Khẩu nghiệp phân thành hai loại, một loại là thêu dệt thị phi và một loại nữa là nói lời cay độc.
Có một số người, khẩu nghiệp của họ chẳng qua là một thói quen, họ không nghĩ rằng hành vi như thế chính là tạo nên khẩu nghiệp, thích nói là nói, nói tới nói lui không dừng. Mỗi khi biết được một chuyện hoặc nghĩ ra một chuyện, sau khi thêm mắm dặm muối làm cho mọi chuyện trở nên nghiêm trọng rồi bèn tìm người để “tâm sự”, “chia sẻ”. Ví dụ như nghe đâu đó có người ăn một cái bánh lớn, thế là chạy đi tìm người thêu dệt lại rằng có người nào đó vừa trộm một cái bánh lớn để ăn, đại loại như vậy. Và chính như vậy khiến họ tạo thành một thói quen xấu. Nếu người ấy không có chủ đích cũng không có ác ý, thì việc ấy cũng chỉ là một cái tật chứ cũng không đến nỗi là tạo nghiệp.
Nếu bản thân rõ ràng nhận thức được hành động của bản thân là tạo nghiệp, biết rõ hành động của mình sẽ khiến người khác bị tổn thương, biết rằng những việc ấy là không thể nói một cách tùy tiện, vậy mà vẫn cố tình làm cố tình nói, hơn nữa còn thêm bớt, thậm chí là ngụy tạo các loại chứng cứ để lân la đầu trên trên xóm dưới mà kể thì đó chính là hành động tạo nghiệp.
Khi tạo khẩu nghiệp, sự tổn hại mà bạn gây ra cho người khác càng lớn thì quả báo của bạn càng nặng. Còn như quả báo thế nào thì phải xem tổn hại mà người khác phải gánh lấy từ hành động tạo khẩu nghiệp của bạn. Quả báo không nhất thiết là bạn sẽ bị người kia tạo thị phi để trả đũa bạn. Quả báo có thể đến từ con người, cũng có thể đến từ môi trường sống, và kiểu nào thì người cố tình tạo nên khẩu nghiệp cũng sẽ phải hứng chịu những quả báo mà bản thân gây ra.
“Lắng lòng soi lại việc mình, thảnh thơi chớ luận nhân tình thị phi”1, đó chính là một mỹ đức cần phải huân tập thành một thói quen. Nên khen ngợi nhiều hơn là phê bình, đó chính là phương pháp tốt nhất để tránh tạo nên khẩu nghiệp.
1Nguyên văn: 靜坐常思己過,閒談莫論人非 (Tĩnh tọa thường tư kỷ quá, nhàn đàm mạc luận nhân phi). (ND)
Có người sau khi tạo khẩu nghiệp rồi mới ý thức được là mình vừa tạo nghiệp. Họ nhận ra những điều bản thân vừa nói chính ra không nên nói, nhưng họ không cố tình làm thế, không có ý mang lại sự bất lợi cho người khác từ ngôn từ của mình, chỉ là buộc miệng nói rồi hối lại không kịp mà thôi. Đối với những trường hợp ấy, cần phải chí thành sám hối, sám hối để biết rõ mình có tật ấy, để ăn năn cái lỗi đã phạm, nhưng quan trọng là ngăn ngừa sự tái phạm.
Nếu người bị chúng ta nói xấu, nói lời không hay phát hiện được điều chúng ta nói, tốt nhất bạn nên tìm đến người đó và sám hối với họ. Còn như họ chưa biết, và việc bạn làm cũng không ảnh hưởng hay tổn thất gì lớn đến họ, thì bạn cũng không cần phải tìm họ để sám hối nhằm tránh những xung đột không đáng có. Tuy nhiên trong trường hợp đó, vẫn phải tự mình phản tỉnh chính mình, thành tâm sám hối ăn năn trước Tam Bảo để ngăn ngừa sự tái diễn.
Nếu tạo cho mình một thói quen biết soi lại những việc mình làm, biết ăn năn và sám hối thì việc bản thân tạo tội có thể ngày một được giảm thiểu, bởi sám hối chính là một phương pháp để điều chỉnh bản thân, giúp cho thân, khẩu, ý hướng dần đến thanh tịnh viên mãn.
Mỗi lần phạm khẩu nghiệp là mỗi lần chí thành sám hối, sám hối là thừa nhận cái sai của mình để sửa, để răn mình đừng tái phạm. Sám hối không có nghĩa là tạo thành áp lực, mặc cảm tội lỗi, không thể ngóc lên được nữa sau khi phạm sai lầm, mà phải đứng dậy sau khi đã ăn năn.
Nếu biết bản thân thường hay phạm phải khẩu nghiệp, thì lúc nào cũng phải tâm niệm dè chừng và nhắc nhở chính mình trước khi nói gì cũng phải suy nghĩ thật kỹ, uốn lưỡi bảy lần rồi hãy nói. Điều đó không có nghĩa là bắt chúng ta im lặng suốt, mà là biết sàng lọc cái gì nên nói và không nên nói để tránh tạo nghiệp.
Bày chuyện thị phi, thêu dệt đúng sai, phán xét người này đúng người kia sai, nói những lời không chính đáng sau lưng người khác đều là những việc làm khiến bản thân vướng vào con đường tạo khẩu nghiệp, do vậy chúng ta cần luôn thận trọng và tránh những việc làm này.