trả lời làm Cahusac không thốt nổi nên lời. Nhưng trong hàng ngũ hải tặc người Anh đứng dưới quảng trường, nhiều gã lại khoái trá trước kiểu hài hước táo tợn của kẻ mắc bẫy ra điều kiện cho kẻ canh bẫy. Từ đám này vang lên tiếng cười. Nó lan rộng ra thành tiếng hò reo hoan hô, vì tháu cáy1 là một vũ khí rất được ưa chuộng với mọi kẻ giang hồ. Ngay lập tức, khi bọn họ hiểu ra nó, thậm chí cả đám người Pháp của Cahusac cũng nhảy lên reo hò, bị cuốn theo cơn nhiệt tình vui vẻ đó, cho tới khi chỉ còn Cahusac là kẻ không tán thành duy nhất trong sự hung hăng bướng bỉnh của hắn. Hắn ê chề rút lui. Hắn cũng không hề nguôi ngoai cho tới ngày hôm sau đem đến cho hắn cơ hội báo thù. Sự báo thù này đến dưới hình hài một người đưa tin từ Don Miguel, mang theo một lá thư trong đó viên Đô đốc Tây Ban Nha trang trọng thề với Chúa rằng bởi lũ cướp biển đã từ chối lời đề nghị độ lượng của ông ta cho phép chúng được đầu hàng trong danh dự, giờ đây ông ta sẽ chờ chúng ngoài cửa hồ để hủy diệt chúng khi chúng mò ra. Viên Đô đốc nói thêm rằng nếu chúng trì hoãn việc ra đi, ngay khi được tăng viện một chiếc tàu thứ năm, chiếc Chúa Hài đồng2, lúc này đang trên đường từ La Guayra tới hội quân với ông ta, đích thân ông ta sẽ tiến vào để tìm chúng tại Maracaybo.
1. Cách gọi một mưu mẹo trong chơi bài poker (xì tố), người chơi đặt “tố” nhiều để đánh lạc hướng, khiến đối phương hiểu lầm mà bỏ cuộc.
2. Nguyên văn tiếng Tây Ban Nha là Santo Nino.
Lần này, Thuyền trưởng Blood đã bị mất bình tĩnh.
“Đừng quấy rầy tôi thêm nữa.” Anh quát vào mặt Cahusac khi hắn lại tới càu nhàu với anh. “Hãy gửi lời tới Don Miguel rằng anh đã ly khai khỏi tôi. Hắn sẽ cho anh giấy thông hành, chẳng phải nghi ngờ chuyện đó. Sau đó hãy lấy một trong những chiếc xà lúp, ra lệnh cho người của anh lên đó và ra biển rồi xéo đi với quỷ.”
Cahusac chắc chắn đã làm theo cách đó nếu người của hắn nhất trí trong chuyện này. Tuy nhiên, đám này bị giằng co giữa lòng tham và nỗi sợ. Nếu rời đi, chúng sẽ phải bỏ lại phần chiến lợi phẩm được chia, vốn cũng đáng kể, cũng như nô lệ và các tù binh khác chúng đã bắt được. Nếu chúng bỏ đi, và sau đó Thuyền trưởng Blood tìm cách chuồn thoát không hề hấn gì - và từ những gì chúng biết về sự khôn ngoan của anh, khả năng này, cho dù khó xảy ra, vẫn không nhất thiết là bất khả - anh sẽ hưởng hết những gì lúc này chúng từ bỏ. Kể đến nước này thì đây là một bất trắc quá cay đắng. Bởi vậy, cuối cùng, bất chấp tất cả những gì Cahusac có thể nói, đám này không quy thuận Don Miguel mà quy thuận Peter Blood. Họ đã dấn thân vào cuộc mạo hiểm này với anh, đám hải tặc lý luận, và họ sẽ thoát nạn cùng với anh hoặc không thoát khỏi nó. Đó là thông điệp anh nhận được từ họ cùng tối đó qua cái miệng sưng sỉa của chính Cahusac.
Anh hoan nghênh nó, và mời tay người Bretagne ngồi xuống gia nhập cuộc họp ngay cả lúc đó vẫn đang bàn bạc về các biện pháp sẽ áp dụng. Cuộc họp này diễn ra tại khoảng sân rộng rãi của tư dinh thống đốc - mà Thuyền trưởng Blood đã trưng dụng cho riêng mình - một không gian lát đá hình tứ giác có hành lang bao quanh, ở chính giữa là một đài phun nước đang êm đềm vận hành dưới một giàn nho. Những cây cam được trồng ở hai bên khoảng sân, và không khí ban đêm tĩnh lặng thấm đẫm mùi hương của chúng. Đây là một trong những kiến trúc ngoại thất - nội thất được các kiến trúc sư người Moor du nhập vào Tây Ban Nha rồi được người Tây Ban Nha mang theo tới Tân Thế giới.
Tại đây, cuộc họp của hội đồng chiến tranh gồm cả thảy sáu người bàn bạc tới tận khuya hôm đó về kế hoạch hành động được Thuyền trưởng Blood đưa ra.
Hồ nước ngọt lớn Maracaybo, được nuôi dưỡng nhờ hai mươi con sông đổ vào nó từ những rặng núi tuyết phủ bao lấy hồ ở hai mặt có chiều dài khoảng một trăm hai mươi dặm và có chiều rộng gần như tương tự ở nơi rộng nhất. Như đã đề cập qua, hồ nước này có hình dạng như một cái chai khổng lồ với cổ chai hướng ra biển tại Maracaybo.
Qua chỗ thắt cổ chai này nó lại mở rộng ra, rồi hai dải đất dài, hẹp được biết đến dưới tên gọi là đảo Vigilias và đảo Palomas án ngữ lối ra, nằm trải dài ngang qua lối thông tới biển. Lối ra biển duy nhất cho các tàu có trọng tải tương đối lớn nằm ở eo biển hẹp giữa hai hòn đảo này. Palomas, có chiều dài khoảng mười dặm, là nơi không thể tiếp cận trong phạm vi nửa dặm đổ lại ở cả hai bên với bất cứ tàu thuyền nào ngoài những loại thuyền có mức mớn nước nông nhất, ngoại trừ mỏm cực đông của nó, nơi tọa lạc một pháo đài đồ sộ kiểm soát hoàn toàn lối đi hẹp ra biển mà đám cướp biển đã tìm thấy bị bỏ không khi chúng tới. Ở dải nước rộng hơn giữa lối đi hẹp này và cồn cát ngầm ngoài cửa biển, bốn chiếc tàu Tây Ban Nha đang buông neo ở giữa dòng. Chiếc tàu Hiện thân của Chúa của viên Đô đốc mà chúng ta đã biết qua là một chiếc tàu chiến rất mạnh với bốn mươi tám khẩu pháo lớn và tám khẩu pháo nhỏ. Kế đến về tầm quan trọng là tàu Đấng cứu thế1 với ba mươi sáu pháo; hai tàu còn lại, Công chúa2 và Thánh Felipe3, cho dù là những chiếc tàu nhỏ hơn, cũng vẫn đủ đáng gờm với hai mươi khẩu pháo và một trăm năm mươi người trên mỗi tàu.
1. Nguyên văn tiếng Tây Ban Nha là Salvador.
2. Nguyên văn tiếng Tây Ban Nha là Infanta.
3. Nguyên văn tiếng Tây Ban Nha San Felipe.
Đó là hải đội mà Thuyền trưởng Blood phải nhận lời thách đấu với chiếc Arabella của anh mang bốn mươi pháo, chiếc Elizabeth có hai mươi sáu pháo, và hai chiếc xà lúp chiếm được tại Gibraltar, mỗi chiếc chỉ được trang bị sơ sài với bốn khẩu pháo cỡ nhỏ. Về người, họ chỉ có vẻn vẹn bốn trăm người còn sống sót trong số hơn năm trăm người đã rời Tortuga để đối đầu với tròn một nghìn quân Tây Ban Nha trên những chiếc tàu chiến.
Kế hoạch hành động được Thuyền trưởng Blood đưa ra trước hội đồng là một kế hoạch rất liều lĩnh, như Cahusac đã không chút nể nang tuyên bố.
“Sao chứ, nó đúng là thế.” Chàng Thuyền trưởng nói. “Nhưng tôi đã từng làm những việc còn liều lĩnh hơn.” Anh thỏa mãn kéo một hơi từ tẩu thuốc được nhồi thứ thuốc lá Sacerdotes thơm lừng đã làm cho Gibraltar trở nên nổi tiếng, và đám hải tặc cũng đã mang theo vài thùng lớn. “Và điều đáng nói hơn là chúng đã thành công. Audaces fortuna juvat.1 Có Chúa chứng giám, các vị La Mã cổ xưa này quả là biết rõ về thế giới của họ.”
1. Tiếng Latin, nghĩa là: “Vận may trợ giúp kẻ táo bạo.”
Anh truyền cho các đồng nghiệp của mình, thậm chí cho cả Cahusac, ít nhiều tinh thần tự tin của bản thân, và tất cả bận rộn bắt tay vào việc cùng tâm trạng đầy tin tưởng. Trong ba ngày liền từ lúc mặt trời mọc tới lúc mặt trời lặn, đám cướp biển gò lưng đổ mồ hôi để hoàn tất những công việc chuẩn bị cho hành động sẽ đem đến sự giải thoát cho họ. Thời gian đang giục giã. Họ cần ra đòn trước khi Don Miguel de Espinosa nhận được tăng viện của chiếc tàu chiến thứ năm, Chúa Hài đồng, hiện đang trên đường từ La Guayra tới hội quân với ông ta.
Công việc chuẩn bị chính của họ là trên chiếc lớn hơn trong số hai chiếc xà lúp chiếm được tại Gibraltar; chiếc thuyền này được lựa chọn đóng vai trò chính trong kế hoạch của Thuyền trưởng Blood. Họ bắt đầu bằng việc phá bỏ tất cả các vách ngăn cho tới khi đã biến chiếc thuyền trở thành chỉ còn là một cái vỏ, và ở hai bên thành thân thuyền đám cướp biển trổ ra rất nhiều lỗ tới mức phần thân thuyền bên trên mực mớn nước trở nên giống như một tấm mạng lỗ chỗ. Tiếp đến, họ trổ thêm sáu lỗ cửa xuống khoang trên mặt boong, rồi chất vào trong khoang thuyền tất cả hắc ín, nhựa thông và lưu huỳnh có thể tìm thấy trong thành phố, rồi bổ sung thêm vào đó sáu thùng thuốc súng, được dựng như những khẩu pháo tại các lỗ trổ ra ở bên mạn trái thuyền. Đến tối ngày thứ tư, khi mọi thứ đã sẵn sàng, tất cả cướp biển lên tàu, và thành phố Maracaybo tươi vui vắng vẻ cuối cùng cũng bị bỏ trống. Nhưng đám cướp biển không nhổ neo cho tới khi đã quá nửa đêm chừng hai giờ. Sau đó, cuối cùng khi đợt triều xuống đầu tiên diễn ra, họ lặng lẽ dong thuyền hướng về phía dải cát ngầm với tất cả buồm cuốn lại ngoại trừ các lá buồm mũi được căng ra để đón làn gió nhẹ thổi qua màn đêm tím sẫm của vùng nhiệt đới nhằm cho phép họ điều khiển được hướng đi.
Thứ tự di chuyển của đội tàu cướp biển như sau: Đi đầu là chiếc hỏa thuyền tự chế dưới quyền chỉ huy của Wolverstone với thủy thủ đoàn gồm sáu người tình nguyện, mỗi người sẽ được thêm một trăm đồng tám ngoài phần chiến lợi phẩm được chia như một phần thưởng đặc biệt. Kế tiếp là chiếc Arabella. Theo sau cách xa một quãng là chiếc Elizabeth do Hagthorpe chỉ huy, đi cùng trên đó là Cahusac, bây giờ đã không còn tàu, cũng như phần lớn đám thủ hạ người Pháp của hắn. Đi đoạn hậu là chiếc xà lúp thứ hai và tám chiếc ca nô, trên đó chở các tù binh, nô lệ và phần lớn hàng hóa cướp được. Các tù binh đều bị trói, do bốn tay cướp biển trang bị súng hỏa mai được bố trí trên những chiếc thuyền này canh giữ, bên cạnh hai gã khác làm nhiệm vụ điều khiển thuyền. Vị trí của đám này là ở phía sau và không tham gia bất cứ vai trò nào trong cuộc giao chiến sắp tới.
Khi những tia sáng le lói đầu tiên của lúc tảng sáng mờ đục làm tan màn đêm, những đôi mắt căng ra quan sát của đám cướp biển đã có thể nhìn thấy các cột buồm cao của mấy chiếc tàu Tây Ban Nha đang dập dềnh tại vị trí bỏ neo ở cách phía trước chưa tới một phần tư dặm. Bởi những người Tây Ban Nha hoàn toàn không có chút nghi ngờ nào, lại tự tin vào sức mạnh vượt trội của họ, khó có khả năng họ canh phòng cảnh giác hơn thói quen bất cẩn của mình. Chắc chắn họ đã không phát hiện ra hải đội của Blood trong thứ ánh sáng yếu ớt đó cho tới một thời gian sau khi hải đội của Blood đã nhìn thấy họ. Đến lúc người Tây Ban Nha thực sự tỉnh ngủ hẳn, chiếc xà lúp của Wolverstone gần như đã tới chỗ họ, lao đi nhanh chóng dưới tất cả các lá buồm đã được căng ra trên các trục căng buồm ngay khi những chiếc tàu chiến kia xuất hiện trong tầm nhìn.
Wolverstone hướng chiếc xà lúp lao thẳng tới chiếc tàu đồ sộ của viên Đô đốc, chiếc Hiện thân của Chúa. Tiếp đến, sau khi đã buộc cố định bánh lái, lão dùng một mồi lửa đã châm sẵn để bên cạnh mình để châm một cây đuốc to bằng rơm được bện chặt và nhúng vào hắc ín. Thoạt đầu cây đuốc cháy âm ỉ, rồi khi lão vung nó lên vòng quanh đầu mình, cây đuốc cháy bùng lên thành ngọn lửa, đúng lúc chiếc xà lúp lao tới, đâm sầm rồi cạ dọc theo thân chiếc kỳ hạm, trong khi dây buồm của hai chiếc tàu đã mắc rối vào nhau, làm các trục căng buồm bị kéo căng và các sào mắc buồm gãy răng rắc phía trên đầu. Sáu người trong thủy thủ đoàn của lão đứng ở vị trí của họ bên mạn trái, mình trần trùng trục, mỗi người cầm một móc bám, bốn người ở dưới mặt boong, hai người trên cột buồm. Đúng thời điểm va chạm, các móc bám được tung ra giữ chặt chiếc tàu Tây Ban Nha với họ, những móc bám được tung từ trên cột buồm nhằm mục đích hoàn tất và duy trì các dây buồm quấn chằng lấy nhau.
Trên chiếc tàu chiến Tây Ban Nha vừa bị đánh thức một cách thô bạo, mọi thứ đều hỗn loạn với tiếng người hối hả chạy đi chạy lại nhốn nháo, tiếng kèn hiệu vang lên và tiếng chửi rủa. Thoạt đầu, đám Tây Ban Nha vội vã cố gắng vô vọng để kéo neo lên, nhưng việc này đã bị bỏ ngang vì đã quá trễ. Thế rồi cho rằng bản thân họ sắp bị tấn công sang mạn, người Tây Ban Nha cầm lấy vũ khí để đẩy lùi cuộc công kích. Việc tấn công ấy mãi không xuất hiện khiến bọn họ bối rối, vì chuyện này quá khác biệt so với những chiến thuật thông thường của cướp biển. Người Tây Ban Nha càng bối rối hơn khi thấy lão khổng lồ Wolverstone trần trùng trục chạy dọc theo mặt boong thuyền, giơ cao một ngọn đuốc cháy rực. Mãi tới khi lão đã hoàn tất việc của mình, bọn họ mới bắt đầu ngờ đến sự thật - rằng lão đang châm dây ngòi cháy chậm - và khi đó một trong các sĩ quan Tây Ban Nha, trở nên bất cẩn trong lúc hoảng loạn, đã ra lệnh cho một toán xung phong sang chiếc xà lúp.
Mệnh lệnh này được đưa ra quá muộn. Wolverstone đã thấy sáu gã cướp dưới quyền lão nhảy khỏi thuyền sau khi tung xong móc bám, rồi sau đó chính lão hối hả chạy tới bên mạn phải thuyền. Tại đây, lão ném bó đuốc cháy rực của mình xuống ô cửa gần nhất trổ xuống khoang thuyền, rồi đến lượt mình cũng lao qua mạn, để rồi chẳng mấy chốc được một chiếc xuồng từ Arabella tới đón lên. Nhưng trước khi việc này diễn ra, chiếc xà lúp đã chìm trong lửa, từ nó những tiếng nổ đang hất những đám chất cháy rừng rực lửa lên boong chiếc Hiện thân của Chúa, và những lưỡi lửa dài đang thè ra để nuốt lấy chiếc tàu chiến vĩ đại, hất lui trở lại đám người Tây Ban Nha táo bạo, dù đã quá muộn, vẫn cố gắng trong tuyệt vọng để cắt rời chiếc xà lúp ra.
Và trong khi chiếc tàu đáng gờm nhất trong hải đội Tây Ban Nha đã bị loại khỏi vòng chiến ngay từ đầu theo cách như vậy, Blood giương buồm lao tới nổ pháo vào chiếc Đấng cứu thế. Đầu tiên, khi ở ngang với lỗ thả neo của chiếc tàu này, anh đã cho nã một loạt pháo mạn quét sạch mặt boong của nó với kết quả khủng khiếp, rồi cho tàu tiến tiếp và vòng trở lại, anh nã loạt pháo mạn thứ hai vào thân của nó ở cự ly gần. Để kệ chiếc Đấng cứu thế chí ít cũng đang bị hư hại nặng nề nhất thời, anh tiếp tục hướng di chuyển của mình, và gây hoang mang cho thủy thủ đoàn của tàu Công chúa bằng vài phát đạn từ các khẩu pháo mũi, sau đó áp sát vào dọc theo mạn để bám chặt lấy chiếc tàu này và xung phong sang boong của nó. Cùng lúc, Hagthorpe đang làm điều tương tự với tàu Thánh Felipe.
Và trong suốt thời gian này, những người Tây Ban Nha không sao xoay xở nổi để bắn được lấy dù chỉ một phát đạn bởi bọn họ đã hoàn toàn bị phủ đầu bất ngờ, đồng thời đòn tấn công của Blood lại quá chớp nhoáng khiến đối phương tê liệt.
Bị cập mạn tấn công và phải đối diện với những lưỡi thép lạnh lẽo trong tay đám cướp biển, cả Thánh Felipe lẫn Công chúa đều không chống cự đáng kể. Cảnh tượng kỳ hạm đô đốc của họ cháy rừng rực còn chiếc Đấng cứu thế đang trôi dạt, bị loại khỏi vòng chiến, đã khiến thủy thủ đoàn hai tàu này mất tinh thần tới mức tự coi mình đã thua cuộc và hạ vũ khí.
Nếu bằng sự chống trả kiên cường, chiếc Đấng cứu thế cổ vũ cho hai chiếc tàu còn lại chưa bị hư hại gì kháng cự, phía Tây Ban Nha rất có thể đã cứu vãn được cơ may trong ngày hôm đó. Thế nhưng trên thực tế, chiếc Đấng cứu thế đã bị vô hiệu hóa theo đúng phong cách Tây Ban Nha vì nó là tàu chở tiền của hải đội, mang theo số bạc thỏi trị giá khoảng năm mươi nghìn đồng tám. Mong muốn trên hết ngăn không cho số bạc này rơi vào tay đám cướp biển, Don Miguel đã cùng số tàn quân ít ỏi trong thủy thủ đoàn của mình chuyển sang chiếc tàu này, rồi cho tàu hướng về phía đảo Palomas và pháo đài án ngữ lối ra biển. Trong những ngày chờ đợi, viên Đô đốc đã cẩn thận bí mật cho bố trí vũ khí và lực lượng đồn trú trở lại tại pháo đài này. Với mục đích đó, ông ta đã lấy hết vũ khí của pháo đài Cojero nằm xa hơn trong vịnh, bao gồm vài khẩu đại pháo hoàng gia có tầm bắn xa và sức công phá mạnh hơn đại bác thường.
Không hề ngờ tới việc này, Thuyền trưởng Blood cho tàu truy đuổi, theo cùng là tàu Công chúa, lúc này đã trở thành chiến lợi phẩm nằm dưới quyền điều khiển của một thủy thủ đoàn do Yberville chỉ huy. Những khẩu pháo đuôi của tàu Đấng cứu thế đáp trả rời rạc hỏa lực dữ dội của những kẻ truy đuổi; nhưng chiếc tàu này đã bị hư hại nặng tới mức chẳng bao lâu sau, khi vào trong tầm ngắm của những khẩu pháo trên pháo đài, nó bắt đầu chìm, và cuối cùng thì chìm hẳn xuống vùng nước nông, một phần thân tàu nhô lên khỏi mặt nước. Từ chỗ chiếc tàu chìm, viên Đô đốc đưa thủy thủ đoàn của ông ta lên bờ trên đảo Palomas tốt nhất có thể, một số bằng xuồng, một số bơi.
Rồi sau đó, đúng lúc Thuyền trưởng Blood coi chiến thắng đã được đảm bảo, và đường thoát bẫy ra ngoài biển khơi đã rộng mở, pháo đài đột nhiên bộc lộ sức mạnh đáng gờm và hoàn toàn không ngờ đến của nó. Với tiếng nổ rền, những khẩu đại pháo hoàng gia lên tiếng, và chiếc Arabella khựng lại dưới một phát đạn phá toang thành tàu ở giữa thân, gieo rắc chết chóc và rối loạn trong đám cướp biển tập trung tại đó.
Nếu không nhờ Pitt, người chỉ huy con tàu, đích thân cầm lấy cần bẻ lái và bẻ mạnh lái nhằm ngoặt gấp tàu sang phải, Arabella chắc chắn đã bị tổn hại nghiêm trọng hơn nhiều từ loạt đạn thứ hai nhanh chóng tiếp nối sau loạt thứ nhất.
Trong khi đó, tình hình xấu hơn nhiều với tàu Công chúa ít kiên cố hơn. Cho dù chỉ trúng có một quả đạn, chiếc tàu này đã bị vỡ tan ván thành tàu bên mạn trái ở ngay mức mớn nước, bắt đầu khiến nước tràn vào và chắc chắn đã làm ngập đầy khoang nếu không nhờ hành động kịp thời của Yberville đầy kinh nghiệm khi anh ta ra lệnh ném hết pháo ở mạn trái xuống biển. Được làm nhẹ đi theo cách đó, và lúc này nghiêng hẳn sang mạn phải, chiếc tàu được Yberville cho quay lại, lảo đảo bám theo sau chiếc Arabella đang rút lui, bị hỏa lực từ pháo đài bắn đuổi theo, nhưng cũng chỉ khiến hai chiếc tàu phải chịu thêm rất ít tổn hại.
Cuối cùng, khi ra ngoài tầm pháo, hai chiếc tàu dừng lại, được Elizabeth và Thánh Felipe tới hội quân để cùng đánh giá tình thế của họ.