• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Tiến trình thành nhân
  3. Trang 8

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 7
  • 8
  • 9
  • 10
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 7
  • 8
  • 9
  • 10
  • Sau

Chương 3Những đặc tính của liên hệ trị liệu

T

ừ lâu tôi đã có lòng tin mạnh mẽ (có những người bảo đó là một ám ảnh) rằng, liên hệ trị liệu chỉ là một loại đặc biệt trong những mối liên hệ giữa người với người nói chung, và rằng tất cả những liên hệ này đều chịu sự chi phối của cùng một quy luật. Đó là chủ đề tôi đã chọn khi nói chuyện tại hội nghị của American Personnel and Guidance Association tại St. Louis năm 1958.

Nổi bật trong chương này là sự phân đôi giữa khách quan và chủ quan, đây là một phần rất quan trọng trong kinh nghiệm của tôi những năm gần đây. Tôi thấy rất khó viết một bài hoặc là hoàn toàn khách quan, hoặc là hoàn toàn chủ quan. Tôi muốn đưa hai thế giới đó lại gần nhau, ngay cả khi tôi không thể giảng hòa chúng một cách trọn vẹn.

Tâm lí trị liệu đã khơi lên trong tôi mối quan tâm đến các liên hệ trợ lực. Ở đây tôi muốn nói đến một liên hệ trong đó ít nhất một bên có ý định khuyến khích bên kia phát triển hơn, trưởng thành hơn, hoạt động tốt hơn và có khả năng đối phó với đời hơn. Bên kia theo nghĩa này có thể là một cá nhân hay một nhóm. Nói cách khác, một liên hệ trợ lực có thể được định nghĩa như là một liên hệ trong đó một trong những người tham dự có ý định đem lại cho một hay cả hai phía nhận định năng lực tiềm ẩn bên trong mình, đồng thời sự biểu lộ và sử dụng năng lực ấy.

Tới đây thì rõ ràng là một định nghĩa như vậy bao trùm một rặng dài những liên hệ, nhằm giúp sự tăng trưởng được dễ dàng. Nhất định trong đó có liên hệ giữa cha mẹ và con cái. Có cả liên hệ giữa thầy thuốc và thân chủ. Liên hệ giữa giáo viên và học trò cũng thường nằm trong định nghĩa này, mặc dầu cũng có những giáo viên không nhằm mục đích giúp cho sự trưởng thành. Nó cũng bao gồm hầu hết những liên hệ giữa người hướng dẫn và thân chủ, bất kể chúng ta nói đến hướng giáo dục, hướng dẫn nghề nghiệp hay hướng dẫn tâm tình. Trong lĩnh vực vừa đề cập tới trên đây, nó bao quát một rặng dài những:

(i) liên hệ giữa nhà tâm lí trị liệu và thân chủ tâm thần;

(ii) liên hệ giữa nhà trị liệu và người rối trí hay bị tâm thần nhẹ; và

(iii) liên hệ giữa nhà trị liệu và con số càng lúc càng đông những người gọi là “bình thường” đến với trị liệu để cải tiến hoạt năng của mình, hay xúc tiến sự tăng trưởng cá nhân.

Phần lớn, đây là những liên hệ giữa hai người. Nhưng chúng ta cũng nên nghĩ đến những tác động hỗ tương giữa một người và nhóm, nhằm tạo thành những liên hệ nâng đỡ. Một số người điều khiển muốn làm cho liên hệ của họ với những nhóm cộng sự thành những liên hệ cổ vũ thăng tiến, trong khi một số khác không nhằm mục đích ấy. Sự tác động hỗ tương giữa nhà trị liệu và nhóm của người ấy thuộc về loại này. Mối liên hệ của người cố vấn cộng đồng với nhóm cộng đồng cũng vậy. Sự tác động hỗ tương giữa nhà cố vấn kĩ nghệ và nhóm điều hành cũng nhằm đóng vai liên hệ nâng đỡ. Cho thấy là nhiều người tham dự đi vào phạm trù những tác động hỗ tương nhằm tăng tiến sự phát triển và sự trưởng thành hơn.

Câu hỏi

Nhưng đâu là đặc tính của những liên hệ thực sự giúp đỡ và trợ lực cho sự tăng trưởng? Và ở đầu bên kia, có thể nhận ra những đặc tính nào khiến một liên hệ không mang tính trợ lực, mặc dầu có ý định thành khẩn là làm tăng tiến sự tăng trưởng và phát triển? Chính vì những câu hỏi này – nhất là câu hỏi đầu tiên, tôi muốn mời các bạn cùng tôi tham quan những nẻo đường tôi đã thăm dò, và xác định với các bạn tôi đang đứng đâu trong suy tư của tôi về những vấn đề này.

Khảo sát về thái độ trong tương giao

Hầu hết các nghiên cứu soi sáng những thái độ của người trợ lực, đấy là những thái độ giúp ích cho sự trưởng thành (growth - promoting) hay cản trở sự trưởng thành (growth - inhibiting)? Chúng ta hãy cùng xem xét một vài bài:

1. Một nghiên cứu thận trọng về mối liên hệ giữa cha mẹ - con cái do Baldwin1 và những người khác thực hiện vài năm trước đây tại Viện Fels chứa đựng những dữ kiện rất hay.

1 Baldwin, A. L., J. Kalhorn, and F. H. Breese, “Patterns of parent behavior”, Psychol. Monogr., 1945, 58, No. 268, 1-75.

(i) Trong những phân loại về thái độ của cha mẹ đối với con cái thì loại chấp nhận dân chủ (acceptant democrative) có vẻ giúp ích nhất cho sự trưởng thành. Khi cha mẹ có thái độ âu yếm và dân chủ với con cái thì thấy chúng có sự phát triển trí năng mau lẹ (IQ gia tăng), nhiều sáng tạo, cảm giác an toàn và tự chủ cao, ít bị khích động hơn so với những đứa trẻ thuộc các mẫu gia đình khác. Mặc dù lúc đầu sự phát triển tính xã hội của chúng có phần chậm, nhưng khi đến tuổi đi học, chúng là những thủ lĩnh thân thiện và không hung hãn.

(ii) Khi thái độ của cha mẹ được xếp vào loại hắt hủi ra mặt (actively rejectant) thì con cái phát triển trí năng chậm, ít sử dụng những tài năng mà chúng có và thiếu tính sáng tạo. Chúng bất ổn trong tình cảm, chống đối, hung hãn và ưa cãi lộn.

(iii) Những đứa trẻ trong gia đình có những thái độ khác, được xếp vào khoảng giữa hai thái cực này.

Tôi chắc chắn là những khám phá liên quan đến sự phát triển của trẻ em này không làm chúng ta ngạc nhiên. Tôi gợi ý rằng, chúng ta cũng có thể áp dụng điều này đối với những liên hệ khác. Nếu người hướng dẫn, bác sĩ, hay người điều hành:

(i) có tình cảm nồng hậu và cởi mở,

(ii) biết tôn trọng cá tính của người khác,

(iii) biết thương yêu mà không chiếm hữu

Thì họ sẽ giúp cho sự phát triển, trưởng thành diễn ra thuận lợi và dễ dàng, giống như khi cha mẹ đối xử với con cái bằng những thái độ ấy.

2. Hãy đến với một nghiên cứu thận trọng trong một lĩnh vực rất khác. Whitehorn và Betz2 điều tra về sự thành công của một nhóm bác sĩ thường trú trong khi làm việc với những thân chủ tâm thần phân liệt (schizophrenic) trong một trại tâm thần. Trong cuộc khảo sát đặc biệt này, họ chọn ra một nhóm bảy người với thân chủ có mức độ cải biến cao nhất và một nhóm bảy người có thân chủ với mức độ cải biến thấp nhất. Mỗi nhóm trị liệu cho khoảng năm mươi thân chủ. Các nhà nghiên cứu xem xét tất cả các dữ kiện cho thấy nhóm A (nhóm thành công) khác với nhóm B chỗ nào. Và họ tìm thấy một số khác biệt đầy ý nghĩa:

2 Betz, B. J., J. C. Whitehorn, “The relationship of the therapist to the outcome of therapy in schizophrenia”, Psychiat. Research Reports #5. Research techniques in schizophrenia, Washington, D.C., American Psychiatric Association, 1956, 89-117.

Các bác sĩ trong nhóm A có khuynh hướng:

(i) “Đọc ra” ý nghĩa đặc biệt trong một số hành vi mà thân chủ biểu hiện ra, thay vì coi họ như một ca bệnh hay một đối tượng chẩn bệnh;

(ii) Nhằm vào nhân cách của thân chủ, thay vì chỉ chăm chăm giảm bớt triệu chứng bệnh tật hay chữa bệnh. Người ta thấy rằng những bác sĩ đắc lực, trong tác động hàng ngày, chủ yếu đem đến một sự tham gia tích cực trong liên hệ người-với-người;

(iii) Ít dùng đến những phương pháp gọi là thụ động buông lỏng (passive permissive). Họ lại càng ít dùng những phương pháp như: suy diễn, dạy bảo, khuyên lơn, hay nhấn mạnh đến sự chăm sóc cụ thể cho thân chủ;

(iv) Có khả năng tạo dựng một mối liên hệ trong đó thân chủ cảm thấy tin tưởng nơi bác sĩ, điều này họ làm được hơn nhóm B.

Mặc dù các tác giả thận trọng nhấn mạnh rằng, những điều thấy được ở đây chỉ liên quan tới những người bị tâm thần phân liệt mà thôi, song tôi tin là những tính chất tương tự sẽ được tìm thấy trong bất kì loại liên hệ trợ lực nào giữa người-với-người.

3. Một cuộc khảo sát khác nhắm vào cách người được giúp đỡ nhìn nhận về mối liên hệ. Heine3 quan sát những cá nhân đã trải qua trị liệu tâm lí dưới sự trợ giúp của phân tâm học, liệu pháp thân chủ trọng tâm và trường phái Adler. Với bất cứ hình thức trị liệu nào, những thân chủ này đều nhận thấy những thay đổi giống nhau trong bản thân họ. Khi được hỏi, điều gì đã góp công vào những thay đổi đấy, họ đưa ra những lời giải nghĩa khác nhau, tùy thuộc vào hướng đi của nhà trị liệu. Nhưng họ đều đồng ý về những yếu tố chính mà họ thấy giúp ích cho mình. Đó là những yếu tố liên quan đến thái độ trong mối tương giao, và chính điều đấy đã góp phần vào những thay đổi nơi họ:

3 Heine, R. W, “A comparison of patients’ reports on psychotherapeutic experience with psychoanalytic, nondirective, and Adlerian therapists”, Unpublished doctoral dissertation, University of Chicago, 1950.

(i) Lòng tín nhiệm nơi nhà trị liệu;

(ii) Cảm giác được nhà trị liệu thấu hiểu;

(iii) Cảm nhận độc lập trong việc lựa chọn và quyết định.

Dù là phương pháp nào, thì điều mà thân chủ cảm thấy giúp ích cho họ nhất trong cuộc trị liệu chính là: Qua đó họ đã sáng tỏ và khẳng định rõ ràng những cảm nghĩ mà họ thấy hoặc nói đến một cách ngập ngừng và mơ hồ.

Mặt khác, các thân chủ cũng có sự thống nhất với nhau về những yếu tố vô bổ trong liên hệ, bất luận hướng đi nào của các nhà trị liệu. Chẳng hạn:

- Khi thái độ của nhà trị liệu là thiếu hưởng ứng, quá xa cách, cách biệt, hay ngược lại, quá nhiều cảm xúc, tình cảm;

- Về phương pháp, họ thấy vô bổ khi các nhà trị liệu đưa ra lời khuyên một cách trực tiếp và quá chi tiết liên quan tới những quyết định (của thân chủ), hay khi nhà trị liệu quá chú trọng tới việc đã qua, thay vì những vấn đề hiện tại;

- Những lời gợi ý hướng dẫn đưa ra một cách nhẹ nhàng được xem là vô thưởng vô phạt.

4. Fielder4, trong một công trình khảo sát được trích dẫn nhiều, thấy rằng các nhà trị liệu thành thạo, dù thuộc những trường phái khác nhau, đều hình thành những mối liên hệ giống nhau với thân chủ. Đặc tính của những liên hệ này là:

4 Fiedler, F. E., “Quantitative studies on the role of therapists feelings toward their patients”, In trong Mowrer, O. H. (Ed.), Psychotherapy: Theory and research, New York: Ronald Press, 1953, Chap. 12.

(i) Khả năng hiểu biết ý nghĩa và tình cảm của thân chủ;

(ii) Tính nhạy cảm đối với những thái độ của thân chủ;

(iii) Sự quan tâm đầy nhiệt tình nhưng không quỵ lụy về tình cảm của nhà trị liệu.

5. Cuộc khảo sát của Quinn5 cho thấy điều gì ảnh hưởng tới sự thấu biết những ý nghĩa và tình cảm của thân chủ. Cuộc khảo sát của ông gây ngạc nhiên ở chỗ, nó cho thấy sự thấu biết những ý nghĩa và tình cảm của thân chủ, cốt yếu nằm ở thái độ khao khát muốn thấu hiểu của nhà trị liệu.

5 Quinn, R. D., “Psychotherapists’ expressions as an index to the quality of early therapeutic relationships”, Unpublished doctoral dissertation, University of Chicago, 1950.

Quinn chỉ trình bày cho các chuyên viên những câu khẳng định đã được ghi băng của các nhà trị liệu, rút ra từ những cuộc phỏng vấn. Những chuyên viên này không biết nhà trị liệu trả lời cho câu hỏi nào, cũng như thân chủ phản ứng ra sao trước lời đáp của ông ta. Ấy vậy qua tài liệu này, họ vẫn có thể thẩm định được mức độ thấu biết như thể là nghe lời đáp trong lúc đối thoại trực tiếp.

Điều này đã đưa đến kết luận rằng: Chính thái độ muốn thấu hiểu đã cho phép nhà trị liệu đến gần hơn với thân chủ của mình.

6. Về phẩm chất tình cảm của mối tương giao, Seeman6 thấy rằng, sự thành công trong tâm lí trị liệu liên quan mật thiết đến sự quý trọng lẫn nhau theo chiều hướng tăng dần và sâu đậm giữa thân chủ và nhà trị liệu.

6 Seeman, J., “Counselor judgments of therapeutic process and outcome”, In trong Rogers, C. R., and R. F. Dymond, (Eds.), Psychotherapy and personality change, University of Chicago Press, 1954, Chap. 7.

7. Một cuộc khảo sát khá thú vị của Dittes7 cho thấy liên hệ trợ lực này rất tinh tế. Dittes dùng phép đo sinh lí, phản xạ tâm lí điện đồ (psychogalvanic) để đo lường những phản ứng lo âu, sợ sệt hay báo động của thân chủ, sau đó so sánh những đo lường này với sự đánh giá của các chuyên viên về mức độ chấp nhận hay dễ dãi của nhà trị liệu. Thấy rằng: Khi nào thái độ của nhà trị liệu thay đổi, dù chỉ một chút, theo chiều hướng giảm mức độ chấp nhận thì những đường xiên lệch đột ngột gia tăng. Hiển nhiên là khi thân chủ cảm nhận thấy nhà trị liệu ít chấp nhận mình thì cơ thể họ liền tổ chức chống lại sự đe dọa, ngay cả trên bình diện sinh lí.

7 Dittes, J. E., “Galvanic skin response as a measure of patient’s reaction to therapist’s permissiveness”, J. Abnorm. & Soc. Psychol., 1957, 55, 295-303.

Mặc dù không thu thập đầy đủ tất cả những khám phá của các công trình nghiên cứu trên, song chúng ta cũng thấy nổi bật một vài điểm sau về tính chất của mối tương giao trợ lực:

(i) Thái độ và tình cảm của nhà trị liệu quan trọng hơn đường hướng lí thuyết của ông ta. Nghĩa là, dù sử dụng phương thức và kĩ thuật nào, thì thái độ của nhà trị liệu cũng quyết định đến sự thành công của mối liên hệ;

(ii) Chính cái cách mà thân chủ nhận thức được những thái độ và phương thức của nhà trị liệu mới đáng kể với họ, và sự nhận thức này là điểm then chốt quyết định sự hữu ích của mối liên hệ.

Những tương giao “tạo tác”

Tôi xin quay sang một loại nghiên cứu khác, mà các bạn có thể cảm thấy không ưa, nhưng lại có ảnh hưởng tới bản chất của mối tương giao thuận lợi. Những cuộc khảo sát này liên quan tới cái mà chúng ta có thể gọi là những tương giao tạo tác8 (manufactured relationships).

8 Trong bản in đầu tiên của Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, dịch giả dùng chữ tương giao “chế tạo”. Ở đây chuyển thành tương tác “tạo tác”, nghĩa là: Một mối tương giao được tạo ra nhằm khởi lên một điều gì đó, tương ứng với hai nghĩa của từ “manufactured” – vừa là chế tạo, vừa là sáng tác, là khởi sự một điều gì đó mới mẻ.

1. Verplanek9, Grennspoon10 và những người khác chỉ ra rằng, có thể điều khiển ngôn ngữ trong một mối liên hệ. Nói ngắn gọn, nếu nhà thí nghiệm nói “Ờ, ờ”, “Tốt” hay gật đầu khi nghe một số câu từ nào đó, thì những loại từ ấy có khuynh hướng gia tăng bởi vì chúng được tăng lực (reinforced). Dùng phương thức như vậy, người ta có thể làm gia tăng nhiều loại ngôn từ khác nhau, chẳng hạn như danh từ số nhiều, lời chống đối, lời xác định ý kiến... Đối tượng thí nghiệm hoàn toàn không ý thức được là mình đang chịu ảnh hưởng bởi sự tăng lực đó. Điều này có nghĩa là, bằng cách tăng cường có chọn lựa như vậy, chúng ta có thể đưa người kia đến việc sử dụng bất kì loại câu từ nào mà chúng ta quyết định tăng cường.

9 Verplanck, W. S., “The control of the content of co versation: reinforcement of statements of opinion”, J. Abnorm. & Soc. Psychol., 1955, 51 , 668-676.

10 Greenspoon, J., “The reinforcing effect of two spoken sounds on the frequency of two responses”, Amer. J. Psychol., 1955, 68, 409-416.

2. Vẫn theo những nguyên tắc về tạo điều kiện hóa từ kết quả (operant conditioning)11 do Skinner12 và nhóm của ông khai triển, Lindsley13 cho thấy rằng, có thể tạo ra một liên hệ trợ lực giữa một người bị tâm thần phân liệt (schizophrenic) kinh niên với một cái máy. Cái máy, giống như máy bán hàng tự động, được sáng chế để thưởng cho nhiều loại hành vi khác nhau. Lúc đầu nó chỉ đơn giản là phần thưởng như viên kẹo, điếu thuốc hay tấm hình cho hành vi nhấn đòn bẩy (lever pressing) của thân chủ. Nhưng cũng có thể đặt chế độ sao cho sau nhiều lần giật đòn bẩy, máy cung cấp sữa cho con mèo con đang đói – có thể nhìn thấy trong một khung quây riêng. Trong trường hợp này, phần thưởng đạt được – sự thỏa mãn mang tính vị tha. Kế hoạch tương tự cũng được khai triển với một thân chủ khác. Giới hạn duy nhất cho các loại hành vi có thể được khen thưởng nằm ở mức độ máy móc tinh xảo của người làm thí nghiệm.

11 Operant Conditioning (Điều kiện hóa từ kết quả, hay Điều kiện hóa công cụ): Được nhà tâm lý học người Mỹ B. F. Skinner mô tả lần đầu tiên: (i) Là quá trình sử dụng củng cố hoặc trừng phạt sau khi một hành vi xuất hiện; (ii) Tập trung vào củng cố hoặc làm suy yếu hành vi có chủ ý. Đây là một khái niệm quan trọng trong tâm lí học hành vi, bên cạnh khái niệm Classical Conditioning (Điều kiện hóa cổ điển).

12 Burrhus Frederic Skinner (1904 - 1990), thường được gọi là B.F. Skinner, là một nhà tâm lí học hành vi và nhà triết học xã hội người Mĩ. Ông là Giáo sư Tâm lí học tại Đại học Harvard từ năm 1958 cho đến khi nghỉ hưu năm 1974.

13 Lindsley, O. R., “Operant conditioning methods applied to research in chronic schizophrenia”, Psychiat. Research Reports #5, Research techniques in schizophrenia, Washington, D.C., American Psychiatric Association, 1956, 118-153.

Lindsley nhận thấy ở một số thân chủ có sự cải thiện đáng kể. Riêng tôi, tôi rất xúc động khi nghe mô tả về một thân chủ suy thoái kinh niên tiến đến bước có thể tự do đi lại ngoài vườn. Sự thay đổi này rõ ràng là nhờ tác động hỗ tương của người đó và cái máy. Sau đó, nhà thí nghiệm quyết định khảo sát ở chiều ngược lại, nghĩa là dù nhấn đòn bẩy bao nhiêu lần đi nữa cũng chẳng có phần thưởng nào hiện ra. Thân chủ dần dần thoái hóa, không ngăn nắp, không tương giao và thôi không đi lại nữa. Hiện tượng não nề này (theo tôi) cho thấy rằng, ngay cả trong liên hệ với một cái máy, thì sự tin cậy thật sự rất quan trọng, nếu muốn liên hệ đó thực sự giúp ích cho một người.

3. Một nghiên cứu thú vị khác về tương giao tạo tác do Harlow và những người phụ tá của ông thực hiện, lần này làm với khỉ. Vào một giai đoạn của cuộc thí nghiệm, người ta đưa ra hai đồ vật trước những con khỉ con bị tách rời khỏi mẹ ngay sau khi sinh: Một cái có thể gọi là “mẹ cứng”, một ống tròn nghiêng, kết bằng giấy kẽm, có núm vú mà khỉ con có thể bú. Vật kia là “mẹ mềm”, một chiếc ống tương tự làm bằng cao su xốp và vải mềm. Mặc dù với bà “mẹ cứng”, nó được bú no nê, nhưng càng lúc nó càng thích bà “mẹ mềm” hơn. Những hình chiếu trên màn ảnh cho thấy nó dứt khoát liên hệ với vật này, chơi với nó, yêu thích nó, bám lấy nó để được trấn an khi có những vật lạ đến gần, và dựa vào sự an toàn này để từ đó bước vào thế giới đầy hiểm nguy.

Trong số nhiều ý nghĩa thú vị của nghiên cứu này, có một điểm rất đáng lưu ý, rõ ràng là: Phần thưởng thức ăn trực tiếp rất hấp dẫn, nhưng nó không thể thay thế cho những phẩm chất nhận thức nhất định mà trẻ sơ sinh dường như rất cần, rất mong muốn và khao khát, chẳng hạn như sự tin cậy, sự ấm áp và sự an toàn.

Hai cuộc nghiên cứu gần đây

Xin được kết thúc sự thăm dò rộng lớn những công trình nghiên cứu bằng cách ghi lại hai cuộc tìm tòi rất gần đây14.

14 Trong quãng thời gian tác giả viết chương III của cuốn sách, khoảng 1954 - 1960.

1. Thứ nhất là cuộc thí nghiệm do Ends và Page15 thực hiện. Làm việc với những người nghiện rượu kinh niên được tòa án gửi vào một bệnh viện công sáu mươi ngày, các ông dùng ba phương pháp tâm lí trị liệu nhóm. Phương pháp mà họ tin là hữu hiệu nhất là liệu pháp dựa trên lí thuyết học tập hai yếu tố (two-factor theory of learning16); thứ hai là liệu pháp thân chủ trọng tâm; cách tiếp cận theo chiều hướng phân tâm học không được kì vọng nhiều lắm. Nhưng kết quả cho thấy, cách trị liệu dựa trên lí thuyết học tập không những không giúp ích mà còn có hại phần nào. Kết quả còn tệ hại hơn cả kết quả của nhóm kiểm soát không được trị liệu. Trị liệu phân tâm đem lại vài kết quả, và liệu pháp thân chủ - trọng tâm đem lại sự thay đổi tích cực nhất. Những kết quả này sau đó được theo dõi trong hơn một năm rưỡi tại bệnh viện đã xác nhận rằng: Phương pháp thân chủ trọng tâm mang lại sự cải thiện lâu dài nhất, kế tiếp là phương pháp phân tâm, kế nữa là nhóm kiểm soát, và cuối cùng là những người được trị liệu bằng lí thuyết học tập hai yếu tố.

15 Ends, E. J., and C. W. Page, “A study of three types of group psychotherapy with hospitalized male inbriates”, Quar. J. Stud. Alcohol, 1957, 18, 263-277.

16 Two-factor theory of learning (Lý thuyết học tập hai yếu tố) được O. Hobart Mowrer đề xuất vào năm 1947.

Thấy có điều khó hiểu về cuộc nghiên cứu này, sự bất thường nào đã làm cho phương pháp mà các tác giả đề cao lại tỏ ra ít hữu hiệu nhất, tôi đã suy nghĩ và tìm ra manh mối trong sự mô tả về phép trị liệu dựa trên lí thuyết học tập17. Về cơ bản, nó bao gồm: (i) nhận ra và đặt tên cho những cách cư xử tỏ ra không thỏa mãn; (ii) cùng với thân chủ thám hiểm một cách khách quan những nguyên do đằng sau những cách cư xử này; và (iii) thiết lập những thói quen giải quyết vấn đề một cách hữu hiệu hơn thông qua giáo dục lại. Nhưng trong tất cả sự tác động hỗ tương này, theo như họ phát biểu, thì mục đích là phải vô cá tính (impersonal). Nhà trị liệu “cho phép cá tính của mình can thiệp vào càng ít chừng nào càng tốt chừng nấy”. “Nhà trị liệu nhấn mạnh tính vô danh trong các hoạt động, nghĩa là phải cẩn thận tránh để những đặc điểm tính cách cá nhân của mình ảnh hưởng đến thân chủ.” Theo tôi, đây xem như manh mối khả dĩ nhất cho sự thất bại của phương pháp này, khi tôi cố gắng diễn giải các sự kiện dưới ánh sáng của những nghiên cứu khác: Từ chối không hiện hữu như một con người và đối xử với người khác như một đồ vật, thì mối tương giao ấy chẳng hữu ích cho bất kì ai.

17 Page, C. W., and E. J. Ends, “A review and synthesis of the literature suggesting a psychotherapeutic technique based on two-factor learning theory”, Unpu lished manuscript, loaned to the writer.

2. Cuộc khảo sát sau cùng tôi muốn nhắc đến là cuộc khảo sát của Halkides18 gần đây. Bà bắt đầu bằng một quan điểm lí thuyết của tôi19, liên quan đến những điều kiện cần và đủ cho sự thay đổi trong trị liệu. Bà đưa ra giả thiết là, có một mối liên hệ đầy ý nghĩa giữa mức độ thay đổi nhân cách có tính xây dựng nơi thân chủ với bốn biến số của người hướng dẫn:

18 Halkides, G., “An experimental study of four conditions necessary for therapeutic change”, Unpublished doctoral dissertation, University of Chicago, 1958.

19 Rogers, C. R., “The necessary and sufficient conditions of psychotherapeutic personality change”, J. Consult. Psychol., 1957, 21, 95-103.

(i) mức độ thấu cảm mà người hướng dẫn biểu lộ với thân chủ;

(ii) mức độ tích cực (sự tôn trọng tích cực vô điều kiện) mà người hướng dẫn biểu lộ với thân chủ;

(iii) mức độ trung thực của người hướng dẫn: lời nói biểu lộ đúng với tình cảm nội tâm;

(iv) mức độ tương xứng giữa sự đáp ứng của người hướng dẫn với cường độ xúc cảm trong sự diễn tả của thân chủ.

Để thử nghiệm giả thuyết này, bà tuyển lựa theo nhiều tiêu chuẩn một nhóm mười ca có thể xếp loại là “thành công nhất” và một nhóm mười ca “ít thành công nhất”. Rồi bà chọn một đoạn phỏng vấn được ghi âm lại trong giai đoạn đầu và cuối của mỗi ca này. Từ mỗi cuộc phỏng vấn đấy, bà nhặt ra ngẫu nhiên chín đơn vị tác động hỗ tương, mỗi đơn vị gồm một câu của thân chủ và một phản hồi của người hướng dẫn. Như vậy từ mỗi ca, bà được chín tác động hỗ tương lúc mở đầu và chín tác động hỗ tương lúc kết thúc, tổng lại có mấy trăm đơn vị được sắp xếp một cách ngẫu nhiên. Những đơn vị từ một cuộc phỏng vấn lúc ban đầu của một ca không thành công có thể nằm bên cạnh những đơn vị từ một cuộc phỏng vấn lúc kết thúc của một ca thành công, v.v…

Ba chuyên viên không biết gì về những ca này, về độ thành công của chúng, hay về nguồn gốc của bất kì đơn vị nào, giờ đây lắng nghe tài liệu này bốn lần. Họ đánh giá mỗi đơn vị dựa trên một thang điểm: trước hết về mức độ cộng cảm (empathy), thứ đến về thái độ tích cực của nhà hướng dẫn đối với thân chủ, thứ ba là sự trung thực của nhà hướng dẫn, thứ tư là mức độ tương xứng giữa sự đáp ứng của người hướng dẫn với cường độ xúc cảm trong sự diễn tả của thân chủ.

Tôi nghĩ đây thật là một cuộc mạo hiểm táo bạo. Liệu những chuyên viên lắng nghe những đơn vị đơn độc và ngẫu nhiên của tác động hỗ tương như thế có thể thẩm định đúng đắn về những đức tính tinh vi như tôi đã đề cập đến hay không? Và ngay cả khi sự đánh giá ấy đáng tin cậy đi nữa, thì mười tám câu trao đổi giữa người hướng dẫn và thân chủ rút ra từ mỗi ca chỉ là một mẫu rất nhỏ trong hàng trăm hàng nghìn trao đổi như thế, liệu có mang lại một tương quan nào với kết quả trị liệu hay không? Hi vọng có vẻ mong manh.

Song thật đáng ngạc nhiên, có thể thấy được sự đồng thuận cao độ giữa các chuyên viên. Phần lớn những tương quan giữa các chuyên viên nằm trong khoảng 0.80 và 0.90, ngoại trừ biến số cuối cùng. Mức độ cộng cảm và mức độ tích cực cũng liên quan một cách đáng kể đến những trường hợp thành công – ở mức 0.01. Ngay cả mức độ chân thực – tức là sự tương xứng giữa lời nói và cảm xúc – của người hướng dẫn cũng có liên quan đến sự thành công của các ca, và một lần nữa đánh giá ở mức 0,01. Chỉ có trong cuộc thăm dò về biến số cuối cùng – mức độ tương xứng giữa sự biểu lộ tình cảm của thân chủ và hồi đáp của người hướng dẫn, là cho kết quả không phân minh.

Đáng chú ý là, xếp hạng cao của những biến số này không phụ thuộc vào việc những đơn vị hỗ tương được rút ra từ phần đầu hay phần sau của cuộc phỏng vấn. Điều này có nghĩa là, thái độ của người hướng dẫn thường không thay đổi từ đầu đến cuối trong suốt cuộc phỏng vấn. Nếu ông có khả năng cộng cảm thì ông sẽ duy trì từ đầu đến cuối. Nếu ông thiếu chân thật ngay từ đầu thì về sau cũng vẫn như vậy.

Như bất kì nghiên cứu nào, công trình này có những hạn chế của nó. Nó chỉ quan tâm đến một loại liên hệ trợ lực, đó là tâm lí trị liệu. Nó mới áp dụng có bốn biến số được xem như có ý nghĩa. Có lẽ còn nhiều biến số khác nữa. Dầu sao nó cũng đánh dấu một bước tiến có ý nghĩa trong việc nghiên cứu những mối liên hệ trợ lực. Tôi xin xác định những kết quả thu được một cách đơn giản nhất. Trước hết có thể thấy rằng, phẩm chất của tác động hỗ tương giữa người hướng dẫn và thân chủ có thể được phán đoán một cách thỏa đáng trên cơ sở một mẫu rất nhỏ về cách ứng xử của ông. Phẩm chất đó là gì:

(i) Nếu người hướng dẫn trung thực hay nhất quán trong lời nói và tình cảm của mình, thay vì mâu thuẫn;

(ii) nếu người hướng dẫn quan tâm thân chủ của mình một cách vô điều kiện; và

(iii) nếu người hướng dẫn hiểu những tình cảm thiết yếu của thân chủ, đúng như thân chủ biểu hiện ra

Thì khả năng lớn đây sẽ là một mối tương giao hữu hiệu.

Một vài bình luận

Trên đây là một số những nghiên cứu đã soi chiếu phần nào bản chất của liên hệ trợ lực. Chúng đã khảo cứu về những bình diện khác nhau của vấn đề. Chúng đã đề cập đến vấn đề từ những bối cảnh lí thuyết khác nhau. Chúng đã sử dụng những phương pháp khác nhau. Không thể đem so sánh chúng với nhau một cách trực tiếp. Tuy nhiên qua đó, chúng dẫn tôi đến một số khẳng định chắc chắn:

(1) Những mối liên hệ hữu ích rõ ràng có đặc tính khác hẳn những liên hệ không giúp ích gì;

(2) Những đặc tính khác biệt này thể hiện ở: một đằng là thái độ của người giúp đỡ, và đằng khác là sự nhận thức về mối liên hệ của người được giúp đỡ.

Song những nghiên cứu đó cho tới nay chưa cho chúng ta những câu trả lời xác quyết về mối liên hệ trợ lực là gì, và nó được hình thành như thế nào?

Tôi có thể tạo ra mối liên hệ trợ lực như thế nào?

Tôi tin rằng, mỗi người đang làm việc trong lĩnh vực liên quan đến mối quan hệ giữa con người như chúng ta đều gặp phải một vấn đề tương tự là: Vận dụng những kiến thức do nghiên cứu đem đến như thế nào. Chúng ta không thể mù quáng làm theo những khám phá này một cách máy móc, vì như thế là chúng ta đang phá hủy những phẩm chất cá nhân mà chính những nghiên cứu này cho thấy là có giá trị. Thiết nghĩ, chúng ta phải sử dụng những công trình này, tiếp tục khảo sát chúng với kinh nghiệm riêng của chúng ta, phải đặt thêm những giả thiết mới và tiến xa hơn, để sử dụng và trắc nghiệm trong chính những mối liên hệ sau này của chúng ta.

Thế nên, thay vì cố gắng nói cho bạn biết bạn nên sử dụng những khám phá đấy như thế nào, tôi muốn đưa ra:

(i) những câu hỏi mà những cuộc nghiên cứu và kinh nghiệm trị liệu đã khơi gợi lên trong tôi;

(ii) một số giả thuyết (tạm thời và có thể thay đổi) đã hướng dẫn hành vi của tôi khi tôi tham gia vào các mối liên hệ với sinh viên, đồng nghiệp, gia đình hay thân chủ, với hi vọng đó sẽ là những liên hệ trợ lực hữu ích cho họ.

Bây giờ mời bạn cùng tôi đi lần lượt qua một số câu hỏi và nhận xét:

1. Làm cách nào để người khác thấy là tôi đáng tin cậy, chắc chắn và nhất quán từ trong sâu thẳm lòng mình không?

Cả nghiên cứu lẫn kinh nghiệm cho thấy rằng đó là điều rất quan trọng. Qua nhiều năm, tôi tin là mình đã tìm thấy những phương cách sâu sắc và tốt hơn để trả lời câu hỏi này. Dạo trước tôi từng nghĩ, chỉ cần mình chu toàn tất cả những điều kiện bên ngoài như: giữ đúng hẹn, tôn trọng tính chất kín đáo và hành động trước sau như một trong các buổi gặp gỡ, v.v… là đủ đáp ứng điều kiện đáng tin cậy này. Nhưng kinh nghiệm cho thấy, nếu lúc nào tôi cũng tỏ ra sẵn sàng tiếp nhận, trong khi thật ra tôi cảm thấy khó chịu, hoài nghi hay bất mãn, thì chắc chắn về lâu dài sẽ mang lại cho thân chủ cảm giác không đáng tin. Tôi nhận ra rằng, sự đáng tin cậy không đòi hỏi tôi phải kiên định một cách cứng nhắc, mà là tôi phải thật sự đáng tin cậy. Tôi muốn dùng từ “trung thực” (congruent) để mô tả cái cách tôi muốn trở thành. Nghĩa là: (i) tôi biết mình đang có tình cảm, thái độ như thế nào; (ii) tôi có thể biểu hiện ra bên ngoài chân xác những gì tôi thật sự cảm thấy ở bên trong. Khi đó, tôi là người đồng nhất, trọn vẹn. Và khi đấy những người khác sẽ cảm thấy tin cậy nơi tôi. Đó là thực tế mà tôi đã trải nghiệm trong quá trình trị liệu.

2. Một câu hỏi liên quan rất chặt chẽ đấy là: Cách biểu đạt của tôi có đủ chân xác để thông truyền về con người tôi đến người khác được rõ ràng không?

Tôi tin rằng phần lớn những thất bại của tôi trong một liên hệ trợ lực đều do giải đáp không thỏa đáng hai câu hỏi này. Khi tôi đang thấy khó chịu với người khác mà không ý thức được điều đó, thì sự truyền thông của tôi chứa đựng những thông điệp trái ngược nhau. Lời nói của tôi đưa ra một thông điệp, nhưng bằng những cách tinh vi, tôi cũng truyền đi sự khó chịu mà tôi cảm thấy. Điều đấy làm cho người kia bối rối và mất tin tưởng, mặc dù chính anh ta cũng không ý thức được điều gì đang gây trở ngại giữa chúng tôi. Như vậy, với tư cách là một người cha, một nhà trị liệu, một giáo viên hay một nhà quản trị, tôi đã thất bại do sự phòng vệ của chính tôi: Tôi không nghe được những gì đang diễn ra trong tôi, không nhận thấy những tình cảm của chính mình. Thất bại này xem như hậu quả dĩ nhiên.

Thế nên với tôi, bài học căn bản nhất cho bất kì ai muốn tạo ra một liên hệ trợ lực là: Trước hết, hãy sống thành thật và chân thực với chính mình, đấy là một điều an toàn. Trong một mối quan hệ nào đó, nếu tôi trung thực, nếu tôi không giấu giếm những tình cảm liên quan đến mối quan hệ với chính tôi hay với người kia, thì tôi hầu như chắc chắn rằng mối liên hệ sẽ hữu ích.

Hay nói cách khác – thoạt nghe có vẻ lạ lùng là: Nếu tôi có thể tạo được một liên hệ trợ lực cho chính mình, nếu tôi ý thức và chấp nhận một cách nhạy cảm những tình cảm của chính mình thì rất có khả năng tôi có thể hình thành mối liên hệ giúp đỡ đối với người khác.

Nhưng, chấp nhận bản thân mình (theo nghĩa đấy) và để người khác nhìn thấy thông suốt điều đó, là việc khó nhất mà tôi biết, cũng là điều tôi chưa bao giờ đạt tới trọn vẹn. Nhưng tôi nhận ra đây là công việc của mình, cũng là một phần thưởng lớn lao, bởi nó giúp tôi tìm ra những gì đã gây trở ngại trong mối quan hệ giữa người với người, từ đó xây dựng chúng theo chiều hướng tích cực hơn. Điều đó có nghĩa là, nếu tôi tạo điều kiện cho sự phát triển nhân cách của những người có liên hệ với tôi, thì trước hết chính tôi phải trưởng thành – đấy thực sự là một trải nghiệm rất đau đớn, song cũng rất phong phú và đáng giá.

3. Liệu tôi có thể cho phép bản thân học hỏi và thể hiện thái độ tích cực như sự ấm áp, chăm sóc, quan tâm, thiện cảm, tôn trọng với người khác hay không?

Đấy chẳng phải chuyện dễ dàng gì. Tôi thường thấy nơi chính tôi, và cả ở những người khác, một nỗi sợ hãi. Sợ rằng nếu chúng ta để bản thân tự do trải nghiệm những tình cảm tích cực này với người khác, chúng ta có thể bị chúng gài bẫy: Hoặc là chúng ta lệ thuộc vào những cảm xúc này, hoặc là chúng ta thất vọng trong chính sự tin tưởng của mình, và điều đấy làm chúng ta lo sợ. Vì vậy, như một phản ứng, chúng ta có khuynh hướng tạo một khoảng cách giữa chúng ta và những người khác – tỏ ra xa vời, giữ một thái độ “chuyên nghiệp”, một liên hệ không-có-cá-tính.

Tôi cho rằng, một trong những lí do quan trọng cho sự chuyên nghiệp hóa trong mọi lĩnh vực là vì nó giúp giữ được khoảng cách này. Chẳng hạn, trong y học, chúng ta phát triển những thể thức chẩn đoán phức tạp, xem con người như một đối tượng cần chẩn trị. Trong giảng dạy và quản trị, chúng ta khai triển đủ các loại phương thức đánh giá, trong đó loại bỏ tất cả những thứ gọi là đặc điểm tính cách cá nhân của một người. Bằng những cách đó, loại bỏ trải nghiệm về sự quan tâm, chăm sóc sẽ tồn tại khi hai người xác lập mối quan hệ cá nhân. Sẽ là một thành công thực sự nếu chúng ta có thể học hỏi được, ngay cả trong một số mối quan hệ nhất định hoặc tại một số thời điểm nhất định, rằng: Khi chúng ta có những tình cảm tích cực thì chúng ta có thể tạo ra bầu không khí an toàn trong mối quan hệ với người khác.

4. Một câu hỏi khác, theo kinh nghiệm của bản thân của tôi, là rất quan trọng: Liệu tôi có một nhân cách đủ mạnh mẽ để độc lập với người khác không?

Tôi có thể thực sự tôn trọng những tình cảm và nhu cầu của mình, cũng như của người kia không?

Tôi có làm chủ được cảm xúc của mình, nếu cần thì diễn tả cảm xúc đấy là một thứ thuộc về riêng tôi và tách biệt với cảm xúc của người kia không?

Tôi có đủ mạnh mẽ trong sự độc lập của mình không? Để bản thân khỏi rơi vào nỗi thất vọng trước sự chán nản của người ấy. Để bản thân không sợ hãi trước nỗi sợ hãi của người ấy. Để không đắm chìm vào sự lệ thuộc tình cảm của người ấy.

Nội tâm của tôi có đủ khỏe mạnh, can đảm để không bị cơn thịnh nộ của người ấy hủy hoại? Để không bị nhu cầu lệ thuộc của người ấy xâm chiếm, cũng không bị tình yêu của người ấy biến thành nô lệ? Rằng tôi vẫn tồn tại độc lập với những tình cảm và nhu cầu của riêng tôi đấy không?

Khi tôi tự do cảm thấy cái sức mạnh của một người độc lập thì lúc đó tôi có thể cho phép mình thấu hiểu sâu sắc hơn và chấp nhận người đấy, bởi khi ấy tôi không sợ đánh mất chính mình.

5. Câu hỏi kế tiếp liên hệ chặt chẽ với câu trên: Tự tôi có hoàn toàn an tâm để cho phép người kia được độc lập là chính họ hay không?

Tôi có thể cho phép người đấy hiện ra như là chính họ hay không – dù là thành thật hay giả dối, ấu trĩ hay trưởng thành, tuyệt vọng hay quá tự tin?

Tôi có để cho người đấy được tự do là mình không? Hay tôi thấy là người đấy phải làm theo lời khuyên của tôi, ít nhiều phụ thuộc vào tôi, hoặc rập khuôn theo tôi?

Đến đây, tôi nhớ tới một cuộc khảo sát nhỏ rất hay của Farson20 cho thấy rằng, những người hướng dẫn chưa thành thạo có khuynh hướng khuyên lơn người khác làm hệt theo mình, “uốn” thân chủ rập khuôn theo mình. Còn những người hướng dẫn thành thạo hơn và năng lực tự điều chỉnh tốt hơn có thể tương tác và hỗ trợ thân chủ qua nhiều buổi gặp gỡ mà không can thiệp vào tự do phát triển một nhân cách độc lập (với nhân cách của nhà trị liệu) của thân chủ.

20 Farson, R. E., “Introjection in the psychotherapeutic relationship”, Unpublished doctoral dissertation, University of Chicago, 1955.

Tôi rất khuyến khích tinh thần tương giao của nhóm sau, dù với tư cách là cha mẹ, nhà quản trị hay người hướng dẫn.

6. Một câu hỏi tôi tự đặt ra cho mình là: Tôi có thể cho phép bản thân bước vào thế giới cảm xúc và ý nghĩa riêng tư của thân chủ, cảm nghĩ chúng như người đấy cảm nghĩ hay không?

Tôi có thể bước vào thế giới riêng tư của người đấy trọn vẹn đến độ tôi không còn muốn đánh giá hay phán xét về nó nữa hay không?

Tôi có thể nhập thân vào thế giới đó tinh tế tới mức tự do đi lại mà không giẫm đạp lên những ý nghĩa hết sức quý giá đối với người đấy hay không?

Tôi có thể cảm nhận thế giới của người đấy chính xác đến mức nắm bắt được cả những điều họ thấy rõ ràng, lẫn những điều họ chỉ cảm thấy mơ hồ, lầm lẫn hoặc tiềm ẩn hay không?

Tôi có thể nới rộng biên độ của sự thấu hiểu này đến vô hạn không?

Tôi nghĩ tới điều một thân chủ đã nói: “Mỗi khi tôi thấy một người, vào một lúc nào đó, hiểu một phần con người tôi, thì không sao tránh khỏi cái lúc mà tôi biết rằng họ lại không hiểu tôi nữa… Điều tôi khổ công tìm kiếm là một người hiểu được tôi.”

Về phần tôi, tôi dễ dàng hiểu được cảm giác này. Thường thì tôi có thể truyền đạt nó cho thân chủ của tôi dễ hơn là cho sinh viên trong một lớp, hay cho đồng nghiệp trong một nhóm mà tôi tham dự. Ý muốn “chỉnh” sinh viên hay “bắt lỗi” đồng nghiệp có một sức cám dỗ thật mạnh mẽ, đôi khi chúng ta không kiểm soát được chính mình. Thế nhưng quả thực, khi tôi có thể tự cho phép mình thấu hiểu người khác, dù trong hoàn cảnh nào, thì điều đó cũng có lợi cho cả đôi bên. Và với thân chủ trị liệu, tôi thường xúc động trước thực tế là: Dù chỉ một chút thấu hiểu, cảm thông, dù chỉ là một cố gắng dò dẫm vụng về và thiếu sót hòng bắt lấy những cảm xúc bối rối phức tạp của thân chủ – thì tất cả đều hữu ích. Lẽ đương nhiên, sẽ thật tuyệt vời nếu tôi có thể nhìn ra và nói lên rõ ràng những cảm xúc, ý nghĩ mà chính người ấy thấy rối rắm, mơ hồ.

7. Một vấn đề nữa là: Liệu tôi có thể chấp nhận mỗi khía cạnh của người đấy y như người đấy để cho tôi thấy hay không?

Liệu tôi có tiếp nhận họ như họ đang hiện diện hay không? Liệu tôi có truyền đạt được thái độ này của tôi đến họ không? Hay là tôi chỉ có thể tiếp nhận họ một cách có điều kiện, chấp nhận một số mặt nào đó trong tình cảm của họ, và âm thầm hoặc công khai phản đối những mặt khác?

Theo kinh nghiệm của tôi, khi thái độ của tôi là có điều kiện thì người đấy không thể thay đổi ở những phương diện mà tôi từ chối tiếp nhận, tức là họ không thể phát triển trọn vẹn. Về sau, đôi khi là quá muộn, tôi ráng tìm ra lí do tại sao tôi đã không thể chấp họ trên mọi phương diện, thì tôi phát hiện ra rằng: Đó là vì tôi cảm thấy sợ hãi hoặc bị đe dọa bởi một khía cạnh nào đó trong cảm xúc của người ấy. Thế nên, nếu tôi muốn giúp đỡ cho người khác nhiều hơn, thì chính tôi phải chấp nhận mình trên mọi phương diện và trở nên trưởng thành hơn, vững mạnh hơn.

8. Một vấn đề rất thực tế được nêu lên: Liệu trong mối quan hệ đấy, tôi có thể hành động thật tinh tế, sao cho cách đối xử của tôi không trở thành một mối đe dọa với người khác hay không?

Khi nghiên cứu những hiện tượng tâm sinh lí trong tâm lí trị liệu, công trình của Dittes cho thấy, con người ta mẫn cảm về sinh lí ra sao khi cảm thấy mình bị de dọa. Phản xạ tâm lí điện đồ – đo lường độ dẫn của da – giảm mạnh khi nhà trị liệu đáp lại bằng một vài từ mạnh dạn hơn so với cảm xúc của thân chủ. Với một câu như “Chà, anh/chị có vẻ bối rối quá”, kim hầu như bật ra khỏi tờ giấy. Tôi muốn tránh ngay cả những đe dọa nhỏ như thế, không phải vì sự nhạy cảm quá độ với thân chủ của tôi. Đơn giản là vì một xác tín dựa trên kinh nghiệm: Nếu tôi có thể hoàn toàn giải thoát người đấy khỏi những đe dọa bên ngoài, thì họ mới bắt đầu cảm nhận và đối phó được với những cảm xúc và xung đột nội tâm mà họ thấy đe dọa trong chính mình.

9. Một khía cạnh cụ thể của câu hỏi trên là: Liệu tôi có thể giải thoát người đấy khỏi nỗi sợ bị người khác đánh giá hay không?

Hầu như trong mỗi đoạn đời chúng ta – ở nhà, ở trường, ở nơi làm việc, chúng ta thấy mình lệ thuộc vào những thưởng phạt do người ngoài đánh giá. “Tốt đấy”, “Nghịch ngợm thế nhỉ”, “Xứng đáng điểm A”, “Lại hỏng rồi à”, “Lời khuyên tốt đấy”, “Nói thế mà cũng nói”... Những lời đánh giá như vậy là một phần của cuộc đời chúng ta từ trẻ tới già. Tôi nghĩ rằng chúng có ích phần nào về mặt xã hội, trong những cơ chế và tổ chức như nhà trường và cơ quan chức nghiệp. Giống như mọi người khác, tôi thấy mình thường xuyên đưa ra những đánh giá như vậy.

Nhưng theo kinh nghiệm của tôi, những đánh giá đấy không giúp ích cho sự trưởng thành cá nhân, do đó tôi không tin rằng chúng là một phần của mối liên hệ trợ lực. Một điều khá lạ lùng là, một đánh giá dù tích cực, về lâu về dài cũng mang tính đe dọa hệt như một đánh giá tiêu cực. Vì nó báo cho một người biết rằng, bây giờ đây tôi bảo anh tốt, thì lúc khác tôi cũng có quyền nói anh xấu. Cho nên càng giữ mối tương giao tránh xa khỏi những phê phán và đánh giá, thì càng dễ cho người khác đạt tới điểm nhận ra rằng: Khả năng định vị giá trị bản thân và trung tâm trách nhiệm nằm trong chính họ. Ý nghĩa và giá trị trong trải nghiệm của một người, suy cho cùng, là tùy thuộc nơi người đó, không một phán xét hay đánh giá bên ngoài nào có thể thay đổi được.

Bởi thế, tôi muốn tạo được một liên hệ trong đó tôi không đánh giá người kia, ngay cả trong thâm tâm mình. Tôi tin rằng điều đó sẽ cho phép người kia được tự do trở thành một người biết chịu trách nhiệm cho chính mình.

10. Câu hỏi sau cùng: Liệu tôi có thể gặp gỡ một cá nhân với tư cách một con người đang trong tiến trình trở-thành và trưởng thành, hay là tôi sẽ bị trói buộc bới quá khứ của họ, và cả quá khứ của chính tôi?

Trong cuộc gặp gỡ, nếu tôi đối xử với người đấy như một đứa trẻ ấu trĩ, một học sinh dốt, một thân chủ thần kinh... thì mỗi quan niệm này của tôi sẽ đều hạn chế khả năng thay đổi của họ. Martin Buber, triết gia hiện sinh của Đại học Jerusalem, dùng từ “xác nhận người khác” (confirming the other), đối với tôi thật có ý nghĩa. Ông nói: “Xác nhận có nghĩa là (…) thừa nhận tất cả tiềm năng của người đấy… Tôi có thể nhận thấy trong họ, thấu hiểu trong họ con người mà họ đã được kiến tạo để trở thành… Tôi xác nhận họ trong chính tôi, và rồi trong họ, những tiềm năng này (...) có thể được nảy nở và phát triển.”21

21 Buber, M., and C. Rogers, Transcription of dialogue held April 18, 1957, Ann Arbor, Mich, Unpublished manuscript.

Nếu tôi tiếp nhận người đấy như một cái gì cố định, đã được hoàn tất và xếp hạng, đã được uốn nắn bởi quá khứ, thì tôi đang dự phần vào việc hạn chế những tiềm năng này bên trong họ.

Nếu tôi chấp nhận người đấy như là một người trong-tiến-trình-thay-đổi, thì tôi đang góp phần vào việc thừa nhận và hiện thực hóa những tiềm năng trong họ.

Ở điểm này tôi thấy, dù là Verplanck, Lindsley và Skinner – làm việc trong điều kiện thực tế hay Buber – triết gia, nhà huyền môn cuối cùng cũng gặp gỡ nhau. Ít nhất trên nguyên tắc, họ gần nhau một cách lạ kì:

(i) Nếu tôi chỉ xem mối liên hệ như một cơ hội hòng tìm kiếm sự ủng hộ của người kia, để tăng cường và củng cố một số từ ngữ hay ý kiến của mình, thì tôi có khuynh hướng xác định người đấy như một đối tượng – về căn bản giống như một cái máy vô tri, có thể điều khiển được.

(ii) Nếu tôi thấy đấy là tiềm năng của họ, đồng thời tôi xem mối quan hệ là cơ hội để họ “củng cố” tất cả những tiềm năng hiện có của mình, thì họ có xu hướng hành động để biến những tiềm năng đấy thành hiện thực, họ phát triển và trưởng thành.

Bởi thế tôi cần (dùng từ của Buber) “xác nhận” người đấy như một con người sống động, có năng lực phát triển nội tâm một cách sáng tạo. Tôi rất ủng hộ mối liên hệ theo phương thức thứ hai này.

Kết luận

Trong phần đầu chương này, tôi đã điểm lại một vài đóng góp mà các nghiên cứu đã đem lại cho hiểu biết của chúng ta về mối liên hệ giữa con người với con người. Sau đó tôi cố gắng nêu lên những câu hỏi phát sinh từ quan điểm nội tâm và chủ quan khi tôi bước vào những liên hệ với tư cách một con người. Nếu tôi có thể quả quyết trả lời cho tất cả những câu hỏi đã nêu lên, thì tôi tin rằng những mối liên hệ của tôi sẽ là những liên hệ trợ lực, giúp ích cho sự trưởng thành. Nhưng tôi không thể đưa ra những câu trả lời xác quyết, tôi chỉ có thể cố gắng làm cho chúng rõ ràng, minh bạch nhất mà thôi.

Điều này làm dấy lên trong tâm trí tôi một giả định rằng, một mối liên hệ trợ lực tối ưu chắc hẳn là loại liên hệ do một người trưởng thành về mặt tâm lí tạo ra. Hay nói cách khác, mức độ mà tôi có thể tạo được những liên hệ giúp ích cho sự tăng trưởng của người khác với tư cách một cá nhân độc lập là thước đo mức độ trưởng thành tôi đạt đến trong chính mình. Ở một mặt nào đó, đây là một ý tưởng gây bối rối, nhưng cũng đầy hứa hẹn, đầy thách thức. Nó chứng tỏ rằng, nếu tôi chuyên tâm tạo nên những liên hệ trợ lực thì tôi sẽ có một việc làm suốt đời rất hấp trước mắt tôi, và phát triển những tiềm năng trong tôi theo chiều hướng tăng trưởng.

Còn một điều tôi khá áy náy là vấn đề mà tôi cố giải quyết cho mình trong chương này có thể ít liên quan tới sở thích và công việc của các bạn. Song có một thực tế là dù ở lĩnh vực nào, tất cả chúng ta đều đang tham gia vào những giao tế giữa người với người và đang cố gắng tìm hiểu trật tự căn bản của những mối quan hệ đó, chúng ta đang dấn thân vào công cuộc quyết liệt nhất của thế giới này. Nếu chúng ta đang ưu tư tìm hiểu trọng trách của mình với tư cách là những nhà quản trị, nhà giáo, cố vấn giáo dục, nhà hướng nghiệp, nhà trị liệu, thì chính chúng ta đang giải bài toán sẽ định đoạt tương lai của hành tinh này. Vì tương lai sẽ không phụ thuộc vào ngành khoa học vật lí. Nó nằm ở việc chúng ta đang nỗ lực tìm hiểu và giải quyết những tác động hỗ tương giữa con người với nhau, ở cố gắng kiến tạo những mối liên hệ trợ lực cho nhau. Tôi hi vọng rằng những câu hỏi mà tôi đặt ra cho chính mình cũng giúp ích phần nào cho các bạn trong việc đạt tới sự hiểu biết và một viễn ảnh nào đó khi các bạn nỗ lực – theo cách của mình – tăng tiến trong những mối liên hệ giữa bạn và người khác.