Trong suốt năm ngày, tối nào Greg cũng gọi điện đòi gặp cô. Jenny kiên quyết từ chối, một cách lịch sự, và họ không còn dành những lời giận dữ cho nhau nữa. Cô nói muốn được ở một mình một thời gian, và tâm trí cô ngày một kiên định về chuyện đó, do đó lời nói của cô cũng ngày một có sức thuyết phục với Greg. Cô thấy mừng vì ngân hàng của anh ta ở Rittersville chứ không phải là Humbert Corners; cô không muốn nhìn thấy mặt anh ta dù chỉ qua lưới sắt cửa sổ. Mười ngày đã trôi qua, bao gồm cả sinh nhật của Greg, hôm đó Jenny chỉ gửi cho anh ta một tấm thiệp chúc mừng thân thiện nhưng không nhiệt tình. Cô thấy ngạc nhiên và biết ơn vì anh ta không xuất hiện ở đường vào nhà mình. Cô đoán là anh ta đang chờ cô nhận ra cảm giác cô đơn ngày một lớn dần lên khi phải ở một mình trong căn nhà biệt lập, nghĩ rằng chỉ hai tuần nữa thôi cô sẽ sướng rơn khi anh ta trở lại.
Khi nghĩ tới Robert, cô cảm nhận được một nỗi đau rõ ràng, nhưng phai đi gần như ngay lập tức, thế rồi một chuỗi hình ảnh xuất hiện: Robert trông thật nghiêm nghị dưới ánh nến trong nhà hàng, Robert trông ngờ vực ở đường trượt, Robert mặc áo sơ mi đi đi lại lại trong phòng khách của cô, rồi cả lần cuối cô gặp anh, khi anh bước tới bước lui trong phòng một cách lo âu nữa. Nhưng ký ức xúc động nhất mà cô có về anh là lúc nhìn thấy anh đứng trong ánh sáng phát ra từ ngọn lửa cạnh nhà cô – khi anh vẫn còn là kẻ xa lạ. Cô hoàn toàn không thấy e sợ ký ức ấy, chỉ thấy kỳ cục và chán nản khi phần lớn mọi người lại thấy sợ hãi nó. Phần lớn bọn họ không biết gì về cuộc sống cả. Tất nhiên cô không cho là mình biết tất cả, nhưng cô cảm thấy mình đang đi đúng hướng. Cô không bi quan theo cả chục hướng khác nhau như phần lớn mọi người. Có thể mối liên hệ của cô với Robert đã kết thúc, và nếu vậy thì cứ để vậy, nhưng cũng có khả năng một thứ khác đã được định mệnh sắp đặt – hoặc tốt hoặc xấu. Và có thể cô đang quá thụ động khi cố gắng không liên lạc với anh vào thời gian này.
Một buổi tối, tầm chín giờ, cô gọi vào số điện thoại cũ của Robert ở Langley. Cô cứ nghĩ một người trực tổng đài sẽ nhận máy và thông báo số điện thoại này đã bị cắt.
Hoặc một người lạ được chuyển giao số của Robert sẽ nghe máy.
“Cô đang gọi tới một số điện thoại đã bị cắt,” tổng đài viên sẽ nói. “Cô có muốn biết số mới không?”
“Có,” Jenny nói.
“À, tôi xin lỗi, chúng tôi không được phép báo số điện thoại mới. Đó là số điện thoại không công khai.”
“Ý cô là số ở Langley này à? Gọi tới Robert Forester?” “Phải. Đó là số ở Langley, nhưng không công khai.” “Cảm ơn cô.”
Greg không biết là Robert vẫn còn ở Langley, Jenny nghĩ thầm. Hai tuần trước anh ta đã gọi cho cô, đắc thắng thông báo là Robert đã rời thị trấn, hẳn anh ta đã dựa vào việc số điện thoại cũ của Robert không còn hoạt động nữa. Có thể tổng đài viên mà Greg gặp không thông báo rằng Robert có một số điện thoại không công khai. Cô có thể gọi cho anh ở văn phòng vì chắc anh vẫn còn làm việc ở đó. Cô lên giường mà vẫn mải suy nghĩ về điều đó, dù cô biết dưới ánh sáng ban ngày cô sẽ nhìn nhận mọi thứ thấu đáo hơn và sẽ thấy quyết định gọi điện cho anh là một hành động sai lầm.
Sáng hôm sau cô gọi cho anh lúc mười một giờ, lấy cớ để ra khỏi ngân hàng trong giờ nghỉ giữa giờ, vì họ có một cái máy pha cà phê trong căn phòng sau két sắt. Cô phải nói chuyện với hai người, một người phụ nữ và một người đàn ông, trước khi Robert nghe máy. “Chào, Robert. Anh khỏe không?” Cô hỏi.
“À, khỏe, cảm ơn em. Còn em thì sao, Jenny?” “Cho tới tối qua em vẫn không biết anh vẫn còn ở thị trấn.” Cô ép mạnh ống nghe vào tai. “Em đã gọi vào số điện thoại cũ của anh.” Tất cả những câu xã giao vui vẻ mà cô định nói đều biến đi đâu mất tăm.
“À, tôi đã chuyển ra một căn nhà biệt lập.” “Anh thật sự vẫn ổn chứ?”
“Tất nhiên rồi. Ổn hơn lần cuối cùng em gặp tôi, tôi nghĩ vậy.”
“Giờ anh đã li dị à?”
“Phải. Tôi đã nhận được giấy tờ.”
“Robert, em vô cùng xin lỗi vì việc Greg đã gọi cho anh. Có vẻ như tất cả những gì em có thể làm là xin lỗi hộ anh ta.”
“À, chuyện đó đã xảy ra từ lâu rồi, cách đây một tháng, không phải sao? Tôi chỉ ước cậu ta đã không gọi đến New York.”
“Em đã điên lên với Greg về chuyện đó. Em đã không gặp anh ta kể từ ngày anh ta phá hỏng bữa tối của chúng ta.” Cô dừng lại, muốn hỏi rằng giờ anh đã li dị, vậy họ có thể gặp nhau không? Cô vẫn nhớ anh đã nói gì về việc nhìn cô, thích ngắm cô qua cửa sổ bếp. Đó cũng là cảm giác cô dành cho anh. Cô chỉ đơn giản muốn nhìn thấy anh mà thôi.
“Tôi nghĩ là mình phải đi bây giờ đây, Jenny. Cảm ơn em vì đã gọi cho tôi.”
Họ đã dập máy trước khi cô kịp nhận ra. Cô tự kiểm điểm lại bản thân vì bật ra chuyện về vụ li dị: đáng ra cô không thể biết điều đó. Nó làm Robert thấy xấu hổ. Và anh hoàn toàn không có hứng thú với việc cô đã lâu không gặp Greg.
Khi công việc của cô kết thúc lúc bốn giờ ba lăm, Jenny lái xe tới Langley. Mặt trời đang lặn và hoàng hôn đã rơi xuống. Cô đoán là nhân viên ở Langley Aeronautics tan làm lúc năm giờ, và việc tìm được xe của Robert giữa hàng trăm con xe khác có lẽ là vô vọng, nhưng anh sẽ có mặt trong số đó, ở đâu đó, có thể cách cô năm trăm mét, có thể gần hơn. Bãi đỗ của Langley Aeronautics trông cũng giống những bãi xe cũ mà cô đã đi qua. Thậm chí còn có một cảnh sát điều tiết xe cộ đi ra khỏi nhà máy, qua các cánh cổng sắt. Và có ít nhất ba lối ra. Xe của Robert là một chiếc mui trần màu đen với khung crôm hai bên nóc – không có nhiều xe trông như vậy, nhưng ở đây có quá nhiều xe. Cô chầm chậm lái qua các lối ra cho tới khi chỉ còn lại khoảng hai mươi xe trong bãi, nhưng vẫn không thấy xe của Robert đâu. Cuối cùng, cô đành lái xe về nhà. Cô được mời tới ăn tối ở nhà Tesser lúc bảy giờ dù cô không hào hứng với nó cho lắm. Gia đình Tesser nghĩ cô phiền muộn vì vụ chia tay với Greg – một chuyện mà họ không hiểu nổi – và cố gắng làm cô vui lên. Cô chưa hề kể cho họ về Robert. Nhưng có thể tối nay cô sẽ kể. Cô phải chia sẻ cho ai đó nghe.
Điện thoại reo khi cô mở cửa, cô đã hy vọng đó là Robert, nhưng hóa ra lại là Greg. Có một buổi hòa nhạc được tổ chức ở Thính phòng Langley nhân kỉ niệm ngày sinh của Washington, và Greg muốn đưa cô đi nghe. Cô cảm ơn anh ta và từ chối.
“Chuyện này còn kéo dài đến bao giờ nữa, Jenny? Anh đã cho em hơn một tháng rồi. Em đang làm cái gì vậy, vẫn thầm thương trộm nhớ gã Forester hay sao? Em đang nghĩ đến việc tới New York theo hắn à?”
“Em chỉ muốn được ở một m-mình thôi, Greg.” “Em sẽ đi gặp ai thế? Susie à? Hay một thằng bạn trai của cô ta?”
“Không!”
“Được rồi, bé con. Anh yêu em. Nhưng có những lúc anh nghĩ em cần ăn no đòn. Em sẽ còn nghe tin từ anh đấy.”
Đó là tối thứ Năm, và cô lại nhận được một bức thư từ anh ta vào thứ Bảy. Bức thư dài bốn trang giấy, được đánh máy, đạt đến đỉnh điểm ở trang thứ tư khi anh ta nói về thái độ tàn nhẫn của cô khi từ chối gặp anh ta lâu đến như vậy, cũng chỉ ra rằng anh ta đã chiều theo cô với một sự kiên nhẫn phi thường mà hiếm có người đàn ông nào có thể sẵn lòng hay đủ khả năng thể hiện.
Vào tối thứ Ba kế tiếp, là lần thứ tư hay thứ năm gì đó khi Jenny cố tìm xe của Robert ở nhà máy Langley Aeronautics, và cô đã tìm ra. Anh ra khỏi một cánh cổng, rẽ về phía bắc, sáu con xe khác đi giữa họ, nhưng cô vẫn nhận ra xe của anh rẽ trái sau khoảng một cây số. Đó là một con đường rời khỏi thị trấn và dẫn thẳng tới một vùng nông thôn. Cô vẫn bám sau anh ở một khoảng cách đáng kể vì bây giờ không còn xe nào chắn giữa họ nữa. Cô chỉ muốn nhìn nhà anh và biết nó ở đâu. Đèn hậu màu đỏ của xe anh rẽ sang phải rồi dừng lại, đèn pha chiếu sáng một ngôi nhà nhỏ có mái nhọn. Cô đi chậm lại, thấy Robert ra khỏi xe cũ, để yên đèn và đi về phía ngôi nhà. Khi đã ở gần đường vào nhà anh, cô đi chậm hơn nữa, muốn được nhìn thấy, muốn được gọi tên. Nó là một lối vào nhà ngắn.
“Jenny đấy à?” Anh gọi.
Cô rẽ vào đường vào nhà anh và dừng lại, nhìn anh bước về phía mình. Anh đang mỉm cười, ngạc nhiên, nhưng trông anh thân thiện chứ không có vẻ bực dọc.
“Ra đó là em,” anh nói. “Có vấn đề gì à?”
“Không.”
“À... muốn ra khỏi xe không? Vào nhà đi.”
Cô tắt động cơ, bước ra ngoài, cùng anh đi về phía căn nhà. Cửa hướng ra đường lái xe vào nhà, một cánh cửa với các ô kính hình kim cương ở nửa trên. Các cột chống mái hiên nhỏ được chạm rãnh hình xoáy ốc. Nó có màu đen và nâu, và đó là tất cả những gì cô có thể nhìn thấy và cô cũng chẳng mấy để tâm, vì còn mải chú tâm vào Robert, cô không thể tìm ra lời nào để nói với anh, không phải câu xin lỗi, lời bông đùa, không gì cả.
Anh bật đèn sau cửa. “Vào đi. Tôi sẽ vào ngay sau.” Anh ra ngoài để tắt đèn xe của mình.
Căn phòng trông như phòng chính của một lâu đài thời trung cổ. Có một lò sưởi ở bên trái, cao ba mét, khiến cho mặt lò sưởi không thể được dùng đúng chức năng của nó, và một chiếc tràng kỷ kiểu Shakespeare màu đỏ dựa vào tường. Trên ban công trên gác là phòng ngủ, quá rõ ràng, vì phòng khách choán gần hết diện tích tầng trệt.
“Một chỗ khá thú vị, đúng không?” Robert nói, mỉm cười. “Tôi thích nó lắm.”
“Nó như một thứ bước ra từ truyện cổ tích vậy.”
“Để tôi cất áo khoác cho em.”
Anh treo áo khoác của cô vào tủ cùng áo của anh, rồi tới bên lò sưởi, nơi củi đã nằm sẵn sàng chờ nhóm, chúng chỉ chiếm một không gian nhỏ xíu đến mức ngớ ngẩn trong cái lò sưởi rộng hoác. Anh lấy diêm đốt một mẩu giấy đặt dưới củi rồi mở lưới sắt ra. Rồi anh bật một cây đèn trên cái bàn nằm chính giữa phòng và tắt bóng đèn trên đầu đi. Trên mặt bàn đầy các bức vẽ máy móc bằng bút chì và bút mực.
“Em ngồi đi. Em có muốn uống gì không?”
Cô ngồi xuống một cái ghế bành da gần lò sưởi. “Nói xem, tối nay em không nói gì nhiều nhỉ.” Anh đi tới một cánh cửa dẫn vào căn bếp màu xanh dương.
Cô theo chân anh. Căn bếp nhỏ xíu, nhưng rất gọn gàng và sạch sẽ. Anh lấy đá ra và đo rượu Scotch bằng ly jigger, rồi đổ vào một cái cốc thủy tinh cao. Anh liếc nhìn cô qua vai hai lần, khiến cô nhớ lại lần anh tới nhà mình, khi ấy cô – cô phải thú nhận – đã hơi sợ hãi khi nhìn thấy anh. Giờ thì anh đang mỉm cười và trông hạnh phúc. Anh đưa một cốc rượu cho cô, và họ quay lại phòng khách. Cô nhận thấy giờ anh đã có máy nghe đĩa và có một giá toàn đĩa L.P. bên dưới.
“Trông anh như thể đã quyết định định cư ở đây. Anh đã ký hợp đồng thuê nhà chưa?” Cô hỏi, và ngay lập tức thấy ghét bản thân vì câu hỏi tầm thường ấy. Cô uống ba ngụm Scotch lớn từ cốc của mình.
“Rồi, hợp đồng một năm. Một trăm hai mươi lăm đô một tháng, gồm cả tiền khí đốt. Không tệ nhỉ, em nghĩ sao?” Anh nhìn cô với ánh mắt như đang cười. Anh ngồi trên một cái ghế độn bông cạnh lò sưởi.
“Không có nhiều phòng lắm,” cô nói một cách khó tính, nhìn lên chữ V nhọn ngược của trần nhà.
“Tôi không cần thêm phòng làm gì. Tôi mừng vì em ghé qua đây. Ở chỗ này có hơi cô đơn. Không giống như lúc sống trong một khu căn hộ.”
Trông anh hoàn toàn không cô đơn, cô nghĩ. Rồi cô nghĩ tới vụ li dị. “Em xin lỗi vì đã nhắc đến vụ li dị của anh. Em chỉ biết điều đó qua Greg.”
Nụ cười của anh biến mất rồi quay lại. “Không quan trọng. Tôi mừng vì đã li dị. Điều quan trọng là tôi chắc chắn Nickie cũng hạnh phúc hơn, nên thế là tốt nhất cho tất cả. Greg thế nào? Em đã gặp cậu ta chưa?”
“Em đã bảo anh rồi,” Jenny nói, “em chưa hề gặp lại anh ta từ hôm Chủ nhật chúng ta đi trượt tuyết.”
“À.” Anh đút một thanh củi khác vào lò.
Jenny nhìn giá sách cạnh lò sưởi của anh. Phần lớn chúng đều có bìa mới. Có rất nhiều sách lịch sử và hồi ký. Anh lấy cốc khỏi tay cô.
“Muốn uống thêm chứ? Hay là thôi?”
“Có chứ, cảm ơn anh.”
Rượu nhanh chóng xộc lên đầu cô, khiến cô thả lỏng và buồn rầu. Cô sợ là mình có thể nói hay làm gì đó sai lầm khiến Robert không thích và không bao giờ muốn gặp lại cô nữa. Cô có thể thấy anh bắt đầu trông lo lắng vì cô ngày càng im lặng hơn, rồi anh mời cô ở lại ăn tối, vì anh có một miếng thịt bò đủ lớn cho hai người ăn, anh có thể nướng nó trên lửa và cô đồng ý ở lại. Rồi tâm trí lờ đờ, thực tế của cô tự hỏi miếng thịt ấy đã được rã đông chưa, và điều kế tiếp mà cô biết là Robert đang bọc những củ khoai tây trong giấy bạc, quỳ xuống trước lò sưởi, và miếng thịt đang nằm trên một tấm lưới sắt, sẵn sàng để được cho vào lò, rõ ràng nó đã được rã đông.
“Em trộn salad nhé? Em làm món đó ngon lắm.” Cô loạng choạng đứng dậy và cảm thấy nụ cười ngớ ngẩn của mình làm hai khóe miệng trĩu nặng. Vẻ ngoài và cách cư xử của cô cứ như của một đứa con gái mười sáu tuổi, và cô thấy căm ghét bản thân vì điều đó.
Nhưng vào đến trong bếp thì cô quên đi trạng thái căng thẳng của mình khi trộn sốt trong cái bát salad bằng gỗ tối màu của Robert. Anh có tỏi, hành tây, và đủ loại rau thơm. Anh đã buộc một cái tạp dề bằng vải bò trông như của thợ mộc quanh người cô, và cô vẫn nhớ cảm giác khi tay anh lướt qua eo cô. Cô làm salad một cách cầu kỳ, đến lúc xong xuôi thì món thịt bò và khoai tây cũng vừa hoàn thành, Robert đã xếp bàn ăn ở một góc trong phòng khách, đúng điều mà cô định làm. Trên bàn còn có một chai rượu vang đỏ của Pháp.
Trong bữa ăn, Robert kể về công việc của mình và nói rằng có khả năng anh sẽ tới Philadelphia, nơi đặt nhà máy chính của Langley Aeronautics. Anh đang nghiên cứu việc kết hợp hai bộ phận của một thứ gì đó trong động cơ trực thăng và trên bàn làm việc của anh chính là bản vẽ của chúng. Anh cho cô xem một bức và Jenny cố gắng để hiểu nó, nhưng lại nhìn thấy nó nhân đôi. Chắc vì cô chẳng nhận xét gì nhiều về chúng nên anh cho cô xem một tập tranh vẽ côn trùng – thứ duy nhất mà cô từng nghe nói đến là bọ ngựa, trông thật đáng sợ trong bức vẽ của Robert. Anh kể cho cô biết là các bức tranh này sẽ được in thành sách và anh chuẩn bị gửi toàn bộ tới New York. Rồi cô thấy xấu hổ khi Robert thôi kể về công việc của mình và hỏi cô đã bao giờ tới dự buổi hòa nhạc của Mozart và Stravinsky ở Thính phòng Langley chưa, Jenny bảo chưa từng, dù cô không nói rằng Greg đã mời cô đi. Mới đầu cô còn hăm hở ngấu nghiến món thịt, nhưng rồi đột nhiên cô không thể ăn thêm được nữa. Lúc ăn salad do mình làm, cô cảm thấy muốn khóc nức nở.
“Robert, em yêu anh,” cô ngắt lời anh.
Anh phát ra một âm thanh nửa cười nửa thảng thốt ngạc nhiên, rồi cô thấy mình đã ngồi trên tràng kỷ đỏ, tựa lưng vào vài cái gối. Robert đang nói bằng giọng đều đều, “... một chút cà phê. Đây. Espresso mạnh. Tôi không nên đưa cốc Scotch thứ hai cho em. Nhưng em cũng chưa uống nhiều lắm. Chẳng lâu nữa em sẽ cảm thấy đỡ hơn thôi.”
Từ ngữ cứ trôi tuột qua tai mà cô không thể thốt nổi một lời.
Robert đi đi lại lại, hút thuốc lá, dừng lại trước bàn cà phê tròn để nhấp một ít cà phê trong cốc của anh. Cô nghĩ họ sẽ kết hôn và cùng sống ở đây, và cô sẽ quen việc ngủ cùng giường với Robert và anh cũng quen với cô. Cô nhìn người anh xoay qua xoay lại, bước chân gần như không phát ra tiếng động trên thảm. Anh không nhìn cô. Anh quẳng điếu thuốc lá vào lò sưởi. Cô nhắm mắt lại trước hình ảnh cái áo trắng của anh chuyển động qua lại rồi ngủ thiếp đi. Cô tỉnh lại khi anh chạm vào vai cô. Anh đã đắp một cái chăn lên người cô và giờ đang ngồi cạnh cô trên tràng kỷ.
“Cảm thấy đỡ hơn chưa? Mới mười một rưỡi thôi. Tôi nghĩ có thể em muốn về nhà.”
“Em không muốn về nhà.”
“À... vậy thì em cứ ngủ lại đây. Không có ga giường nhưng tôi có thể lấy nó ra trong một phút.” Rồi anh trông có vẻ hoang mang, đi vẩn vơ tới chỗ chiếc ghế có một quyển sách đang úp xuống. Anh gập sách lại và đặt nó lên mặt. Lò sưởi như một cái giường làm từ những đốm than màu cam-đỏ. Anh quay về phía cô, nhìn cô như mong cô đổi ý, mong cô tỉnh táo hơn và nói rằng thôi thì em sẽ về nhà.
“Anh có đồ ngủ không?” Cô hỏi. “Tôi nghĩ là có. Sẽ rộng đấy nhé.”
Cô tắm, vô thức giặt tất và treo chúng trên móc treo trong phòng tắm, dùng kem đánh răng và lấy các ngón tay để chải răng, cô muốn dùng một trong hai cái bàn chải của anh mà không dám. Nỗi xấu hổ của cô vì tự mời mình ngủ lại đã chuyển thành một cảm xúc khác – một hành động trơ trẽn mà cô phải làm cho trót, một việc mà cô có thể sẽ nhăn nhó khi sau này nghĩ lại. Khi cô ra khỏi phòng tắm, Robert đã mặc áo ngủ và áo choàng, đứng đó, tay cầm một cốc sữa.
“Tôi nghĩ là có thể em sẽ thích thứ này,” anh nói. “Không, em cảm ơn. Em muốn uống một cốc rượu vang nữa.”
Anh đi lấy nó từ trong bếp. Cô đứng nhìn anh rót rượu vào một cái ly mà họ đã dùng ở bàn. Căn bếp đã lại sạch bong. Anh đã dọn dẹp bát đĩa. Cô đặt ly rượu lên bàn cà phê mà anh đã kéo tới cạnh giường, trèo lên giường và nhấp rượu. Robert cho một thanh củi khác lên trên đốm than.
“Không phải em sẽ cần lò sưởi để giữ ấm đâu, tôi hy vọng thế, nhưng trông chúng khá đẹp,” anh nói. “Em muốn dậy lúc mấy giờ?”
“Bảy giờ rưỡi.” “Được rồi. Đó cũng là giờ tôi dậy. Ngủ ngon, Jenny.” “Chúc ngủ ngon.”
Anh đứng đó nhìn cô, đầu hơi nghiêng, mặt mỉm cười, tay đút vào túi áo choàng. Đối với Jenny, nó thật hoàn hảo, dù anh có muốn hôn cô hay không, chỉ cần ở trên chiếc giường trong nhà anh, căn nhà mà anh đã ngủ lại và họ cùng hít thở một bầu không khí, đã là hoàn hảo. Cô nhắm mắt lại. Cô đang nằm sấp, một tay úp má, và cô định mở mắt ra lần nữa và ngắm anh đứng đó trong cái áo choàng sọc xanh. Khi cô mở mắt ra, phòng tối om và anh đã đi đâu mất, chỉ còn ánh sáng lờ mờ từ ban công tầng trên. Cô cảm thấy như chưa đầy năm phút trôi qua. Nhưng thời gian đã biến mất. Có thể cô sẽ thức cả đêm, cũng có thể cô sẽ ngủ thiếp đi. Cả hai khả năng ấy đều dễ chịu. Không phải đêm cũng chẳng phải ngày. Cô chỉ cảm thấy đơn giản là mình tồn tại. Từ thích hợp dành cho nó là vĩnh cửu.