V
ào một buổi sáng tháng Một đầy nắng, chừng một tháng sau khi tàu Thương nhân Jamaica tới Bridgetown, tiểu thư Arabella Bishop cưỡi ngựa ra khỏi ngôi nhà đẹp đẽ của chú nàng tọa lạc trên ngọn đồi ở phía tây bắc thành phố. Tháp tùng cô gái là hai người da đen chạy theo sau nàng, cung kính cách xa một quãng. Đích đến của nàng là dinh Thống đốc, cô gái tới đó thăm phu nhân của ngài Thống đốc, gần đây bà Steed thấy khó ở. Lên tới đỉnh một sườn dốc thoai thoải mọc đầy cỏ, cô gái bắt gặp một người đàn ông cao gầy trong trang phục tươm tất sang trọng đang đi bộ theo hướng ngược lại. Anh ta hoàn toàn xa lạ với nàng, và người lạ là điều khá hiếm gặp trên hòn đảo này. Dẫu vậy về vài khía cạnh mơ hồ, anh ta dường như không hẳn là người lạ.
Tiểu thư Arabella ghì cương dừng ngựa, như thể dừng lại để nàng có thể chiêm ngưỡng phong cảnh, vốn cũng đủ đẹp để là một lý do xác đáng. Ấy thế nhưng từ khóe đôi mắt màu hạt dẻ của mình, cô gái theo dõi người đàn ông một cách rất chăm chú khi anh ta lại gần. Nàng chữa lại cảm nhận ban đầu về trang phục của anh ta. Nó quả cũng tươm tất, nhưng khó có thể gọi là sang trọng. Áo khoác và quần đều may bằng vải thô, và nếu cái áo khoác có vẻ thật thanh lịch trên người anh này thì đó là nhờ phong thái tự nhiên của người mặc hơn là nhờ tài năng của người may. Đôi tất người này đi làm bằng thứ vải bông thô trơn, và cái mũ rộng vành, được người đàn ông kính cẩn bỏ xuống khi anh ta gặp nàng, chỉ là một cái mũ cũ chẳng hề có ruy băng hay lông vũ trang trí. Thứ mà lúc nhìn từ xa cứ tưởng như là một bộ tóc giả thì giờ đã lộ rõ chính là mái tóc đen óng mượt lượn sóng của anh ta.
Từ trên một khuôn mặt cạo nhẵn nhụi buồn bã với làn da bánh mật, đôi mắt xanh đến ngỡ ngàng nghiêm nghị nhìn cô gái. Người đàn ông hẳn đã đi tiếp nếu cô gái không lên tiếng giữ anh ta lại.
“Này anh, tôi nghĩ là tôi biết anh.”
Giọng nói của cô gái lanh lảnh như của một cậu con trai, và cách cư xử của nàng cũng có chút gì đó như của một cậu con trai, nếu người ta có thể áp dụng cách diễn đạt này cho một tiểu thư duyên dáng đến thế. Có lẽ nó xuất phát từ sự thoải mái, thẳng thắn coi thường những kiểu cách giả tạo hay gặp ở những người cùng giới tính với nàng, và khiến cô gái có quan hệ thân tình với tất cả mọi người. Mà cũng có thể vì chuyện này mà tiểu thư Arabella đã bước vào tuổi hai mươi lăm trong tình trạng chẳng những chưa kết hôn mà còn chưa có ai cầu hôn. Nàng đối xử với tất cả đàn ông bằng một thái độ thẳng thắn của một người em gái vốn trong đó đã hàm chứa ít nhiều sự lảng tránh, khiến cho thật khó để bất cứ người đàn ông nào trở thành người tình của nàng.
Hai người da đen theo hầu đã dừng lại đằng sau một quãng, và lúc này họ đang ngồi xổm trên đám cỏ mọc thấp cho tới khi cô chủ có hứng tiếp tục cuộc hành trình.
Người lạ mặt dừng hẳn lại khi được bắt chuyện.
“Một quý tiểu thư đáng lẽ nên biết rõ tài sản của mình.” Anh ta nói.
“Tài sản của tôi?”
“Ít nhất là của chú tiểu thư. Xin cho phép tôi giới thiệu bản thân. Tôi là Peter Blood, và tôi đáng giá chính xác đúng mười bảng. Tôi biết vậy vì đấy là số tiền chú của tiểu thư đã trả để mua tôi. Chẳng phải tất cả mọi người đều có được cơ hội tương tự để biết chắc chắn giá trị thực của mình đâu.”
Vậy là nàng nhận ra người này. Nàng đã không gặp lại anh kể từ ngày đó trên đê chắn sóng cách đây một tháng, và việc cô gái không thể lập tức nhận ra ngay được anh bất chấp mối quan tâm anh đã tạo ra ở nàng cũng là điều không có gì ngạc nhiên, nếu tính đến sự thay đổi anh đã tạo ra cho diện mạo của mình, một diện mạo lúc này khó lòng nhận ra nổi là của một nô lệ nữa.
“Chúa ơi!” Cô gái thốt lên. “Thế mà anh còn cười được nữa!”
“Đó là cả một thành tựu.” Anh thừa nhận. “Nhưng vậy đấy, hoàn cảnh của tôi cũng không tệ như mức tôi có thể rơi vào.”
“Tôi đã nghe nói về chuyện đó.” Cô gái nói.
Nàng đã nghe chuyện tay phiến quân bị lưu đày này té ra lại là một bác sĩ. Việc này truyền đến tai ngài Thống đốc, ngài vốn bị bệnh thống phong hành hạ khổ sở, và Thống đốc Steed đã mượn tay phiến quân này từ người mua anh ta. Chẳng biết nhờ tài năng hay vận đỏ, Peter Blood đã đem đến cho ngài Thống đốc sự thuyên giảm mà đức ông đã không thể có nổi từ sự điều trị của cả hai bác sĩ đang hành nghề tại Bridgetown. Thế rồi phu nhân của ngài Thống đốc mong muốn anh chữa bệnh đau nửa đầu cho bà này. Peter Blood đã phát hiện ra quý phu nhân chẳng mắc phải căn bệnh nào nghiêm trọng hơn chứng hay càu nhàu, kết quả của một tính khí cáu gắt bẩm sinh bị làm trầm trọng thêm bởi cuộc sống tẻ nhạt tại Barbados đối với một quý bà có địa vị xã hội như phu nhân. Nhưng dẫu thế anh vẫn kê đơn cho phu nhân, và bà này tự cảm nhận thấy mình khá hơn vì những đơn thuốc của anh. Sau đó, danh tiếng của anh đã lan đi khắp Bridgetown, và Đại tá Bishop nhận ra rằng ông ta sẽ thu về nhiều lợi nhuận hơn từ gã nô lệ mới của mình bằng cách cho phép anh theo đuổi nghề nghiệp cũ thay vì bắt anh làm việc ở đồn điền như mục đích ban đầu của ông ta khi mua anh về.
“Thưa tiểu thư, cô chính là người tôi cần phải cảm ơn cho điều kiện sống tương đối thoải mái và sạch sẽ của mình.” Peter Blood nói. “Và tôi lấy làm mừng có được cơ hội này để làm việc đó.”
Sự biết ơn nằm trong những lời anh nói hơn là trong giọng điệu của anh. Liệu có phải anh ta đang giễu cợt không, cô gái tự nhủ, và nhìn anh dò hỏi một cách thẳng thắn tới mức một người khác có lẽ đã thấy bối rối. Anh coi ánh mắt này là một câu hỏi, và trả lời nó.
“Nếu một chủ đồn điền khác mua tôi…” Anh giải thích. “Nhiều khả năng là những năng lực xuất chúng của tôi chẳng bao giờ được dịp lộ diện, và vào lúc này chắc tôi đang phải chặt cây cuốc đất như những con người khốn khổ đã cùng lên bờ với tôi.”
“Và tại sao anh lại cảm ơn tôi về điều đó? Chú tôi mới là người đã mua anh.”
“Nhưng ông ấy hẳn đã không làm việc đó nếu tiểu thư không hối thúc chú mình. Tôi nhận thấy sự quan tâm của tiểu thư. Lúc đó tôi đã rất phẫn nộ với việc đó.”
“Anh phẫn nộ với việc đó ư?” Trong giọng nói như của một cậu con trai của cô tiểu thư chứa đựng vẻ thách thức.
“Tôi chẳng thiếu gì trải nghiệm trong cuộc đời trần thế ngắn ngủi này; nhưng bị đem ra bán rồi được mua là một trải nghiệm thật mới mẻ, và tôi khó lòng có tâm trạng để yêu quý người mua mình.”
“Này anh, nếu tôi hối thúc chú tôi mua anh, thì đó là vì tôi thấy ái ngại cho anh.” Có chút nghiêm khắc trong giọng nói của cô gái, như để khiển trách thái độ giễu cợt pha lẫn khiếm nhã mà anh dường như đang dùng khi nói năng.
Rồi nàng nói tiếp để giải thích cho bản thân. “Với anh, chú tôi có thể là một người khắc nghiệt. Hẳn là vậy rồi. Tất cả các chủ đồn điền đều là những người khắc nghiệt. Tôi cho rằng đời là vậy. Nhưng ở đây còn có những người khác nghiệt ngã hơn. Chẳng hạn như ông Crabston ở trên mạn Speightstown. Ông ta lúc ấy cũng có mặt trên đê chắn sóng, chờ mua những ai chú tôi để lại không mua, và nếu anh rơi vào tay ông ta… Một người thật đáng sợ. Đó là lý do vì sao.”
Anh có chút ngỡ ngàng.
“Mối quan tâm này dành cho một người xa lạ…” Anh bắt đầu. Rồi đổi hướng câu nói của mình. “Nhưng ở đó cũng có những người khác đáng được thương cảm.”
“Anh dường như không giống những người khác.”
“Quả thực tôi không giống họ.” Anh nói.
“Ồ!” Cô gái nhìn chằm chằm vào anh, hơi có vẻ khó chịu. “Anh có kiểu đánh giá về bản thân thật tốt đẹp.”
“Trái lại. Những người khác đều là quân khởi nghĩa chân chính. Tôi thì không. Đó là sự khác biệt. Tôi là một người không có sự sáng suốt để nhìn ra rằng nước Anh cần được thanh tẩy. Tôi đã hài lòng với việc hành nghề như một bác sĩ tại Bridgewater trong khi những người tốt đẹp hơn tôi đổ máu để đánh đuổi một tên bạo chúa bẩn thỉu và đám tôi tớ vô lại của hắn.”
“Thưa anh!” Cô gái nhắc nhở anh. “Tôi nghĩ anh đang nói những lời phản nghịch đấy.”
“Tôi hy vọng mình không nói điều khó hiểu.” Anh đáp.
“Ở đây có những người sẽ ra lệnh phạt roi anh nếu họ nghe thấy anh nói thế đấy.”
“Ngài Thống đốc sẽ không đời nào cho phép điều đó xảy ra. Ông ấy bị thống phong, và phu nhân của ông ấy thì bị đau nửa đầu.”
“Anh trông cậy vào điều đó sao?” Cô gái tỏ vẻ khinh miệt một cách thẳng thừng.
“Chắc chắn là tiểu thư chưa bao giờ bị thống phong; nhiều khả năng thậm chí còn chưa bị cả đau nửa đầu nữa.” Anh nói.
Cô gái khẽ phẩy bàn tay bực bội, rồi rời mắt khỏi anh trong giây lát để nhìn ra biển. Rồi thật đột ngột nàng lại quay sang nhìn anh; và lúc này đôi lông mày nàng nhíu lại.
“Nhưng nếu anh không phải là một kẻ nổi loạn, tại sao anh lại phải đến đây?”
Anh nhận ra điều cô gái nắm bắt được, và anh bật cười. “Quả thực, đó là một câu chuyện dài.” Anh nói.
“Và có lẽ là một câu chuyện anh không thích kể ra thì đúng hơn?”
Vậy là anh kể tóm tắt lại cho nàng nghe.
“Chúa ơi! Thật bỉ ổi làm sao!” Cô gái thốt lên khi anh đã kể xong.
“Ồ, dưới sự trị vì của Vua James, nước Anh quả là một xứ sở ngọt ngào! Không cần phải thương hại tôi thêm nữa đâu. Sau khi xét qua mọi thứ thì tôi thấy thích Barbados hơn. Ít nhất ở đây người ta có thể tin vào Chúa.”
Trong lúc nói, đầu tiên anh nhìn sang phải, rồi sang trái, từ ngọn núi Hillbay nhô lên đằng xa tới đại dương vô tận đang gợn sóng dưới những cơn gió trời. Thế rồi, như thể phong cảnh đẹp đẽ khiến anh ý thức được sự nhỏ bé của bản thân mình cũng như sự vô nghĩa của những phiền muộn anh đang phải chịu đựng, anh trở nên trầm tư.
“Cuộc sống ở những nơi khác khó khăn đến thế sao?” Cô gái hỏi anh, và nàng rất nghiêm túc.
“Con người khiến nó trở thành như thế.”
“Tôi hiểu rồi.” Cô gái khẽ bật cười, và với anh dường như tiếng cười pha lẫn chút buồn. “Tôi chưa bao giờ coi Barbados là tấm gương phản chiếu thiên đường dưới hạ giới.” Nàng thú nhận. “Nhưng hẳn là anh biết về thế giới của mình rõ hơn tôi.” Cô gái dùng cây roi ngựa nhỏ đốc bịt bạc của mình thúc nhẹ con ngựa. “Tôi chúc mừng anh về sự an ủi này trong cảnh không may.”
Anh cúi đầu, và cô gái thúc ngựa đi tiếp. Hai người hầu da đen của nàng nhổm dậy, thong thả chạy theo sau cô chủ.
Peter Blood đứng nán lại một hồi ở đó, tại nơi cô gái để anh lại, ngắm nghía mặt nước lấp lánh ánh nắng của vịnh Carlisle bên dưới, cũng như tàu thuyền qua lại trong khu vịnh rộng lớn đó với đám mòng biển ồn ào bay lượn bám quanh.
Đó là một phong cảnh khá đẹp, anh thầm nghĩ, nhưng nó là một nhà tù, và khi tuyên bố mình thích nơi này hơn nước Anh, anh đã chiều theo thứ huênh hoang tức cười nhất, đó là thu nhỏ lại những bước không may chúng ta gặp phải.
Anh quay lại, tiếp tục con đường của mình, sải từng bước dài nhịp nhàng về phía cụm nhỏ những căn lều đan phên vách trát đất, một khu làng thu nhỏ nằm trong hàng rào cọc gỗ nơi các nô lệ của đồn điền sống, và cũng là nơi anh ở cùng với họ.
Trong tâm trí anh ngân lên câu thơ của Lovelace1:
“Tường đá chẳng làm nên nhà tù
Lồng giam đâu phải do song sắt.”2
1. Richard Lovelace (1617-1657): nhà thơ người Anh.
2. Hai câu thơ trích trong bài thơ To Althea, from Prison (tạm dịch: Từ trong tù, gửi Althea) của Lovelace, được viết năm 1642.
Nhưng anh gán cho nó một ý nghĩa mới, hoàn toàn trái ngược với ý nghĩa tác giả chủ định ban đầu. Anh ngẫm nghĩ: Nhà tù vẫn là một nhà tù, cho dù nó không có cả tường lẫn song sắt, bất chấp nó rộng rãi đến đâu. Và bởi anh nhận ra điều này vào sáng hôm ấy, anh càng ngày càng cảm nhận thấy nó rõ ràng hơn khi thời gian trôi đi. Hằng ngày, anh mỗi lúc một nghĩ nhiều hơn về đôi cánh tự do đã bị cắt mất của mình, về tình trạng bị tách biệt khỏi thế giới của bản thân, và càng lúc càng ít bận tâm tới thứ tự do ngẫu nhiên được hưởng hiện tại. Và sự đối lập giữa tình cảnh tương đối dễ chịu của bản thân anh với tình cảnh của những người chung kiếp lưu đày nhưng kém may mắn hơn cũng chẳng hề đem đến cho anh sự hài lòng mà một tâm trí có cấu tạo khác biệt hơn có khi đã cảm thấy. Trái lại, việc chứng kiến tình cảnh khốn khổ của họ càng làm tăng thêm cảm giác cay đắng chất chứa trong tâm hồn anh.
Trong số bốn mươi hai người cùng lên bờ với anh từ tàu Thương nhân Jamaica, Đại tá Bishop đã mua đến hai mươi lăm người. Số còn lại rơi vào tay các chủ đồn điền kém thế lực hơn, một số ở Speightstown, số khác còn ở xa hơn trên phía bắc. Số phận những người ở nơi khác thế nào anh không thể biết, nhưng về phần các nô lệ của Bishop thì Peter Blood đã đi lại tự do giữa họ, ngủ cùng khu với họ, và anh biết số phận của họ là một nỗi khổ cực tàn khốc. Họ phải nai lưng ra làm việc ở các cánh đồng mía từ lúc mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn, và nếu cường độ lao động của họ giảm sút, những cây roi của tay đốc công và đám cai luôn sẵn sàng để thúc giục họ nhanh nhẹn lên. Họ mặc rách rưới, một số gần như trần trụi; họ sống trong cảnh bẩn thỉu hôi hám, và luôn đói ăn bởi khẩu phần chỉ có thịt muối và bánh ngô, đối với rất nhiều người trong số họ thì thứ đồ ăn ấy ít nhất đã gây nôn mửa trong một thời gian dài đến mức hai người trong số họ lăn ra ốm rồi chết trước khi Bishop nhớ ra mạng sống của họ có giá trị nhất định về sức lao động với ông ta và nghe theo những lời đề nghị khẩn khoản của Blood về việc chăm sóc tốt hơn cho những người bị ốm. Để dằn mặt sự bất tuân, một trong số phiến quân lưu đày do chống đối tay đốc công tàn bạo Kent đã bị đám da đen đánh roi đến chết trước sự chứng kiến của những người cùng cảnh ngộ, một người khác hành động sai lầm tới mức bỏ trốn vào rừng đã bị truy lùng, bắt về, phạt đánh roi, rồi đóng dấu sắt nung đỏ lên trán hai chữ “F.T.”1 để ai cũng biết anh ta là một tên phản quốc đào tẩu chừng nào anh ta còn sống. May cho kẻ khốn khổ này là anh ta đã chết sau trận phạt roi.
1. Viết tắt của “fugitive traitor ”, nghĩa là “kẻ phản bội bỏ trốn”.
Sau đó, một tâm trạng cam chịu chán nản bao trùm lên những người còn lại. Những người nổi loạn nhất cũng bị khuất phục, và chấp nhận số phận khốn đốn không gì tả xiết của họ với sự kiên cường bi thảm xuất phát từ tuyệt vọng.
Chỉ mình Peter Blood, nhờ thoát khỏi những nỗi thống khổ cùng cực này, là không thay đổi gì về bên ngoài, trong khi thay đổi duy nhất về nội tâm ở anh là sự căm thù những tên đồng loại độc ác của mình ngày càng sâu đậm hơn, là sự khao khát ngày càng mãnh liệt muốn thoát khỏi nơi con người làm nhơ bẩn một cách ghê tởm đến thế tạo tác đẹp đẽ của Đấng Sáng Tạo nên họ. Đó là một khao khát quá mơ hồ nên khó mà trở thành một hy vọng. Hy vọng ở đây là không thể chấp nhận được. Dẫu vậy anh vẫn không chịu khuất phục trước nỗi tuyệt vọng. Anh phủ một tấm mặt nạ cười cợt lên trên khuôn mặt buồn bã của mình rồi tiếp tục sống, chữa trị cho những người đau ốm để kiếm tiền về cho Đại tá Bishop, và ngày càng ngoạm sâu hơn vào phần bánh của hai bác sĩ kia tại Bridgetown.
Được thoát hoàn toàn khỏi những hình phạt nhục nhã và tình cảnh thiếu thốn của những người cùng cảnh lưu đày, anh đã có thể duy trì lòng tự trọng, và thậm chí cả tay chủ đồn điền không có linh hồn đã mua anh về cũng không đối xử thô bạo với anh. Anh có được tất cả là nhờ thống phong và đau nửa đầu. Anh đã giành được sự tín nhiệm của Thống đốc Steed, và điều thậm chí còn quan trọng hơn là sự tín nhiệm của phu nhân ngài Thống đốc, anh vẫn tâng bốc và chiều theo ý quý bà Steed bất chấp mọi đạo lý và liêm sỉ.
Thỉnh thoảng anh vẫn gặp tiểu thư Bishop, và hiếm khi họ gặp nhau mà cô gái không giữ anh lại trò chuyện một lúc, thể hiện sự quan tâm nàng dành cho anh. Bản thân anh chưa bao giờ có ý nấn ná nán lại. Anh tự nhắc nhở bản thân không được để bị lừa bởi vẻ ngoài thanh nhã, vẻ duyên dáng trẻ trung của cô gái, cũng như bởi thái độ thoải mái như một cậu con trai và giọng nói êm ái dễ mến của nàng. Trong cả cuộc đời vốn đầy biến động của mình, anh chưa từng gặp ai mà anh thấy đáng ghê tởm hơn ông chú của nàng, và anh không thể tách rời cô gái khỏi ông ta. Nàng là cháu gái ông ta, mang cùng dòng máu với ông ta, và anh lập luận rằng ít nhiều những thói xấu của dòng máu ấy, ít nhiều sự tàn nhẫn độc ác của tay chủ đồn điền giàu có hẳn phải hiện diện trong thân hình kiều diễm đó của nàng. Anh thường xuyên đưa ra lý luận này với chính mình, như thể để trả lời và thuyết phục một bản năng đang quả quyết điều khác hẳn, rồi với lý luận đó anh tránh mặt cô gái khi có thể, và xã giao một cách lạnh nhạt khi không thể.
Dù lý luận của anh rõ ràng là có thể biện minh được, dù nó có vẻ thật hợp lý, song đáng ra anh đã có thể làm tốt hơn nhiều nếu tin tưởng vào bản năng đang xung đột với lý luận đó. Dù rằng Arabella và Đại tá Bishop là người cùng huyết thống, song cô gái hoàn toàn miễn nhiễm với những thói xấu đã làm hoen ố ông chú nàng, vì những thói xấu đó vốn không phải là sẵn có trong dòng máu chung của họ. Trong trường hợp của viên Đại tá, đó là những thói xấu học hỏi được. Cha đẻ của cô gái, Tom Bishop, cũng là anh trai Đại tá Bishop, là một con người tử tế, trượng nghĩa, hiền lành. Đau khổ trước cái chết của người vợ trẻ, ông đã từ bỏ Cựu Thế giới1 và tìm một nơi để làm dịu nỗi phiền muộn của mình ở Tân Thế giới2. Ông đã tới vùng Antilles3, mang theo cô con gái bé bỏng khi đó mới lên năm, rồi bắt đầu cuộc sống của một chủ đồn điền. Tom Bishop đã phát tài ngay từ đầu, như đôi khi vẫn xảy ra với những người chẳng màng đến giàu có. Trở nên phát đạt, người anh liền nghĩ đến cậu em trai, một người lính có tiếng tăm ít nhiều bất trị ở quê nhà. Ông đã khuyên em mình chuyển tới Barbados; nếu vào một thời điểm khác thì hẳn là William Bishop đã coi khinh ra mặt, ấy vậy nhưng lời khuyên này đã đến chỗ cậu em đúng lúc sự bất trị của anh ta bắt đầu đem đến hậu quả khiến cho một sự thay đổi khí hậu là điều đáng mong ước. William tới, và được người anh
1. Tên gọi chỉ phần của Trái Đất được người châu Âu biết đến trước khi Christophe Colombe tìm ra châu Mỹ vào năm 1492. Cựu Thế giới bao gồm đại lục Á-Âu-Phi và các đảo bao quanh.
2. Tên gọi chỉ phần Tây bán cầu của Trái Đất, đặc biệt là châu Mỹ.
3. Tên quần đảo ở vùng biển Caribe, gồm các nhóm đảo là Đại Antilles, Tiểu Antilles và quần đảo Lucayan.
trai rộng lượng cho trở thành một người góp vốn của đồn điền đang thịnh vượng. Khoảng sáu năm sau, khi Arabella mười lăm tuổi, cha cô gái qua đời, để lại nàng dưới sự bảo trợ của người chú. Có lẽ đây là sai lầm duy nhất của người cha. Nhưng sự lương thiện trong bản tính của ông đã ảnh hưởng tới cách ông nhìn nhận người khác. Hơn nữa, đích thân ông đã dạy dỗ con gái mình, tạo cho nàng một sự độc lập trong tính cách mà có lẽ ông đã đặc biệt coi trọng. Bởi sự tình như thế, giữa ông chú và cô cháu chẳng có bao nhiêu tình cảm. Nhưng nàng nghe lời chú mình, còn ông ta cũng cẩn trọng trong cách hành xử trước mặt cô gái. Cả cuộc đời mình, bất chấp sự bất trị của bản thân, người em vẫn ít nhiều kính sợ anh trai, người mà ông ta vẫn đủ trí khôn để nhận ra giá trị. Và giờ đây dường như một phần sự kính sợ đó được chuyển sang con gái của người anh trai, cũng đồng thời là người góp vốn của viên Đại tá, cho dù nàng không tham gia vào hoạt động làm ăn của đồn điền.
Peter Blood đã phán xét cô gái, như tất cả chúng ta đều quá dễ dàng phán xét, dựa trên hiểu biết không đầy đủ.
Anh rồi cũng sớm có lý do để đính chính lại phán xét ấy. Vào một ngày cuối tháng Năm, khi cái nóng bắt đầu trở nên gay gắt, một chiếc tàu Anh bị hư hại tả tơi chậm chạp lết vào vịnh Carlisle, chiếc Niềm tự hào của Devon1. Phần thành tàu nổi trên mặt nước thủng vỡ lỗ chỗ, boong lái là một đống đổ nát há hoác ra, cột buồm lái đã bị bắn bay đi gần như toàn bộ, chỉ còn lại gốc chân cột lởm chởm để đánh dấu nơi nó từng hiện diện. Con tàu đã giao chiến ở ngoài khơi Martinique2 với hai chiếc tàu chở châu báu của Tây Ban Nha, và cho dù viên Thuyền trưởng của nó thề rằng đám Tây Ban Nha đã vây đánh ông ta cho dù tàu của ông ta không hề khiêu khích, thật khó để tránh khỏi nghi ngờ rằng cuộc giao chiến đã xảy ra theo cách rất khác. Một trong hai chiếc tàu Tây Ban Nha đã chạy khỏi chiến trường, và nếu Niềm tự hào của Devon không truy kích nó thì nhiều khả năng là do lúc ấy chiếc tàu này rơi vào tình trạng chẳng thể làm nổi việc đó. Chiếc còn lại đã bị đánh chìm, nhưng chỉ sau khi người Anh đã chuyển sang boong tàu của mình một phần đáng kể vàng bạc châu báu trên tàu Tây Ban Nha. Kỳ thực, đó là một trong những vụ cướp biển vốn là nguyên nhân thường xuyên gây lục đục giữa các triều đình St. James3 và Escurial4, với những lời phàn nàn xuất phát lúc từ phía này lúc từ phía kia.
1. Nguyên văn là Pride of Devon.
2. Tên một hòn đảo ở phía đông vùng biển Caribe.
3. Cung điện St. James tại Westminster là cung điện hoàng gia cao cấp nhất của vương quốc Anh, dùng để ám chỉ triều đình Anh.
4. Tu viện hoàng gia San Lorenzo de El Escorial, cách Madrid 45km về phía tây bắc, ở đây ám chỉ triều đình Tây Ban Nha.
Tuy nhiên, Steed, theo phong cách của phần lớn các thống đốc thuộc địa, hoàn toàn sẵn lòng làm trí tuệ của mình trì độn đi đến mức chấp nhận câu chuyện của viên Thuyền trưởng Anh, lờ tịt đi mọi bằng chứng có thể phản bác nó. Ngài Thống đốc chia sẻ sự căm thù thường gặp ở những người thuộc tất cả các dân tộc khác sống tại khu vực từ Bahamas tới vùng Main mà nước Tây Ban Nha kiêu ngạo hống hách rất đáng phải chịu. Vì thế ông ta đã dành cho chiếc Niềm tự hào của Devon nơi trú ẩn nó tìm kiếm tại vũng neo tàu của mình cũng như mọi điều kiện cần thiết để xảm lại tàu và thực hiện việc sửa chữa.
Nhưng trước khi bắt tay vào những việc đó, người ta đưa từ trong khoang tàu lên bờ hơn hai mươi thủy thủ Anh cũng bị thương tích bầm giập chẳng kém gì chính con tàu, cùng với những người này là nửa tá tù binh Tây Ban Nha trong tình trạng tương tự, đây là tất cả những kẻ còn sống sót trong một nhóm xung phong từ chiếc tàu Tây Ban Nha sang tấn công chiếc tàu Anh để rồi không thể rút lui được. Những người bị thương được đưa tới một khu lán xưởng dài tại bến tàu, rồi những người có năng lực y khoa tại Bridgetown được triệu tập tới để cứu chữa cho họ. Peter Blood được lệnh giúp một tay trong việc này, một phần bởi anh nói được tiếng Castilla1 cũng trôi chảy như ngôn ngữ mẹ đẻ của mình, phần khác bởi địa vị nô lệ thấp kém hơn của anh, Blood được giao điều trị cho đám tù binh Tây Ban Nha.
1. Nghĩa là tiếng Tây Ban Nha cổ hoặc phương ngữ Tây Ban Nha dùng ở nhiều vùng và các đảo.
Tính đến giờ Blood chẳng có lý do nào để yêu quý người Tây Ban Nha. Hai năm anh trải qua trong một nhà tù Tây Ban Nha và quãng thời gian chinh chiến tại vùng Hà Lan thuộc Tây Ban Nha đã cho anh thấy một khía cạnh trong tính cách Tây Ban Nha mà anh chẳng tìm thấy bất cứ điều gì để ngưỡng mộ. Dẫu vậy, anh thực hiện nhiệm vụ thầy thuốc của mình đầy hăng hái và cần mẫn, dù cảm xúc có phần hời hợt, tuy nhiên vẫn có chút thân thiện bề ngoài dành cho từng bệnh nhân của mình. Quá ngạc nhiên trước việc họ được chữa trị các vết thương thay vì bị treo cổ ngay tức thì, các tù binh thể hiện một thái độ ngoan ngoãn rất khác thường ở kiểu người như bọn họ. Tuy nhiên, các cư dân đầy lòng từ ái của Bridgetown đổ xô tới khu bệnh xá tạm thời, mang theo hoa quả và bánh kẹo làm quà cho các thủy thủ Anh bị thương lại tỏ rõ thái độ xa lánh đối với đám bệnh nhân Tây Ban Nha ấy. Quả thực, nếu ý nguyện của một số trong các cư dân này được tính đến, hẳn các tù binh Tây Ban Nha đã bị bỏ mặc cho chết như loài sâu bọ, và về chuyện này Peter Blood đã có một ví dụ gần như ngay từ đầu.
Với sự hỗ trợ của một trong số những người da đen được cử tới khu lán để giúp đỡ các bác sĩ, anh đang bó lại một cái chân gãy thì một giọng nói trầm đục, cộc cằn mà anh đã biết rõ và căm ghét tới mức anh chưa từng căm ghét giọng nói của người nào đến thế đột ngột cất lên vặn hỏi anh.
“Mày đang làm gì ở đó hả?”
Blood không ngẩng lên khỏi việc đang làm. Anh thấy không cần thiết. Anh biết rõ giọng nói này, như tôi đã nói qua.
“Tôi đang bó một cái chân gãy.” Anh trả lời, không hề ngừng việc đang làm.
“Thằng ngu, tao nhìn thấy việc đó rồi.” Một thân hình bồ tượng chen vào giữa Peter Blood và khung cửa sổ. Người đàn ông thân mình cởi trần nằm trên ổ rơm đưa đôi mắt đen trên khuôn mặt màu đất sét của anh ta sợ sệt nhìn lên kẻ mới tới. Chẳng cần hiểu tiếng Anh thì anh ta vẫn nhận biết được đây là một kẻ thù. Âm điệu cay nghiệt, hăm dọa trong giọng nói đó đã đủ cho biết điều này. “Tao thấy rồi, thằng ngu; cũng như tao có thể thấy đồ rác rưởi này là kẻ nào. Ai cho phép mày bó chân cho đám Tây Ban Nha hả?”
“Tôi là một bác sĩ, thưa Đại tá Bishop. Người này bị thương. Việc phân biệt đối xử không phải trách nhiệm của tôi. Tôi chỉ làm phận sự nghề nghiệp của mình.”
“Có Chúa chứng giám, mày biết đấy ư? Nếu mày biết phận sự của mình như thế thì giờ mày đã không ở đây.”
“Trái lại, chính vì tôi biết nên tôi có mặt ở đây.”
“À, tao biết câu chuyện dối trá đó của mày.” Viên Đại tá dè bỉu; rồi sau đó, thấy Blood tiếp tục việc đang làm không chút dao động, ông ta trở nên thực sự tức giận. “Mày có dừng việc đó lại và lắng nghe trong khi tao đang nói không hả?”
Peter Blood ngừng tay, nhưng chỉ trong giây lát. “Người này đang đau đớn.” Anh nói ngắn gọn, rồi lại tiếp tục việc của mình.
“Hắn đang đau đớn hả? Tao mong là thế, đồ cẩu hải tặc. Nhưng mày nghe tao đấy chứ, thằng khốn cứng đầu kia?”
Viên Đại tá gầm lên, nổi cơn thịnh nộ trước điều ông ta coi là thái độ thách thức, và thách thức theo cách không thể coi thường ông ta hơn. Cây gậy tre dài của viên Đại tá được giơ lên để đánh. Đôi mắt xanh của Peter Blood đã phát hiện ra cây gậy vung lên, và anh vội vàng lên tiếng để ngăn cú đòn.
“Thưa ngài, dù tôi có làm gì đi nữa thì đây cũng không phải là chống đối. Tôi đang hành động theo mệnh lệnh rõ ràng của Thống đốc Steed.”
Viên Đại tá dừng tay, khuôn mặt ông ta đỏ lựng lên, miệng há ra.
“Thống đốc Steed!” Ông ta nhắc lại. Rồi ngài Đại tá hạ cây gậy của mình xuống, quay ngoắt người, không nói thêm lời nào với Blood nữa mà phục phịch bước đi tới đầu kia của khu lán, nơi có ngài Thống đốc đang đứng.
Peter Blood tặc lưỡi. Nhưng cảm giác đắc thắng của anh xuất phát từ ý nghĩ anh đã gây trở ngại cho tay chủ tàn nhẫn của mình nhiều hơn là từ những mối quan tâm nhân đạo.
Người tù binh Tây Ban Nha, nhận thấy rằng trong cuộc đấu khẩu vừa rồi, cho dù thực chất có là về điều gì đi chăng nữa thì vị bác sĩ này đã đứng về phía mình, liền đánh bạo khẽ hỏi anh xem chuyện gì đã xảy ra. Nhưng bác sĩ im lặng lắc đầu, rồi tiếp tục việc của anh. Đôi tai anh đang căng ra để đón lấy những lời qua lại giữa Steed và Bishop. Viên Đại tá đang đùng đùng quát tháo, thân hình đồ sộ của ông ta áp đảo trên thân hình lùn xủn bé nhỏ chải chuốt thái quá của ngài Thống đốc. Nhưng quý ông nhỏ con thích chưng diện này không dễ bị hăm dọa. Đức ông ý thức được ngài có sau lưng mình sức mạnh của quan điểm công chúng ủng hộ. Có thể một số người, nhưng không nhiều, có quan điểm tàn nhẫn như viên Đại tá. Ngài Thống đốc khẳng định quyền lực của mình. Theo lệnh của ngài, Blood đã tận tụy chăm sóc những tù binh Tây Ban Nha bị thương, và mệnh lệnh của ngài phải được thực thi. Không có gì để bàn thêm nữa.
Đại tá Bishop có quan điểm khác hẳn. Theo ý ông ta, có rất nhiều điều cần phải nói. Và ông ta đã nói ra điều đó một cách dữ dằn, ầm ĩ, quyết liệt và tục tĩu, vì ngài Đại tá có thể trở nên rất tục tằn khi nổi xung.
“Ông nói cứ như một gã Tây Ban Nha vậy, ông Đại tá.” Ngài Thống đốc nói, và câu nói đó gây ra cho lòng tự tôn của viên Đại tá một tổn thương sẽ còn nhức nhối đầy bực bội trong nhiều tuần sau đó. Còn ngay lúc ấy nó khiến ông ta im bặt, và đưa viên Đại tá sầm sầm bước ra khỏi khu lán trong cơn tức giận đùng đùng khiến ông ta không thốt nổi thành lời.
Hai ngày sau, các quý bà quý cô của Bridgetown, vợ và con gái của các chủ đồn điền và thương nhân sống tại thành phố này, lần đầu tiên thực hiện một chuyến ghé thăm từ thiện tới bến tàu, mang theo quà tặng các thủy thủ bị thương.
Một lần nữa Peter Blood lại có mặt ở đó, chăm sóc các bệnh nhân của anh, đi lại giữa những tù binh Tây Ban Nha bất hạnh chẳng ai ngó ngàng tới. Mọi sự quan tâm, mọi quà cáp đều dành cho các thành viên thủy thủ đoàn của tàu Niềm tự hào của Devon. Và Peter Blood thấy việc này cũng hợp lẽ thường. Thế nhưng khi đột ngột ngẩng lên sau khi thay băng một vết thương, công việc mà anh vừa bận bịu mất một lúc trước đó, anh ngạc nhiên thấy một cô nương tách ra khỏi nhóm khách tới thăm, đang để mấy quả chuối và một bó mía ngon lành lên tấm áo choàng cũng là chăn đắp cho một trong các bệnh nhân của anh. Cô nương này thật thanh lịch trong bộ váy lụa màu hoa oải hương, theo sau là một người da đen ở trần, xách một cái giỏ.
Peter Blood, lúc đó đã cởi áo khoác, hai ống tay áo chiếc sơ mi tồi tàn của anh được xắn tới tận khuỷu, bàn tay cầm một miếng giẻ đẫm máu, đứng sững người ra trong giây lát. Cô nương lúc này quay người lại đối diện với anh, đôi môi nở một nụ cười khi nhận ra người quen, hóa ra đó là Arabella Bishop.
“Đó là một người Tây Ban Nha đấy.” Anh nói, với giọng điệu của một người đang đính chính một nhầm lẫn, đồng thời cũng phảng phất ít nhiều vẻ giễu cợt vốn dĩ lúc nào cũng ẩn chứa trong tâm hồn anh.
Nụ cười cô gái đã dùng để chào anh vụt tắt trên đôi môi nàng. Cô gái cau mày và nhìn anh chằm chằm trong giây lát với thái độ ngày càng kiêu kỳ.
“Tôi cũng thấy thế. Nhưng dù vậy anh ta vẫn là một con người.” Nàng đáp.
Câu trả lời này, cùng sự chê trách ngầm chứa trong nó, khiến anh ngạc nhiên.
“Ngài Đại tá chú của tiểu thư lại có quan điểm khác hẳn.” Anh nói khi đã trấn tĩnh lại. “Ông ấy coi họ là lũ sâu bọ cần bỏ mặc cho bị giày vò khổ sở và chết vì những vết thương hoại thư của họ.”
Lúc này cô gái nhận ra sự nhạo báng rõ ràng hơn trong giọng nói của anh. Nàng tiếp tục nhìn anh chăm chú.
“Sao anh lại nói điều đó với tôi?”
“Để cảnh báo tiểu thư rằng tiểu thư có thể phải chịu sự bất bình của ngài Đại tá. Nếu chú tiểu thư được như ý, tôi hẳn không đời nào được phép băng bó các vết thương cho họ.”
“Và tất nhiên anh nghĩ tôi chắc phải có cùng cách nghĩ như chú tôi?” Giọng nói của cô gái trở nên quyết liệt, và một tia thách thức không báo trước gì hay ho lóe lên trong đôi mắt màu hạt dẻ của nàng.
“Tôi không bao giờ cho phép mình thô lỗ với một phụ nữ thậm chí ngay cả trong suy nghĩ của mình.” Anh nói. “Nhưng về việc tiểu thư cho quà họ, giả sử như chú của tiểu thư biết được việc này…” Anh ngừng lại, để câu nói còn lửng lơ. “À, thế đấy!” Anh kết luận.
Nhưng quý tiểu thư không hề thấy hài lòng.
“Trước tiên anh gán cho tôi sự vô nhân đạo, rồi sau đó là sự hèn nhát. Có Chúa chứng giám! Quả là không tồi với một người đàn ông không cho phép mình thô lỗ với một phụ nữ ngay cả trong ý nghĩ.” Tiếng cười trong trẻo của nàng vang lên lanh lảnh, nhưng âm hưởng của nó lần này như cứa vào tai anh.
Anh cảm thấy dường như đây là lần đầu tiên anh nhìn ra con người thật của nàng, và ý thức được anh đã phán xét sai lầm đến mức nào về nàng.
“Phải rồi, làm sao tôi có thể đoán ra được… rằng cháu gái Đại tá Bishop có thể là một thiên thần chứ?” Anh thốt ra một cách hấp tấp, vì anh đang khinh suất như đàn ông vẫn thế khi đột ngột ăn năn.
“Anh làm sao đoán được, tất nhiên rồi. Tôi cũng chẳng nên nghĩ anh thường đoán đúng.” Sau khi đã khiến anh tẽn tò với câu nói này cùng ánh mắt của mình, cô gái quay sang người hầu da đen đi theo nàng và cái giỏ anh ta đang xách. Nàng lấy quả và bánh kẹo đang để đầy trong cái giỏ nặng trịch ra và xếp thành từng phần trên giường của sáu tù binh Tây Ban Nha một cách hào phóng tới mức đến khi cho quà người cuối cùng xong thì chiếc giỏ của nàng cũng trống không, chẳng còn lại gì để dành cho những người đồng hương của nàng. Thực ra họ cũng không cần đến sự hào phóng của nàng, vì nàng chắc chắn thấy rõ họ đã được những người khác tặng quà ê hề rồi.
Sau khi đã phân phát hết những thứ có trong giỏ, cô gái gọi người hầu da đen của nàng, rồi rời khỏi đó với đầu ngẩng cao kiêu hãnh, không dành một lời nói nào hay thậm chí là một ánh mắt nào cho Peter Blood.
Peter quan sát cô gái ra về. Rồi anh thở dài.
Anh sững sờ khi nhận ra ý nghĩ mình đã làm nàng nổi giận đang khiến anh bận tâm. Nếu là vào hôm qua thì chẳng thể có chuyện như vậy. Điều này chỉ xảy đến từ khi anh hiểu ra bản chất thực của con người nàng. “Quỷ bắt mình đi, thật đáng kiếp cho mình. Dường như mình chẳng biết gì về bản chất con người cả. Nhưng quái thật, làm sao mình có thể đoán nổi trong một gia đình đã sản sinh ra một con quỷ như Đại tá Bishop lại cũng có thể sinh ra một người thánh thiện như vậy chứ?”