Chúng ta vẫn thường nghe nói: “Nhân ác gặt quả ác, nhân thiện gặt quả thiện, phải đâu chưa gặt quả, chỉ là chưa phải thời ”1. Trong quan điểm nhà Phật, nhân quả báo ứng có thể chia thành ba loại: hoa báo, quả báo và dư báo.
1Nguyên văn: 惡有惡報,善有善報;不是不報,時辰未到 (Ác hữu ác báo, thiện hữu thiện báo; bất thị bị ác báo, thời thần vị đáo). (ND)
Hoa báo ở đây là chỉ việc trổ hoa. Trổ hoa là cái xảy ra đầu tiên sau khi nhân được gieo, tức là bắt đầu thấp thoáng thấy được bóng dáng, thậm chí thọ nhận được một chút ảnh hưởng từ cái nhân đã gieo. Trong khi đó, quả báo chính là chỉnh thể của kết quả cho cái nhân mà mình đã gieo, nó là sự hiện hữu đầy đủ những gì mà bản thân phải thọ lãnh khi đã gieo nhân. Còn dư báo có thể hiểu là những gì còn sót lại sau quả báo, hoặc giả, có thể coi là những di chứng then chốt của nghiệp lực còn rơi rụng lại.
Ba loại quả báo này đều có thể xuất hiện trong đời người, cũng có một số quả báo không thể chín ngay mà tùy theo nhân duyên, nếu nhân duyên không hợp thì không thể hiển lộ ngay được. Kiếp này không trổ quả thì kiếp sau sẽ phải thụ lãnh cho cái nhân mà bản thân đã gieo xuống. Tuy nhiên, cho dù hiện đời chưa thấy sự xuất hiện của quả báo thì hoa báo chắc chắn sẽ trổ, chúng ta sẽ nhận thấy được những dấu hiệu ảnh hưởng của nhân đã gieo.
Hoa báo sẽ ảnh hưởng đến cả thể chất và tinh thần của người thụ báo, ảnh hưởng đến nghề nghiệp, môi trường sống và gia đình.
Ví dụ, nếu bản thân đã làm một việc ác, mặc dù lẩn trốn tránh được cơ quan thực thi pháp luật, bản thân thường giả vờ vui vẻ thoải mái, nhưng chắc rằng cảm giác bất an và tội lỗi sẽ vẫn luôn hiện hữu, khiến cho người tạo ác nghiệp có thể sẽ phải khổ sở, gặp ác mộng vào nửa đêm. Có thể người khác nhìn vào sẽ thấy bản thân sung túc, giàu có nhưng có ai biết được cái địa ngục đang hiện hữu trong lòng mình, tuy chưa xuống địa ngục nhưng trong lòng đã sẵn có địa ngục rồi.
Dư báo cũng tồn tại. Chẳng hạn, phạm nhân sau khi mãn hạn tù thì trong lòng có vết nhơ, thường cảm thấy bị mọi người coi thường, mặc dù không ai phân biệt đối xử nhưng trong lòng vẫn có bóng dáng của sự tự ti. Trên thực tế, xã hội đâu phải không dung nạp được người từng lầm lỡ, với một người mãn hạn tù, chỉ cần anh ta cải tạo tốt thì dần dần, ấn tượng của mọi người về anh ta sẽ thay đổi, nghìn vàng không đổi được cái quay đầu của lãng tử là vậy.
Đối với quả báo, có thể gieo một nhân và thu nhiều quả; lại cũng có người chỉ thu được một quả dù rằng gieo nhiều nhân. Có thể thấy rằng nhân quả là bất khả tư nghì và không hề cứng nhắc. Còn như muốn gieo một hạt dưa để thu lấy đúng một trái dưa, gieo một hạt đậu thu lại đúng một hạt đậu thì còn phải xem sự phối hợp giữa nhân và duyên trong từng trường hợp cụ thể.
Ví dụ, B nợ A một khoản tiền lớn, nhưng A lại nợ C. B và C không biết nhau nên B sẽ không trực tiếp trả lại tiền cho C. B vẫn trả lại tiền cho A và A sẽ trả lại tiền cho C.
Cũng có thể công - tội bù trừ cho nhau. Ví dụ, C thấy A rất hào phóng với B. Dù B chưa trả nợ nhưng A không hề o ép bức bách; C cho rằng A là người tốt, C lại không đến mức túng quẫn nên có thể C sẽ không đòi nợ A nữa. Quả báo sẽ không xuất hiện, có thể xem như C đã tạo được một việc công đức. Ngoài ra, C đợi đến khi A có tiền rồi mới đòi nợ, A sẽ không phải đau khổ vì bị ép trả nợ; đối với C, đó cũng là một công đức.
Tuy nhiên, vấn đề nhân quả không chỉ đơn thuần như vậy. Việc báo ứng hay không còn tùy thuộc vào thái độ của đối phương và sự thay đổi của môi trường, nhưng quan trọng hơn đó là sự nỗ lực của chính bản thân mỗi người trong cuộc. Khi bản thân cố gắng hết sức cho sự hoàn thiện và ngày một hướng thiện, thì cho dù bản thân đang vướng nghiệp, cũng sẽ không thấy đau khổ khi trả báo; trả báo một cách thụ động gọi là cưỡng bức, sẽ rất đau khổ.
Dù có vướng nghiệp hay không, chúng ta cũng nên cố gắng hết mình để hướng thượng. Khi có một người nào đó đến yêu cầu chúng ta một điều hay món đồ nào đó, cho dù là đòi nợ hay nhờ giúp đỡ, nên tâm niệm rằng, chỉ cần điều đó trong phạm vi khả năng của bản thân, chúng ta nên giúp đỡ họ hết sức có thể. Song cũng cần nói rõ, khi đối phương vô cớ gây sự, cũng giống như kẻ xấu tìm đến chúng ta để tống tiền, nếu chúng ta đưa thì đó không phải là một việc làm trí tuệ và có phước đức.
Lại còn một loại trả báo chủ động khác nữa. Có một số người chủ động giúp đỡ những người khó khăn, dùng thời gian, tiền bạc, tài lực, vật lực hoặc dùng ảnh hưởng của chính mình để giúp đỡ người khác. Cách trả báo tự nguyện này được gọi là bố thí, làm như vậy thì trên thực tế quả báo cũng sẽ không xảy ra, vì sao? Vì người ta không có cơ hội đòi nợ.
Tuy nhiên, trong cuộc sống thực tế, vẫn có trường hợp người tốt thọ mạng lại không được dài lâu, hoặc người tốt lại không được thiện báo. Thường thì người ta cả đời làm việc thiện, cuối cùng lại bị bọn cướp giết một cách dã man, chết tức tưởi… Khi người tốt gặp phải chuyện như vậy, dường như không có công lý trên đời, tại sao những người tốt lại phải chịu đau khổ như vậy?
Việc này liên quan đến quả báo của kiếp trước, tuy đã làm nhiều việc thiện nhưng vẫn chưa nguôi được hết thù oán, nhân duyên chưa đủ, nên vẫn còn quả báo ác.
Cũng có khi người đến lại chẳng phải oan gia trái chủ, mà là họ muốn tìm đến mình để tạo nghiệp. Người tốt bị ức hiếp, ngựa thường bị người cưỡi là vậy. Thiện môn rộng mở, hạng người nào cũng có thể tìm đến. Một khi họ đã đến tìm mình, cho ít thì họ chê không đủ từ bi, hành thiện chưa được công bằng, có khi xảy ra tranh chấp, có khi ảnh hưởng đến cả tính mạng. Và khi xã hội nhìn vào những việc như thế, họ có cảm giác như hành thiện nhưng lại gặp ác báo, việc này khiến không ít người hành thiện bố thí bị thoái tâm chuyển ý.
Theo quan điểm của Phật giáo, người bố thí thì không nên thoái tâm dù cho là bất kỳ hoàn cảnh nào đi nữa. Bố thí cũng cần có trí tuệ. Bố thí bằng trí tuệ sẽ khiến mọi người hạnh phúc, không sinh ra oán hận hay ghen tị.
Quả báo không thể được nhìn từ một yếu tố, sự kiện đơn lẻ mà nên từ nhiều góc độ khác nhau; cũng không từ nhìn trong một đời, mà từ kiếp trước, kiếp sau. Bằng cách nhìn như vậy, bản thân sẽ thấy rằng không phải người tốt không được báo đáp.