M
ãi đến tận hai tháng sau, vào ngày Mười chín tháng Chín, nếu quý vị nhất thiết muốn biết ngày tháng chính xác, Peter Blood mới bị đưa ra xét xử về tội phản quốc. Chúng ta biết anh không hề phạm phải tội này, song chúng ta không cần phải nghi ngờ việc anh đã đủ sẵn sàng cho nó vào thời điểm anh bị đưa ra truy tố. Hai tháng giam cầm vô nhân đạo không thể mô tả thành lời đã đẩy tâm trí anh tới một sự căm thù lạnh lùng không đội trời chung dành cho Vua James và những người đại diện cho Nhà vua. Việc trong tất cả những hoàn cảnh này anh vẫn còn giữ được tâm trí, dù nó có thế nào đi nữa, ít nhiều cũng đã cho thấy sự ngoan cường của anh. Dẫu vậy, cho dù tình thế của con người hoàn toàn vô tội này có kinh khủng đến thế nào đi chăng nữa, anh vẫn có lý do để cảm thấy mình may mắn ở hai điều. Trước hết là chí ít anh cũng được đưa ra tòa xử; thứ hai là phiên tòa xử anh diễn ra vào đúng ngày đã nói ở trên, chứ không sớm hơn một ngày. Chính sự trì hoãn đã khiến anh bực bội này, cho dù anh vẫn chưa nhận ra điều đó, đã đem đến cho anh cơ may duy nhất để tránh khỏi giá treo cổ.
Nếu không nhờ sự ưu ái của số mệnh, anh đáng lý rất dễ dàng là một trong số những người ngay hôm sau ngày xảy ra trận đánh, bị điệu một cách ít nhiều hú họa từ trong nhà tù đông quá tải ở Bridgewater ra và bị treo cổ tức thì ngoài chợ theo lệnh của viên Đại tá khát máu Kirke. Viên Đại tá chỉ huy trung đoàn Tangiers với tính khí hiếu sát của mình rất có thể đã xử trí tất cả tù binh theo cùng cách đó, bất chấp số lượng đông đảo của họ nếu không có sự can thiệp quyết liệt của Giám mục Mews, đó là việc dừng các tòa án binh dã chiến này lại.
Dù thế, trong tuần đầu tiên sau trận Sedgemoor đó, Kirke và Feversham đã cùng nhau xử tử hơn một trăm người sau một phiên tòa qua loa lấy lệ đến mức chẳng phải là một phiên tòa. Họ cần những con mồi cho các giá treo cổ họ đang dựng lên trong vùng, và họ chẳng mấy bận tâm đến chuyện nguồn cung cấp đó được lấy từ đâu hay những mạng sống vô tội nào bị họ tước đoạt. Nói cho cùng, mạng sống của một gã dân đen quê mùa thì là gì chứ? Đám đao phủ liên tục bận rộn với dây thừng, rìu và những chảo hắc ín. Tôi sẽ tránh cho quý vị các chi tiết của bức tranh ghê rợn ấy. Bởi nói cho cùng điều chúng ta bận tâm là số phận của Peter Blood chứ không phải của đám phiến quân đi theo Monmouth.
Anh đã sống sót để có mặt ở một trong những đoàn tù nhân rầu rĩ bị xích thành từng cặp giải đi từ Bridgewater tới Taunton. Những người bị thương quá nặng không thể bước đi được chất lên những cỗ xe, bị nhồi nhét chật cứng trên đó một cách tàn nhẫn, vết thương không được băng bó, mưng mủ và hoại tử. Nhiều người may mắn thì chết trên đường. Khi Blood nhất quyết viện đến quyền được sử dụng hiểu biết của mình để làm giảm bớt ít nhiều nỗi thống khổ này, anh bị coi là kẻ nhũng nhiễu và bị đe dọa đánh roi. Nếu anh có điều gì hối tiếc lúc này thì đó là anh đã không ủng hộ Monmouth. Chuyện đó tất nhiên là phi lý, nhưng quý vị khó lòng có thể trông đợi sự logic từ một người ở tình thế như của anh.
Người bạn đường bị xích chung với anh trong cuộc diễu hành đáng sợ ấy vẫn chính là anh chàng Jeremy Pitt, người đã góp phần đưa anh vào cảnh không may hiện tại. Cậu Thuyền trưởng trẻ tuổi đã luôn ở bên người bạn chung cảnh ngộ gần gũi của mình sau khi họ cùng bị bắt. Sau đó, một cách tình cờ, họ cũng lại bị xích vào nhau trong nhà tù đông nghẹt, nơi họ gần như ngộp thở vì cái nóng và mùi xú uế trong những ngày tháng Bảy, tháng Tám và tháng Chín.
Những mẩu tin tức rời rạc lọt được vào nhà tù từ thế giới bên ngoài. Một số có thể đã được cố tình cho phép lọt vào. Trong đó có câu chuyện về cuộc hành quyết Monmouth. Nó gây ra tâm trạng buồn phiền tột bậc cho những người đang phải chịu khổ ải vì Công tước cũng như đại nghiệp bảo vệ tôn giáo mà ông ta tuyên bố ủng hộ. Nhiều người cương quyết từ chối tin vào câu chuyện này. Một tin đồn hoang đường bắt đầu lan ra kể rằng một người giống Monmouth đã tình nguyện thế thân cho Công tước, và Monmouth đã sống sót để rồi trở lại trong vinh quang để giải phóng Zion và tuyên chiến với Babylon.
Peter Blood lắng nghe tin đồn đó cũng với sự dửng dưng hệt như khi anh đón nhận tin về cái chết của Monmouth. Nhưng có một điều ô nhục anh đã nghe được có liên quan tới nó khiến anh không cảm thấy dửng dưng một cách tương tự, và góp phần nuôi dưỡng sự khinh bỉ đang hình thành anh dành cho Vua James. Vương thượng đã hạ cố chấp nhận gặp Monmouth. Nếu Nhà vua không có ý định tha thứ cho Công tước thì việc làm như thế là một điều bỉ ổi và đáng nguyền rủa không thể tin nổi, vì mục đích duy nhất còn lại khi ưng thuận cuộc gặp mặt đó chỉ có thể là cảm giác hài lòng ti tiện xấu xa được cự tuyệt sự ăn năn thảm hại từ người cháu bất hạnh của Vương thượng.
Sau đó, họ nghe tin Huân tước Grey, người đích thực là kẻ đầu têu chính của cuộc nổi loạn chỉ sau Công tước, mà có khi còn đóng vai trò quan trọng hơn là đằng khác, đã mua được sự khoan hồng cho ông ta với giá bốn mươi nghìn bảng. Peter Blood thấy tin này cũng ăn khớp một bè với tin còn lại. Sự khinh bỉ Vua James của anh cuối cùng cũng bùng phát ra.
“Sao chứ, một kẻ quá ti tiện bẩn thỉu đến thế mà lại ngồi trên ngai vàng. Giá như trước tôi biết về y cũng nhiều như tôi biết hôm nay, tôi sẽ chẳng do dự tìm ra lý do để hiện diện tại đây lúc này.” Rồi sau đó, trong một ý nghĩ bất chợt, anh hỏi: “Thế Huân tước Gildoy đang ở đâu nhỉ, cậu có đoán được không?”
Anh chàng Pitt trẻ tuổi lắng nghe câu hỏi đó, quay sang nhìn anh với một khuôn mặt mà nước da hồng hào rắn rỏi của biển cả đã gần như phai mờ hết sau những tháng giam cầm. Đôi mắt xám của chàng thanh niên mở to dò hỏi. Blood trả lời thay cậu ta.
“Tất nhiên rồi, cho tới giờ chúng ta chưa hề gặp đức ông kể từ hôm ấy tại khu trại Oglethorpe. Và những vị quý tộc đó, những kẻ cầm đầu thực sự của cuộc nổi loạn mắc dịch này, đã được đưa đi đâu? Trường hợp của Grey giải thích sự vắng mặt của họ, tôi nghĩ vậy. Họ là những kẻ giàu có và có thể chuộc mạng cho bản thân. Phải, ở đây đợi lượt lên giá treo cổ chỉ rặt có những kẻ không may đã nghe lời họ; những kẻ từng có vinh hạnh dẫn dắt đám người này đều đã thoát ra tự do. Đây là một sự nghịch đảo thú vị và hữu ích cho lẽ thường tình của những chuyện thế này. Quả thực đây là một thế giới hoàn toàn bất định!”
Anh bật cười, chìm vào tâm trạng mỉa mai đó, và vẫn khoác theo tâm trạng đó tới tận lúc anh bước vào đại sảnh của lâu đài Taunton để ra trước phiên tòa xử mình. Cùng với anh còn có Pitt và ông chủ trại Baynes. Ba người họ sẽ được xử cùng nhau, và trường hợp của họ sẽ mở đầu cho phiên xét xử vào cái ngày khủng khiếp đó.
Gian đại sảnh, thậm chí đến cả các hành lang cũng đông nghịt người dự khán, phần lớn là các quý bà quý cô, đều căng vải trang trí màu huyết dụ; đây là một ý tưởng dễ chịu thú vị của ngài Chánh án, và cũng thật tự nhiên khi ngài ưa thích màu sắc phản ánh chính tâm địa khát máu của ngài.
Ở đầu cao hơn của căn phòng, các quan tòa ngồi trên một bệ cao, năm vị thẩm phán mặc áo thụng màu huyết dụ và đội bộ tóc giả màu đen nặng nề, Nam tước Jeffreys xứ Wem ngự ở chính giữa.
Các tù nhân được áp giải vào. Người mõ tòa yêu cầu giữ trật tự, đe dọa bỏ tù kẻ nào trái lệnh, và khi tiếng nói rì rầm dần lắng xuống trở thành thì thào, Peter Blood chăm chú quan sát mười hai con người lương thiện và chính trực tạo thành bồi thẩm đoàn. Đám người này nom chẳng lương thiện cũng không chính trực. Bọn họ đang sợ chết khiếp, bồn chồn và hèn nhát như bất cứ đám trộm cắp nào bị bắt quả tang đang móc túi những người bên cạnh. Đó là mười hai con người run rẩy, mỗi người đều đang đứng giữa quyền uy từ những lời buộc tội đẫm máu mới đây của quan Chánh án và bức tường tạo thành từ lương tâm của chính bản thân.
Từ đám người này, ánh mắt bình thản, có chủ ý của Peter Blood quay sang quan sát các quan tòa, nhất là viên Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Nam tước Jeffreys, tiếng tăm đáng sợ của ngài đã lan xa từ tận Dorchester.
Anh nhìn thấy một người đàn ông cao ráo, mảnh khảnh, trạc ngoại tứ tuần, với khuôn mặt trái xoan tuấn tú một cách tinh tế. Hai quầng thâm do thống khổ hoặc mất ngủ hiện rõ dưới đôi mắt có hàng mi sụp xuống, làm nổi bật lên vẻ long lanh hơi buồn bã của chúng. Khuôn mặt vị Thẩm phán rất nhợt nhạt, ngoại trừ màu đỏ lựng của đôi môi dày và đôi gò má cao nhưng không lộ rõ đang bừng bừng như lên cơn sốt. Có điều gì đó trên đôi môi này làm hỏng mất sự hoàn hảo của khuôn mặt; một khiếm khuyết, mơ hồ nhưng không thể chối cãi, lẩn khuất ở đó để chỉ ra phần đối lập với vẻ nhạy cảm tinh tế của hai lỗ mũi kia, vẻ hiền hòa trong đôi mắt sẫm ươn ướt kia, và thái độ bình thản cao quý trên vầng trán nhợt nhạt kia.
Phần bác sĩ trong Peter Blood quan sát vị Thẩm phán với sự quan tâm đặc biệt, bởi anh biết căn bệnh đang giày vò mà đức ông phải chịu đựng, cùng cuộc sống phóng túng, không điều độ của đức ông bất chấp căn bệnh đó, hay cũng có thể chính vì nó.
“Peter Blood, giơ bàn tay lên!”
Anh đột ngột bị nhắc nhở về vị thế của mình bởi giọng nói cộc cằn của viên lục sự của tòa. Anh máy móc tuân theo mệnh lệnh, và viên lục sự ề à đọc bản cáo trạng dài dòng tuyên bố Peter Blood là một kẻ phản quốc xảo trá đã chống lại đức vua lỗi lạc nhất và tôn kính nhất James Đệ nhị, vua của Anh, Scotland, Pháp và Ireland, nhờ lượng Chúa, vị chúa tể tối cao và tự nhiên của mình. Bản cáo trạng cho anh biết rằng, bởi không có chút sợ Chúa nào trong tim, nhưng lại bị dao động và quyến rũ bởi sự xúi bẩy của quỷ dữ, anh đã không giữ trọn được bổn phận trong tình yêu cũng như sự tuân phục tự nhiên chân thành và thích đáng với Nhà vua, chúa tể của mình như đã kể trên, và đi tới chỗ làm rối loạn hòa bình và yên ổn của vương quốc, cũng như khuấy động chiến tranh, nổi loạn để phế truất Nhà vua chúa tể của mình khỏi tước vị, vinh dự và danh xưng hoàng gia của vương miện hoàng đế - cùng nhiều lời lẽ khác tương tự, và cuối cùng sau tất cả anh được yêu cầu nói xem liệu mình có tội hay không có tội. Anh trả lời nhiều hơn được hỏi.
“Tôi hoàn toàn vô tội.”
Một người đàn ông nhỏ thó với khuôn mặt sắc sảo ngồi ở một cái bàn kê bên phải trước mặt anh bật dậy. Đó là ông Pollexfen, công tố quân sự.
“Ông có tội hay không có tội?” Quý ông nóng nảy này gắt gỏng. “Ông phải trả lời đúng từ.”
“Đúng từ phải không?” Peter Blood nói. “Ồ, vô tội.” Và anh nói tiếp, hướng về phía các quan tòa. “Cũng về chủ đề từ ngữ này, nếu tòa vui lòng, tôi không phạm bất cứ tội gì để phải biện minh cho bất cứ từ nào trong những từ tôi đã nghe thấy được dùng để mô tả mình, trừ khi tội đó là thiếu kiên nhẫn trong khi bị nhốt chật như nêm trong hơn hai tháng trời ở một nhà tù bẩn thỉu trong điều kiện gây nguy hiểm lớn cho sức khỏe và thậm chí cả tính mạng của tôi.”
Một khi đã bắt đầu, anh hẳn còn nói thêm nhiều nữa, song tới đây ngài Chánh án xen vào với giọng hiền hòa, gần như than vãn.
“Ông xem lại mình kìa, thưa ông: Bởi vì chúng ta cần tuân thủ các phương pháp xét xử thông thường và thông dụng, tôi buộc phải ngắt lời ông. Hẳn là ông không biết gì về các thủ tục pháp luật?”
“Chẳng những không biết gì, thưa ngài Chánh án, mà cho tới tận lúc này vẫn rất lấy làm hạnh phúc với sự không quen biết đó. Tôi hẳn rất mừng nếu có thể tránh được việc làm quen với chúng.”
Một nụ cười nhợt nhạt thoáng làm rạng lên khuôn mặt buồn bã.
“Tôi tin ông. Ông sẽ được lắng nghe đầy đủ khi tới phần tự biện hộ. Nhưng bất cứ điều gì ông nói lúc này đều hoàn toàn không hợp pháp và không đúng lúc.”
Cảm thấy phấn chấn trước thái độ có vẻ đồng cảm và quan tâm đó, Peter Blood tiếp theo liền trả lời như được yêu cầu là anh sẽ được xét xử bởi Chúa và đất nước mình. Tới đây, sau khi đã cầu Chúa ban cho anh một phán quyết công bằng, viên lục sự gọi Andrew Baynes giơ bàn tay lên và tuyên bố về tội trạng của mình.
Sau khi Baynes tuyên bố mình không có tội, viên phó lục sự chuyển sang Pitt, chàng trai can đảm thừa nhận tội của mình. Ngài Chánh án hoạt bát hẳn lên trước việc này.
“Thế chứ, vậy là tốt hơn rồi.” Ông ta nói, và bốn vị đồng nghiệp mặc áo thụng màu huyết dụ của ông ta gật đầu. “Nếu ai cũng bướng bỉnh như hai tên đồng bọn phản nghịch của hắn thì chẳng bao giờ kết thúc được.”
Sau phép nội suy báo trước điềm xấu này, được nói ra với sự lạnh lùng phi nhân tính khiến cả phòng xử án gai người, ông Pollexfen đứng lên. Với lời lẽ dài dòng cực độ, ông này công bố cáo trạng chung dành cho ba bị cáo, và cáo trạng riêng dành cho Peter Blood, người sẽ bị truy tố trước tiên.
Nhân chứng duy nhất được công tố của Nhà vua mời ra trước tòa là Đại úy Hobart. Y nhanh nhẹn cung cấp lời chứng về hoàn cảnh y tìm thấy và bắt giữ ba bị cáo cùng với Huân tước Gildoy. Theo mệnh lệnh từ viên Đại tá chỉ huy của mình, y đáng lẽ đã có thể treo cổ Pitt ngay lập tức song lại bị cản trở bởi lời dối trá của bị cáo Blood, kẻ khiến y tin rằng Pitt là một nhà quý tộc của vương quốc và một người có địa vị.
Khi lời chứng của viên Đại úy kết thúc, Thẩm phán Jeffreys nhìn về phía Peter Blood.
“Bị cáo Blood có câu hỏi nào dành cho nhân chứng không?”
“Không, thưa tòa. Ông ấy đã thuật lại chính xác những gì đã diễn ra.”
“Tôi lấy làm mừng có được sự thừa nhận của ông về việc đó mà không có bất cứ lời lẽ quanh co nào vốn thường gặp ở loại người như ông. Và tôi sẽ nói điều này, đó là ở đây quanh co sẽ không giúp được gì nhiều cho ông. Vì cuối cùng chúng tôi luôn có được sự thật. Hãy tin chắc về điều đó.”
Tương tự, Baynes và Pitt cũng thừa nhận sự chính xác trong lời chứng của viên Đại úy, nhờ đó trên khuôn mặt đỏ lựng của ngài Chánh án buông ra một tiếng thở phào nhẹ nhõm.
“Đã vậy, chúng ta hãy tiếp tục, có Chúa chứng giám, vì chúng ta có rất nhiều việc phải làm.” Giờ đây không còn dấu vết nào của sự hiền từ trong giọng nói của ông ta. Nó nhanh và the thé, còn đôi môi qua đó giọng nói này được phát ra thì cong lên đầy khinh miệt. “Ông Pollexfen, tôi coi điều đó nghĩa là tội trạng phản quốc xấu xa của ba kẻ nổi loạn này quả thực đã được xác lập, được chính chúng thừa nhận, không có gì thêm để nói nữa.”
Giọng nói của Peter Blood vang lên quả quyết, với âm hưởng gần như chứa đựng cả tiếng cười.
“Mong ngài Chánh án thứ lỗi, song còn rất nhiều điều cần nói nữa.”
Ngài Chánh án nhìn anh, đầu tiên là ngỡ ngàng trước sự táo tợn của anh, rồi sau đó dần dần với vẻ tức giận bực bội. Đôi môi đỏ bầm chuyển thành những đường nét khó chịu, tàn nhẫn làm biến đổi cả khuôn mặt.
“Giờ thì sao hả, đồ khốn? Ngươi định lãng phí thời gian của chúng ta bằng sự lẩn tránh vô ích chắc?”
“Tôi muốn ngài và các quý vị trong bồi thẩm đoàn lắng nghe tôi tự bào chữa cho mình, như ngài đã hứa tôi sẽ được lắng nghe.”
“Sao chứ, ngươi sẽ được lắng nghe, đồ khốn kiếp, ngươi sẽ được lắng nghe.” Giọng ngài Chánh án khàn khàn rin rít như âm thanh của một cái giũa. Ông ta vừa nói vừa đau quặn, và trong một khoảnh khắc khuôn mặt ông ta trở nên méo mó. Một bàn tay mảnh khảnh trắng bệch như tay người chết, trên đó hiện rõ các mạch máu xanh lét, lấy ra một chiếc khăn tay mà ngài Chánh án áp lên môi rồi sau đó lên trán. Quan sát ông ta bằng con mắt bác sĩ của mình, Peter Blood tin chắc ngài Chánh án đang bị giày vò bởi cơn đau gây ra từ căn bệnh đang hủy hoại ông ta. “Ngươi sẽ được lắng nghe. Nhưng sau sự thừa nhận đó, còn gì để bào chữa chứ?”
“Thưa ngài Chánh án, ngài sẽ là người phán xét.”
“Đó là mục đích của ta khi ngồi đây.”
“Và cả các vị cũng sẽ phán xét, thưa các quý ông.” Blood nhìn từ Thẩm phán sang bồi thẩm đoàn. Bọn họ bồn chồn ngọ nguậy dưới vẻ tự tin lóe ra từ đôi mắt xanh của anh. Sự đe dọa nạt nộ của Thẩm phán Jeffreys đã làm họ mất hết tinh thần. Cho dù chính bản thân họ có là các tù nhân bị buộc tội phản quốc đi chăng nữa thì ông ta cũng không thể kết tội họ dữ dằn hơn.
Peter Blood can đảm đứng lên trước, thẳng người, tự tin và lạnh lùng. Anh mới vừa cạo râu, và bộ tóc giả của anh, dù đã bị hỏng nếp, ít nhất cũng được chải và chỉnh trang chu đáo.
“Đại úy Hobart đã làm chứng về điều ông ấy biết, đó là ông ấy thấy tôi tại trang trại Oglethorpe vào sáng thứ Hai sau trận đánh tại Weston. Nhưng ông ấy đã không nói với ngài tôi đã làm gì ở đó.”
Một lần nữa vị Thẩm phán chen vào cắt ngang. “Sao chứ, ngươi còn có thể làm gì ở đó bên cạnh những kẻ phản nghịch, hai trong số đó, Huân tước Gildoy và kẻ đồng bọn với ngươi ở ngay kia, đã thừa nhận tội trạng của chúng?”
“Đó là điều tôi đang xin được phép thưa với ngài.”
“Ta mời ông hãy nói, và nhân danh Chúa hãy ngắn gọn cho, thưa ông. Vì nếu ta cứ phải bị quấy quả bởi những lời dông dài từ cả đám chó phản nghịch các ngươi, có lẽ ta phải ngồi đây tới tận kỳ tòa đại hình mùa xuân mất.”
“Thưa ngài, tôi đã có mặt ở đó trong vai trò một bác sĩ để chữa trị vết thương của Huân tước Gildoy.”
“Chuyện quái quỷ gì thế này? Ngươi nói với chúng ta rằng ngươi là một bác sĩ hả?”
“Một người tốt nghiệp Trinity College ở Dublin.”
“Lạy Chúa lòng lành!” Chánh án Jeffreys thốt lên, giọng nói của ông ta đột nhiên lớn hẳn lên, mắt hướng vào bồi thẩm đoàn. “Đây quả là một tên khốn kiếp trâng tráo! Các vị đã nghe nhân chứng nói ông ấy từng biết hắn tại Tangiers vài năm về trước, và khi đó hắn là một sĩ quan phục vụ cho người Pháp. Các vị đã nghe bị cáo thừa nhận nhân chứng đã nói sự thật rồi đúng không nào?”
“Sao chứ, ông ấy đúng là đã nói thật. Thế nhưng điều tôi đang nói với ngài cũng thật không kém. Trong vài năm tôi từng là một người lính, nhưng trước đó tôi đã là một bác sĩ, và đã trở lại là bác sĩ kể từ tháng Một vừa rồi, định cư tại Bridgewater, vì tôi có thể viện ra cả trăm nhân chứng để chứng minh.”
“Không cần thiết phải lãng phí thời gian của chúng ta với cái đó. Ta sẽ kết án ngươi chính nhờ cái mồm bất lương của ngươi. Ta sẽ chỉ hỏi ngươi câu này thôi: Làm thế nào mà ngươi, kẻ tự giới thiệu mình là một bác sĩ yên phận theo đuổi nghề nghiệp của mình tại thị trấn Bridgewater, lại có mặt với đạo quân của Công tước Monmouth?”
“Tôi chưa từng có mặt trong đội quân đó. Không nhân chứng nào khẳng định điều đó, và tôi dám thề là sẽ không có nhân chứng nào làm vậy. Tôi chưa bao giờ bị thu hút vào cuộc nổi loạn vừa qua. Tôi nhìn nhận cuộc phiêu lưu đó là một sự điên rồ tội lỗi. Tôi xin phép được hỏi ngài…” Khẩu âm Ireland của anh càng trở nên rõ nét hơn bao giờ hết. “Một người sinh ra và được nuôi dạy như một tín đồ Công giáo như tôi thì có việc gì để làm trong đạo quân của người bảo vệ đạo Tin lành chứ?”
“Ngươi là tín đồ Công giáo ư?” Ngài Chánh án sầm mặt nhìn anh giây lát. “Ngươi giống một gã Tin lành đạo đức giả hơn. Ta xin nói để ngươi hay là ta có thể ngửi thấy mùi một gã Tin lành từ cách bốn mươi dặm đấy.”
“Thế thì tôi xin phép được lấy làm lạ là với một cái mũi thính nhạy đến thế ngài lại không thể ngửi ra một tín đồ Công giáo chỉ cách có bốn bước chân.”
Có tiếng cười rúc rích khẽ vang lên trong các dãy ghế rồi lập tức bị dập tắt bởi ánh mắt dữ dằn của ngài Chánh án và tiếng quát của mõ tòa.
Chánh án Jeffreys nhoài người thêm về phía trước trên chiếc bàn của ông ta. Ngài giơ bàn tay trắng trẻo tinh tế đó lên, trên bàn tay vẫn nắm lấy chiếc khăn, rồi tuôn ra một tràng từ giữa một búi đăng ten.
“Chúng ta sẽ tạm để tôn giáo của ngươi ra ngoài không xét đến vào lúc này, anh bạn.” Ông ta nói. “Nhưng hãy nghe kĩ những gì ta nói với ngươi.” Ngài Chánh án giơ ngón tay trỏ chỉ tới đầy đe dọa dứ dứ đánh nhịp theo lời nói của mình. “Anh bạn, hãy biết rằng không có tôn giáo nào một người có thể giả vờ tin theo lại đem đến sự đáng tin cho một lời dối trá. Ngươi có một linh hồn bất tử quý báu, và không gì trên thế gian này sánh ngang được với nó về giá trị. Hãy nhớ tới Đức Chúa vĩ đại của Trời và Đất, trước Tòa án của Người, cả ngươi và ta cũng như mọi người khác sẽ phải chịu sự phán xử vào ngày cuối cùng, Đức Chúa sẽ trừng phạt ngươi về mọi dối trá, và sẽ đày đọa ngươi một cách công minh vào hỏa ngục vĩnh cửu, sẽ ném ngươi xuống vực sâu không đáy của lửa và lưu huỳnh, nếu ngươi định chệch đi khỏi sự thật và không gì ngoài sự thật một chút thôi. Vì ta cảnh cáo ngươi không thể đùa với Chúa. Với cảnh cáo đó ta yêu cầu ngươi trả lời thành thật. Làm thế nào ngươi lại bị bắt cùng những tên phản nghịch này?”
Peter Blood há hốc miệng nhìn ông ta trong giây lát vì sửng sốt. Người này thật không tin nổi, phi thực tế, kỳ quái, một ông thẩm phán từ ác mộng chui ra. Thế rồi anh trấn tĩnh lại để trả lời.
“Tôi được gọi đi cứu Huân tước Gildoy vào sáng hôm đó, và tôi cho rằng đáp lại lời gọi đó là một bổn phận mà nghề nghiệp đặt ra cho tôi.”
“Thật vậy sao?” Ngài Thẩm phán lúc này có bộ dạng thật khủng khiếp - với khuôn mặt trắng bệch, đôi môi méo mó đỏ bầm như nhuốm màu của máu và chính đó là thứ mà cái miệng đó đang thèm khát, ông ta trừng trừng nhìn Blood với vẻ giễu cợt quỷ quyệt. Thế rồi ông ta kiểm soát được bản thân như thể sau một nỗ lực. Ngài Thẩm phán thở dài. Ông ta trở lại với giọng điệu than vãn hiền hòa lúc trước. “Chúa ơi! Anh bạn lãng phí thời gian của chúng ta thế đấy. Nhưng ta sẽ kiên nhẫn với ngươi. Ai đã tới gọi ngươi?”
“Cậu Pitt đang có mặt kia, và cậu ấy sẽ làm chứng.”
“Ồ! Cậu Pitt sẽ làm chứng, trong khi cậu ta là một tên phản nghịch đã tự nhận tội. Đó là nhân chứng của ngươi sao?”
“Còn có cả ông Baynes ở đây có thể trả lời cho việc đó.”
“Ông Baynes đáng mến sẽ phải trả lời cho chính mình, và ta không nghi ngờ rằng ông ấy sẽ nỗ lực hết mức để cứu cái cổ của bản thân khỏi một chiếc thòng lọng. Tiếp tục đi, quý ông, đây là những nhân chứng duy nhất của ngươi hả?”
“Tôi có thể mời những người khác từ Bridgewater tới, họ đã thấy tôi ngồi lên mông con ngựa của cậu Pitt vào sáng hôm đó.”
Ngài Chánh án mỉm cười. “Điều đó sẽ không cần thiết. Vì, hãy nghe ta cho kĩ đây, ta không định lãng phí thời gian vì ngươi. Hãy chỉ trả lời ta điều này: Khi cậu Pitt kia, như ngươi giả bộ, tới gọi ngươi, ngươi có biết hắn là kẻ đi theo Monmouth như ngươi vừa mới nghe hắn thú nhận hay không?”
“Tôi có biết, thưa ngài.”
“Ngươi có biết! Ha ha!” Ngài Chánh án nhìn bồi thẩm đoàn đang khúm núm và bật ra một tiếng cười ngắn, sắc lạnh như dao đâm. “Ấy thế nhưng bất chấp điều đó ngươi vẫn đi theo hắn?”
“Để cứu một người bị thương, như bổn phận thiêng liêng của tôi.”
“Ngươi vừa nói là bổn phận thiêng liêng của ngươi hả?” Giận dữ lại bùng lên từ ông ta. “Lạy Chúa lòng lành! Chúng ta đang phải sống cùng thế hệ của những con rắn độc thế này đây! Bổn phận thiêng liêng của ngươi, tên khốn kia, là trước Nhà vua và trước Chúa của ngươi. Nhưng hãy cho qua chuyện này đi. Hắn có nói với ngươi xem ai là người hắn muốn ngươi cứu không?”
“Có, Huân tước Gildoy.”
“Và ngươi biết Huân tước Gildoy đã bị thương trong trận đánh, cũng như việc hắn chiến đấu ở bên nào, đúng không?”
“Tôi biết.”
“Và dẫu vậy, bất chấp bản thân là một thần tử trung thành của đức Vương thượng, chúa tể của chúng ta, như ngươi muốn chúng ta tin, ngươi đã đi cứu hắn?”
Peter Blood mất đi bình tĩnh trong giây lát. “Thưa ngài, nghề nghiệp của tôi liên quan tới những vết thương của bệnh nhân chứ không phải quan điểm chính trị của ông ấy.”
Một tràng rì rầm từ các hàng ghế và thậm chí từ cả bồi thẩm đoàn tán thưởng anh. Nó chỉ khiến vị Thẩm phán đáng sợ đang xét xử anh thêm giận dữ.
“Hỡi Chúa Jesus! Đã bao giờ trên thế gian này từng có một tên vô lại trâng tráo như ngươi chưa?” Ngài Chánh án quay ngoắt sang phía bồi thẩm đoàn, mặt trắng bệch. “Thưa quý vị trong bồi thẩm đoàn, ta hy vọng các vị ghi nhận cách hành xử ghê tởm của tên phản nghịch vô lại này, và đồng thời các vị không thể không thấy tâm hồn của loại người này, thật xấu xa và hiểm độc. Từ chính miệng mình hắn đã nói ra đủ để cho phép treo cổ hắn lên cả tá lần. Ấy thế nhưng vẫn còn nhiều nữa. Hãy trả lời ta câu này, thưa quý ông: Khi ngươi lừa gạt Đại úy Hobart với lời dối trá của ngươi về địa vị của tên phản nghịch Pitt kia, khi đó công việc của ngươi là gì vậy?”
“Để tránh cho cậu ấy khỏi bị treo cổ mà không được xét xử, như cậu ấy bị đe dọa lúc đó.”
“Việc tên đê tiện đó bị treo cổ hay không và như thế nào thì can dự gì đến ngươi?”
“Công lý là mối bận tâm của mọi thần tử trung thành, vì một bất công gây ra bởi một người giữ trách nhiệm Nhà vua giao phó về mặt nào đó cũng là một sự mất thanh danh cho uy nghiêm của Vương thượng.”
Đó là một cú đòn khôn ngoan, sắc bén nhắm vào bồi thẩm đoàn, và theo tôi nghĩ, nó cho thấy sự nhạy bén trong trí tuệ của anh, sự làm chủ bản thân của anh vẫn luôn vững vàng hết mức trong những thời khắc sinh tử cận kề. Với bất cứ bồi thẩm đoàn nào khác những lời trên hẳn đã tạo ra được ấn tượng anh hy vọng tạo ra. Nó thậm chí có lẽ đã gây được ấn tượng trên cả những con chiên khốn khổ nhút nhát này. Nhưng vị Thẩm phán đáng sợ đã có mặt ở đó để xóa ấn tượng này đi.
Ngài Chánh án thở hổn hển thật to, rồi dữ dằn nhổm người ra trước.
“Có Chúa trên thiên đường chứng giám!” Ông ta gầm lên. “Đã bao giờ có một tên vô lại đạo đức giả trâng tráo thế này chưa? Nhưng ta đã xong việc với ngươi rồi. Tên vô lại kia, ta thấy ngươi, ta đã thấy ngươi với một chiếc thòng lọng tròng quanh cổ rồi.”
Sau khi nói xong như vậy, một cách hả hê, tàn ác, ông ta lại ngả người ra sau và trấn tĩnh lại. Cứ như thể một tấm màn vừa hạ xuống. Mọi cảm xúc lại tan biến khỏi khuôn mặt trắng bệch của ngài Chánh án. Dáng vẻ buồn bã, hiền hòa quay trở lại. Lên tiếng sau một lúc tạm ngừng lời, giọng của ông ta nhẹ nhàng, gần như dịu dàng, thế nhưng từng lời lẽ thốt ra đều vang lên sắc lẹm trong phòng xét xử lặng tờ.
“Nếu ta hiểu rõ tâm can mình thì bản tính ta không hề muốn gây tổn hại cho bất cứ ai, lại càng không thấy vui mừng trước sự đọa đày vĩnh viễn của người đó. Chính từ sự thương hại dành cho ngươi mà ta đã dùng đến tất cả những lời đó bởi ta muốn ngươi có ít nhiều tôn trọng cho linh hồn bất tử của mình, để đảm bảo nó không bị đày đọa bởi việc khăng khăng cố chấp bám riết lấy sai trái và quanh co lảng tránh. Nhưng ta thấy rằng mọi khổ công trên thế gian này, mọi sự trắc ẩn và thiện tâm đều chỉ vô ích với ngươi, bởi thế ta sẽ không nói thêm gì với ngươi nữa.” Ông ta lại quay khuôn mặt đẹp đẽ buồn rầu ấy sang phía bồi thẩm đoàn. “Thưa quý vị, ta cần phải nhắc quý vị rằng với luật pháp mà chúng ta là các thẩm phán chứ không phải quý vị, nếu bất cứ kẻ nào thực sự nổi loạn chống lại Nhà vua, và một kẻ khác thực sự không nổi loạn trên ý tưởng hay hành động nhưng lại đón nhận, chứa chấp, chăm sóc hay cứu giúp một cách có ý thức kẻ đầu tiên kia, thì kẻ sau cũng là một tên phản nghịch hệt như kẻ thực sự cầm vũ khí. Chúng ta bị ràng buộc bởi những lời tuyên thệ và lương tâm của chúng ta để tuyên bố với quý vị đâu là luật pháp, và quý vị bị ràng buộc bởi lời tuyên thệ và lương tâm của quý vị để đưa ra và công bố với chúng ta phán quyết về sự thực của các biến cố.”
Nói xong, ngài Chánh án chuyển sang phần kết luận, chỉ ra rằng Baynes và Blood đều phạm tội phản quốc như thế nào, người thứ nhất do chứa chấp một tên phản nghịch, người thứ hai do cứu chữa tên phản nghịch đó bằng cách chăm sóc vết thương cho hắn. Ông ta đổi vị cho bài tuyên bố của mình bằng những lời bóng gió nịnh hót dành cho vị chúa tể tự nhiên và vị quân chủ hợp pháp của mình, Nhà vua, người được Chúa ban cho họ, và bằng những lời phỉ báng đạo Tin lành cũng như Monmouth, về kẻ này trong chính lời nói của mình ngài Chánh án dám bạo miệng khẳng định rằng đến cả thần dân hạ tiện nhất trong vương quốc được sinh ra hợp pháp cũng là ứng viên tốt hơn y cho ngai vàng. “Hỡi Chúa Jesus! Cứ nghĩ đến việc chúng ta phải chịu một thế hệ những con rắn độc như thế quanh mình.” Ông ta thốt lên trong cơn phấn khích tu từ. Rồi ông ta ngả người ra sau như thể kiệt sức bởi sự hung hãn đã viện đến. Ông ta ngồi im trong giây lát, lại lấy khăn lau môi; sau đó nhúc nhích một cách khó nhọc. Thêm một lần nữa nét mặt ông ta méo mó đi bởi cơn đau, và bằng vài lời gắt gỏng gần như không đầu không đuôi, ngài Chánh án cho bồi thẩm đoàn rời phòng xử án để cân nhắc phán quyết.
Peter Blood đã lắng nghe sự thóa mạ thái quá, báng bổ và gần như thô tục trong tràng đả kích đó với sự dửng dưng mà sau này ngẫm lại khiến anh ngạc nhiên. Anh đã quá ngỡ ngàng trước con người này, trước những phản ứng diễn ra trong ông ta giữa tinh thần và cơ thể, trước phương pháp đe nẹt và cưỡng ép bồi thẩm đoàn phải nhúng tay vào máu của ông ta, tới mức anh hầu như quên mất tính mạng của chính mình đang được định đoạt.
Thời gian tạm nghỉ của bồi thẩm đoàn đã bị làm cho mụ mị đó rất chóng vánh. Phán quyết đưa ra là cả ba bị cáo đều có tội. Peter Blood nhìn quanh phòng xử án căng vải màu huyết dụ. Trong khoảnh khắc, những khuôn mặt trắng bệch dường như bay lượn trước mắt anh. Sau đó, anh trấn tĩnh lại, và một giọng nói đang hỏi liệu anh có gì để biện hộ cho bản thân, tại sao án tử hình không nên được dành cho anh sau khi đã bị kết tội phản quốc.
Anh phá lên cười, và tiếng cười của anh vang vọng một cách lạ thường trong sự tĩnh lặng chết chóc của phòng xử án. Tất cả thật lố bịch, một màn giễu cợt công lý như thể được cầm trịch bởi một gã hề với đôi mắt buồn rầu mặc áo thụng màu huyết dụ, bản thân gã hề đó cũng là một sự giễu cợt, một công cụ hằn học của một ông vua đầy thù hận và độc ác một cách tàn bạo. Tiếng cười của anh gây sốc cho sự khổ hạnh của chính gã hề đó.
“Ngươi cười sao, hỡi tên hèn mạt kia, với dây thừng tròng quanh cổ ngươi, ở trước ngưỡng cửa của hình phạt vĩnh cửu mà ngươi phải rơi vào đột ngột đến thế?”
Và khi đó Blood tung ra đòn báo thù.
“Quả thực là tôi ở vào vị thế thích hợp để vui vẻ hơn là ngài đấy. Vì tôi có điều này để nói trước khi ngài tuyên án. Ngài thấy tôi với một chiếc thòng lọng tròng quanh cổ, dẫu rằng tôi vốn dĩ vô tội và tội lỗi duy nhất là đã làm theo lòng trắc ẩn. Là người ban phát công lý, ngài nói đầy hiểu biết về những gì sẽ đến với tôi. Còn tôi, trong tư cách một bác sĩ, có thể nói đầy hiểu biết về những gì sẽ đến với ngài. Và tôi nói với ngài rằng lúc này đây tôi sẽ không đời nào đổi chỗ cho ngài, rằng tôi sẽ không đổi chiếc thòng lọng ngài tròng quanh cổ tôi lấy viên đá ngài mang trong cơ thể. Cái chết ngài có thể kết án tôi là một lạc thú nhẹ nhàng trái ngược hẳn với cái chết mà ngài đã bị kết án bởi Đấng Phán xét Tối cao mà ngài vẫn viện đến tên một cách thoải mái đến thế.”
Ngài Chánh án ngồi ngây đơ, khuôn mặt xám ngoét, đôi môi co giật, và trong thời gian đủ để đếm đến mười, không có tiếng động nào trong phòng xử án bị tê liệt đó sau khi Peter Blood đã nói xong. Tất cả những ai biết Nam tước Jeffreys coi đây là khoảng lặng trước cơn bão tố, và co ro thu mình lại chờ sấm nổ. Nhưng chẳng có sấm sét nào xảy ra.
Khí sắc từ từ quay lại chút ít trên khuôn mặt xám ngoét đó. Thân hình trong chiếc áo thụng màu huyết dụ mất đi vẻ cứng đơ của nó, và cúi gập về phía trước. Ngài Chánh án bắt đầu lên tiếng. Bằng giọng khe khẽ và ngắn gọn, ngắn gọn hơn nhiều so với thói quen của ông ta vào những dịp như thế này, đồng thời theo cách hoàn toàn vô cảm máy móc của một kẻ mà ý nghĩ thì ở đâu đâu trong khi đôi môi vẫn hoạt động, ông ta tuyên án tử hình theo hình thức đã được quy định, và không đả động gì tới những lời Peter Blood đã nói. Tuyên án xong, ông ta ngả vật người ra sau, kiệt sức, mắt nhắm hờ, trán lấp lánh mồ hôi.
Các bị cáo bị áp giải ra.
Một trong các thành viên bồi thẩm đoàn tình cờ nghe thấy ông Pollexfen, là một người phe Whig chính gốc bất chấp chức trách công tố quân sự đang đảm nhiệm, thì thầm vào tai một đồng nghiệp của mình:
“Có linh hồn của tôi chứng giám, gã khốn ngăm ngăm đó đã làm ngài Chánh án sợ tái mặt một phen. Thật tiếc là hắn ta phải bị treo cổ. Vì một người có thể dọa được Jeffreys chắc sẽ tiến xa.”