Trong đời sống của chúng ta hiện nay, mối quan hệ giữa nam và nữ ngày một trở nên phức tạp, nhất là khi so sánh với trước đây, và dường như đây không phải là cái phúc của người hiện đại. Cha mẹ đã không còn quản thúc con cái, dư luận xã hội cũng buông tay phó mặc, điều đó đã tạo nên một mối quan hệ lỏng lẻo gần như hữu danh vô thực giữa nam và nữ, kể cả trong những cuộc hôn phối được pháp luật thừa nhận. Như chúng ta ai cũng biết, một tờ giấy chứng nhận kết hôn được pháp luật bảo vệ vẫn không thể nào đảm bảo được một cuộc sống gia đình hạnh phúc mỹ mãn, hoặc một sự an toàn tuyệt đối cho một cuộc hôn nhân dài lâu.
Nếu nhìn vào mặt tốt, con người tốt hơn bất kỳ loài động vật nào đang hiện hữu trên Trái Đất này; nhưng nếu nhìn vào mặt xấu, con người lại tệ hại hơn cả loài cầm thú. Trong thực tế, bên cạnh những động vật giao phối hỗn tạp như chó, mèo… có một số loài động vật không giao cấu mang tính “loạn luân” như nhạn, cá voi, uyên ương… Khi mất đi “bạn đời”, chúng có thể cô độc cho đến chết.
Có một số người đặt vấn đề: “Không xuất gia, lại cũng không kết hôn, nhưng vẫn mong có quan hệ nam nữ”. Dường như điều này có gì đó giống như động vật.
Vấn đề nằm ở chỗ: Tiêu chuẩn giá trị của xã hội chúng ta để đánh giá nhân cách là gì? Mọi người đều nghĩ làm điều này là được. Chỉ có tôi, một ông thầy tu, nói không. Có thể một số người sẽ nói: “Tại sao ai cũng đồng tình, chỉ một mình thầy lại cho là không được?”
Nhìn vấn đề này theo quan điểm của Phật giáo, chúng ta không có một giới luật nào nói rằng “phải làm thế này mới là đúng tuyệt đối, và nếu không làm như vậy sẽ sai hoàn toàn”. Việc đầu tiên chúng ta phải suy nghĩ là rốt cuộc tinh thần của giới luật nằm ở đâu?
Tinh thần giới luật của Phật giáo về hôn nhân là bảo vệ sức khỏe thể chất và tinh thần của cá nhân, duy trì sự an toàn của hòa thuận gia đình, và đảm bảo sự hài hòa và ổn định của toàn xã hội. Nếu không cần đến tờ giấy hôn thú hay nghi lễ thành hôn mà vẫn đạt được các mục đích nêu trên, bản thân tôi nghĩ tờ giấy chứng hôn hay nghi thức thành hôn là không còn cần thiết nữa.
Nhưng nếu sự thiếu các điều khoản ràng buộc, tiết chế trong hôn nhân gây ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất và tinh thần của một người, tạo ra các vấn đề cho thế hệ sau và gây rắc rối cho xã hội, thì bạn phải suy nghĩ lại.
Để có một câu trả lời chính thức cho vấn đề này, quả thật sẽ là một điều chẳng dễ dàng gì, tôi không thể nói “được”, cũng không thể nói “không được”.
Chế độ hôn nhân là những ràng buộc hoặc nghi thức được sản sinh ra từ trong lòng của một xã hội lễ nghi. Thuở ban sơ, trong lòng xã hội mẫu hệ không có những ràng buộc về mặt hôn phối, chế độ hôn phối chỉ dần được hình thành theo sự ra đời của xã hội theo chế độ phụ hệ. Những điều khoản ràng buộc hướng đến sự bảo đảm rằng trai gái sau khi xác định hôn phối không được tùy tiện trong quan hệ, tránh cho gia đình những điều đáng tiếc thậm chí là tan vỡ.
Trước đây, trong xã hội mẫu hệ, con cái chủ yếu theo mẹ, đàn ông sống ở nhà phụ nữ khi họ đến rồi đi và sống trong một khoảng thời gian, hoặc một hoặc hai ngày, rất tự do, không hề có các vấn đề về hôn nhân. Hiện nay, trong một số gia đình “đơn thân” cũng có hiện trạng tương tự, các ông bố thường ít khi nhận lấy phần nuôi con, phần lớn con cái sẽ theo người mẹ. Trong trường hợp ấy, bạn phải thật sự lưu ý đến “sức khỏe thể chất và tinh thần của chính bạn, không tạo ra các vấn đề cho con bạn, không tạo ra vấn đề cho bên kia và không tạo ra vấn đề cho xã hội”.
Những điều trên đây là trách nhiệm của chúng ta với tư cách là con người. Chúng ta phải có trách nhiệm với xã hội, gia đình, con cái và hơn nữa là với chính bản thân, nếu không sẽ gây hại cho người khác và là hành vi giết mòn bản thân mình.
Tôi chủ trương “nâng cao phẩm chất của con người và xây dựng một cõi tịnh độ giữa nhân gian”. Nếu còn một cá nhân nào có nhân cách không tốt, thì một cõi tịnh độ giữa lòng nhân gian này còn chưa thể được thành lập được.