Các bậc thánh triết của Nho gia thường răn dạy rằng: “Cha mẹ còn tại thế, không nên bỏ nhà đi xa”1, hoặc là “cha mẹ qua đời, (phận làm con) ba năm không thay đổi chí hướng của cha mẹ thuở tại thế”2. Những lời răn dạy ấy đều thể hiện trọn vẹn đạo hiếu mà đến tận ngày nay nó vẫn còn có giá trị luân lý để chúng ta có thể học tập theo.
1Nguyên văn: 父母在,不遠遊 (Phụ mẫu tại, bất viễn du). Lấy ý trong Luận ngữ, thiên “Lý nhân”: 子曰:父母在,不遠遊,遊必有方 (Tử viết: phụ mẫu tại, bất viễn du, du tất hữu phương) – tức là, Đức Khổng Tử nói cha mẹ còn tại thế, không được đi xa, nếu có đi, ắt phải thưa rõ nơi đến. (ND)
2Nguyên văn: 父母過世,三年不改其志 (Phụ mẫu quá thế, tam niên bất cải kỳ chí). Lấy ý trong Luận Ngữ: 子曰:父在,觀其志;父沒,觀其行。三年無改於 父之道,可謂孝矣 (Tử viết: Phụ tại quan kỳ chí, phụ một quan kỳ hành. Tam niên vô cải ư phụ chi đạo, khả vị hiếu hĩ) – tức là, Đức Khổng Tử nói khi cha (mẹ) còn tại thế thì quan sát chí hướng của người, khi cha (mẹ) không còn thì noi theo cách làm của người; ba năm không thay đổi chí hướng cũng như việc làm của cha mẹ thì có thể gọi là hiếu vậy.
Tuy nhiên, phải hiểu cho tường tận câu “Cha mẹ còn tại thế, không nên bỏ nhà đi xa” là vì trước đây, giao thông chưa phát triển, tin tức truyền đi khó khăn, mười bữa nửa tháng chưa chắc đã có tăm hơi. Vậy nên, để tránh cho cha mẹ lo lắng phiền lòng, thánh triết xưa dạy mình không nên đi xa. Còn như chúng ta hiện nay, khi mà toàn cầu chỉ nằm trong một cái nhấp chuột, cách nhau nửa vòng Trái Đất cũng như sống chung trong chỉ một thôn, nên cái ý “không nên bỏ nhà đi xa” dường như không còn phù hợp, hoặc không thể xem đó là “đi xa”. Chỉ cần bước lên xe là có thể bấm điện thoại báo tin bình an cho cha mẹ, ngay cả khi đi ra nước ngoài vẫn có thể gọi điện thoại tâm sự với gia đình bất kể lúc nào.
Còn như tang chế, vì sao người xưa ấn định ba năm, bởi lẽ một đứa bé được sinh ra đời, ba năm đầu tiên hoàn toàn dựa dẫm vào cha mẹ. Vậy nên khi cha mẹ qua đời, trong ba năm sau đó không được làm khác đi chí hướng của cha mẹ, làm bất kể việc gì cũng phải nghĩ tưởng đến lời dạy bảo giáo huấn của cha mẹ, phải luôn xem xét coi cử chỉ, ngôn hành của mình có gì sai trái với lời dạy, chí nguyện của cha mẹ hay không. Vậy nên mới có lệ an trí quan tài của cha mẹ yên ổn một nơi suốt ba năm, không dịch chuyển, giống như cha mẹ hãy vẫn còn đang tại thế vậy. Ba năm sau mới nhặt lấy hài cốt mà làm lễ cải táng.
Nên hiểu rõ tinh thần như vậy để thích ứng với hoàn cảnh hiện tại ngày nay. Trước mắt, ấn định 49 ngày để lo liệu tang sự thiết nghĩ cũng là đã khá dư giả thời gian cho việc này. Chỉ cần xử lý di thể theo cách hợp lý nhất, sao cho đảm bảo được tính trang nghiêm, long trọng mà không lãng phí thời gian, tiền bạc. Đồng thời, không quên cầu nguyện cho cha mẹ lãnh hội thiện nghiệp, thác về thiện cảnh, vững tâm nhất niệm tu hành hạnh Bồ tát.
Với tinh thần Phật giáo, trong vòng 49 ngày sau khi cha/mẹ qua đời, chúng ta phải chí thành niệm Phật, kết hợp với công đức mà cha/mẹ đã tích lũy được thuở sinh thời, hoặc nếu phúc báo mà cha mẹ đã kiến tạo được từ việc nuôi con dưỡng cái thành những con người có ích cho xã hội mà mong rằng họ được hưởng phúc báo nơi đất Phật, Tây phương cực lạc thế giới. Từ đó, nguyện cầu họ mang tâm lượng Bồ tát từ nơi đất Phật hội nhập lại Ta bà mà giáo hóa tất thảy chúng sinh. Đó chính là mang tinh thần Phật giáo kết hợp với quan niệm hiếu đạo của Trung Quốc hình thành nên nguyên tắc cư tang báo hiếu mang hơi thở hiện đại hóa của cuộc sống ngày nay.
Người Trung Quốc khi mắng nhau thường có thói quen lôi cả ba đời tổ tiên ra để thóa mạ. Vậy nên, sau khi cha mẹ qua đời, chúng ta phải cẩn trọng trong từng cử chỉ, ngôn từ, hành vi, đừng để cha mẹ phải vì những hành động không chính đáng của chúng ta mà bị lôi ra mắng. Và chúng ta không những thận trọng mà còn phải tự mình trưởng thành, phải luôn tin tưởng rằng cha mẹ mình, ở nơi cõi linh nào đó, hoặc giả là trên liên tòa trong tư thế một vị Bồ tát nơi đất Phật nào đó, luôn dõi theo chúng ta và vui mừng vì sự tinh tấn dũng mãnh của chúng ta. Như vậy có thể coi là trọn bề hiếu đạo.
Cư tang giữ hiếu quan trọng nhất là giữ cho được cái tinh thần cốt tủy của đạo hiếu chứ không phải chỉ là ở cái hình thức chống gậy, mặc áo sô gai, nằm gai giữ mộ, hay ba năm không ra khỏi cửa, không cắt tóc chẳng cạo râu, tạo thành sự nhớp nhúa bề ngoài và không phù hợp với vệ sinh, sức khỏe của thời đại chúng ta.
Việc tổ chức tang lễ cho đình đám, tổ chức đoàn đưa tang rồng rắn không những làm ách tắc giao thông mà trống chiêng rền vang còn ảnh hưởng đến đời sống của bà con. Ngày xưa, giao thông cách trở, phương tiện liên lạc không được tiện lợi như bây giờ, nên mỗi khi trong tông tộc có người cao niên nằm xuống, người ta tổ chức tang lễ rình rang vì muốn nhân qua cuộc tang lễ ấy mà chỉnh đốn gia phong gắn kết dòng tộc. Còn như ngày nay, giao thông thuận tiện, phương tiện liên lạc đủ đầy, muốn là có thể nhấc máy gọi điện, gặp mặt nhau. Vậy nên, nếu cứ bảo thủ theo những lễ tiết ngày xưa thì chẳng hóa ra chẳng bày được cái lòng hiếu thảo mà trái lại là tạo ra sự bát nháo, thậm chí là gây ra sự ô nhiễm. Đó là điều mà chúng ta cần phải nghiêm chỉnh xem xét lại.
Tôi có một tín đồ, mới đây mẹ anh ấy qua đời, tiền phúng viếng nhận được vài trăm nghìn Đài tệ. Sau đó, các anh em trong gia đình nhóm họp bàn bạc với nhau rồi góp thêm cho đủ 1.000.000 Đài tệ phân thành nhiều khoản để quyên góp khắp các nơi để dùng vào việc thiện, qua đó hồi hướng công đức, cầu phúc cho người mẹ quá cố. Chính hành động này, vô hình trung đã đóng góp cho xã hội những điều tốt đẹp. Theo chúng tôi, đây cũng chính là một trong những cách cư tang báo hiếu ý nghĩa, phù hợp với nhịp sống hiện đại.