Tối hôm ấy Jenny không ngủ, và hôm sau, tức là ngày thứ Ba, cô cũng không đi làm. Tối thứ Hai cô thậm chí còn chẳng lên giường mà chỉ đi loanh quanh khắp nhà, ngồi lại vài phút để đọc vài đoạn thơ từ những cuốn sách khác nhau, đứng tựa vào ô cửa sổ đen kịt để nhìn ra ngoài, nghe tiếng cú kêu – một trong những dấu hiệu của cái chết, cô nghĩ thầm. Cô nằm xuống giường một chốc, đèn vẫn bật, hai tay bắt chéo sau đầu. Cô chỉ mặc đúng chiếc áo thụng ngắn bằng vải bông xù. Một lúc nào đó, dường như là cả niên kỷ trước, cô đã tắm. Cô nhớ em trai Eddie của mình hồi thằng bé mới có tám, chín tuổi gì đấy, vào các tối thứ Bảy và thứ Tư, mà cũng có lẽ là ba tuần một lần, nó thường nói, “Đi tắm ạ?” với cái giọng vừa ngỡ ngàng vừa không tin, khi mẹ họ nhắc thằng bé nên đi tắm. Eddie bé bỏng, chết năm mười hai tuổi. Thời gian trôi qua đã lâu, đến mức thỉnh thoảng cô ngỡ nó là con của mình.
Rạng đông ngày thứ Ba, cô thiếp đi và sau đó ngủ tới tận mười một giờ. Cô nghĩ thư từ đã được giao lúc mười giờ, nhưng cô hoàn toàn không có hứng thú với chúng. Cô gọi điện tới ngân hàng và báo với Steve, người nghe điện thoại, là cô bị ốm và không thể đi làm. Sau mười hai giờ cô mới mặc quần jean xanh và áo sơ mi vào, rồi đi xuống đường để lấy thư. Chỉ có một tấm bưu thiệp gửi từ một tiệm quần áo ở Rittersville. Rồi, cô nhìn thấy một tấm bưu thiếp màu vàng có chữ viết của Robert ở trên nằm bẹp dưới đáy hòm thư. Đó là một tấm thiệp hình chim khác. Ác Quỷ Sa Đọa, thỉnh thoảng còn được gọi là Chúa Đi Rong. Nơi cư ngụ: các thung lũng u ám. Màu: màu xanh dương sậm viền đen. Tiếng kêu: ‘Có thể tồi tệ hơn! Có thể tồi tệ hơn!’ Jenny không cười. Cô chẳng mấy để tâm đến nó. Nhưng cô vẫn nhớ mình đã vui đến thế nào hôm anh khoe cô chú chim phơi quần áo. Jenny thả hai tấm bưu thiếp xuống mặt bàn cà phê trước ghế xô- pha. Cách đây ba hay bốn ngày gì đó, cô đã trải qua một cơn sốc thú vị, gần giống như nỗi sợ hãi, khi nhìn các tấm thiệp chim chóc của Robert. Chúng đều nằm trong một quyển sách nhỏ có bìa lụa màu xanh dương trong ngăn kéo tủ trên cùng của cô trên gác. Giờ thì cô không còn sợ chúng nữa.
Cô nói ra từ “chết” vài lần, nếm và cảm nhận nó trên đầu lưỡi. Người Anh em Tử thần, Robert đã gọi như vậy và giả vờ không thích giấc mơ ấy, nhưng Jenny chắc chắn là không phải thế. Đáng ra cô phải biết từ cái ngày anh kể cho cô về giấc mơ đó, cô nghĩ. Vậy nhưng cô băn khoăn không rõ liệu chính bản thân Robert có tự biết không? Giữa biết, biểu tượng hóa, và tượng trưng – cô cho rằng một người có thể biểu tượng hóa và tượng trưng cho một thứ gì đó mà không tự biết điều đó. Thật hiếu kỳ. Robert có thể chỉ là vật trung gian. Nhưng dẫu sao đi nữa thì anh cũng nằm trong tay cái chết, chính nó ngăn anh cưới cô, thậm chí là hôn cô, nhiều hơn một lần.
Trong bếp, cô rót cho mình nửa cốc rượu Scotch và nhấm nháp, không cho thêm nước hay đá. Cô đọc thêm vài bài thơ. Keats. Rồi đến Dylan Thomas. Cô kéo rèm phòng khách xuống rồi đi ra ngoài và đóng cả các cánh cửa chớp ở cửa sổ bếp. Đọc bằng đèn điện khiến cô cảm giác như thể màn đêm đã buông xuống, và cô nóng lòng muốn màn đêm đến thật nhanh. Robert kể anh vẫn thường làm vậy trước khi gặp cô. Cô nghĩ đến việc gọi điện thoại cho Susie, nhờ cô ấy tưới nước cho cây cối của cô, đồng thời dặn cô ấy thích gì trong nhà cô thì cứ tự nhiên mà lấy – mẹ của Jenny sẽ chẳng bao giờ biết hoặc quan tâm, bà còn không dành ra nổi thời gian để tới đây thăm cô – nhưng bỗng nhiên cây cối và tài sản dường như chẳng còn quan trọng nữa. Cô có nên để lại lời nhắn cho mẹ mình không? Một lời nhắn nhủ với lời lẽ tự nhiên sẽ làm giảm bớt độ thống thiết, nhưng Jenny chẳng nghĩ nổi một từ thích hợp – có lẽ là hoàn toàn không có từ nào như vậy hết. Đã sáu giờ tối trước khi cô uống cạn cốc Scotch. Cô rót thêm nửa cốc rượu nữa. Vẫn còn một phần ba chai rượu.
Tầm chín giờ, cô vào ngồi trong phòng khách, vẫn mặc cái áo thụng bông xù màu xanh dương, với chỗ rượu Scotch còn lại mà cô đã rót từ lúc sáu giờ. Cô nhìn chằm chằm vào đôi giày da đanh thổ dân màu vàng đã sờn mép, nghĩ rằng chúng xấu xí nhưng tiện dụng, và tự hỏi tất cả những bước mà cô đã đi, hẳn là vì một mục đích nào đó, nên chúng mới sờn đến mức này. Qua chỗ rách, cô có thể nhìn thấy ngón chân cái trắng hồng của mình. Cô không còn hóa đơn nào phải trả trừ tiền điện thoại và tiền điện, cô nghĩ, và chắc chắn là tài khoản ngân hàng của cô thừa sức chi trả khoản tiền đó. Và cũng đủ để trả tiền thuê nhà cho tới khi ông Cavanaugh chủ nhà của cô có thể cho thuê lại chỗ này. Không đáng phải ngồi viết séc. Cô thoáng nghĩ tới sự hãi hùng và sửng sốt của bố mẹ cô khi nghe tin, nhưng cả điều ấy cũng có vẻ vô nghĩa và xa xôi, sau tất cả, cuộc đời cô là của cô, làm gì thì tùy cô. Khi nhấm nháp cốc rượu, cô nghĩ tới cảnh mới vài ngày trước thôi, Robert còn mở chai rượu này, tự pha cho mình và cho cô một cốc rượu. Cô vui vì anh đã uống rượu từ chính chai rượu này.
Hồi chuông điện thoại khiến cô nhảy dựng lên. Cô tiến về phía nó một cách chậm chạp.
“Chào cô bạn,” giọng Susie vang lên. “Cậu đang làm gì thế?”
“Không gì cả.”
“Tớ nghĩ hay là tớ ghé qua nhé. Có muốn xem Rob Malloy lúc mười giờ không?” “Không.”
“Có vấn đề gì vậy? Cậu đang khóc đấy à?” “Tất nhiên là không rồi.”
“Giọng cậu kỳ cục lắm. Có chuyện gì xảy ra à?” “Không có gì... xảy ra hết.”
“Robert thì sao? Tớ hy vọng cậu đã chia tay anh ta.” “Rồi,” Jenny nói.
“Thì sẽ mất vài ngày đau khổ nhưng rồi cậu sẽ vượt qua thôi. Jen, tớ ghé qua chơi nhé? Được không?”
“Thôi đừng. Tớ ổn cả. Thật ra thì tớ đang uống rượu Scotch đấy.” Cô nghĩ điều đó sẽ nghe vui vẻ hơn.
“Có ai ở đấy không?” “Không.”
“Bợm rượu cô độc à!” Susie cười nói. “Jenny, cậu đang rầu rĩ vì gã đó, nhưng đừng để nó kéo dài quá lâu được không? Tớ nói từ kinh nghiệm cá nhân đấy. Dù Greg có xuất hiện lại hay không thì chính cậu đã thừa nhận với tớ Robert là kẻ nhìn trộm mà. Trời ơi, Jenny, sao cậu lại mất từng ấy thời gian để thừa nhận điều đó cơ chứ?”
Phải, cô đã làm như vậy, mới Chủ nhật vừa rồi, thế thì sao? “Đó chỉ là một chi tiết vụn vặt,” cô nói.
“Jenny, cậu uống nhiều quá rồi đấy. Có đúng không? Tớ sẽ qua chỗ cậu đây, Jen.”
Jenny dập máy, cố gắng chấm dứt cuộc trò chuyện với Susie, nhưng tay cô cử động rề rà đến mức cô nghe tiếng cô ta dập máy trước. Cô leo cầu thang lên phòng tắm và đi thẳng – chậm rãi nhưng không ngập ngừng – tới chỗ lọ Seconal trong tủ thuốc. Có ba lọ, một lọ cô lấy từ tủ thuốc của Robert tối qua và hai lọ cô trộm từ vali của Greg khi anh ta mang một lọ thuốc cho Robert tới cho cô. Tất nhiên, cô không bảo với Greg là lọ thuốc là dành cho Robert. Cô đã bảo là muốn lấy thuốc cho chính mình. Cô đã phải dành chút thời gian thuyết phục vì Greg không muốn để cô uống thuốc ngủ, nhưng anh ta muốn gặp cô nên đã mang vali theo, tranh luận thêm một chút và cuối cùng vẫn đưa chúng cho cô. Rồi khi anh ta ra khỏi phòng một lúc thì cô đã lấy nốt hai chai thuốc hồng còn lại mà cô thấy trong vali. Chắc Greg chưa bao giờ nhận ra. Anh ta đã chết chỉ sau đó có hai tuần. Jenny tưởng tượng thi thể của Greg bị cuốn vào một bụi cây dưới nước, va vào một khúc gỗ chìm dưới nước hoặc một tảng đá nào đó dưới dòng sông Delaware. Có thể thi thể anh chưa bao giờ bị cuốn đi, không bao giờ được tìm ra. Nhưng bây giờ cô không hiểu nổi sao mình từng có giây phút tin rằng Robert không hề đẩy Greg xuống sông và anh ta vẫn còn sống. Bà Van Vleet vẫn luôn một mực tin rằng Robert đã làm việc đó. Bố mẹ cô cũng biết rõ chuyện này. Jenny đã kể cho họ, khi họ gọi cho cô vào chiều Chủ nhật, là có thời gian Robert từng nhìn trộm cô qua cửa sổ phòng bếp. Giọng của cô lúc đó không giống như thể đây là một chuyện kinh khủng hay Robert đã gây ra chuyện gì kinh khủng với cô, nhưng mẹ cô vẫn bị sốc. Bà kể cho bố cô và họ bắt cô hứa không được gặp lại anh nữa. Họ muốn cô về nhà và Jenny đã báo là chắc khoảng thứ Tư hoặc thứ Năm gì đấy cô sẽ về. Xác cô sẽ về, cô cho là thế.
Jenny nuốt vội chỗ thuốc ngủ, đẩy chúng trôi xuống bằng nước từ cái cốc đánh răng bằng nhựa đỏ. Khi tất cả đã nằm trong bụng, cô thoáng lo lắng là liệu mình có uống quá nhiều đến mức không thể giữ chúng lại trong bụng. Nhưng bây giờ chẳng thể làm gì nữa cả. Cô cầm cái vỏ đựng lưỡi dao cạo hai đầu Gillette nằm ở ngăn trên cùng của tủ thuốc, rồi đi xuống cầu thang. Đột nhiên cô cảm thấy muốn để lại lời nhắn nhủ. Cô xé một mẩu giấy từ tập giấy cô hay dùng để để lại lời nhắn cho người giao sữa, tìm một mẩu bút chì, đứng ở kệ bếp và bắt đầu viết:
Robert thân,
Em thực sự yêu anh. Giờ thì yêu theo một kiểu khác và sâu đậm hơn nhiều. Giờ em đã hiểu anh và mọi chuyện. Phải cho tới gần đây em mới hiểu ra anh đại diện cho cái chết, ít nhất đối với em là vậy. Nó đã được định trước. Em không biết mình vui hay nuối tiếc nữa, nhưng em biết rõ phải làm gì…
Cô nhìn lên một góc bếp. Những gì cô vừa viết có vẻ thật trần trụi. Cô nên kết thúc bức thư một cách đẹp đẽ và dịu dàng, để Robert không nghĩ cô giận dữ hay buồn bã, nhưng tất cả những gì cô có thể nghĩ được là “chìm vào đêm đen không đớn đau.”
Jenny mở cửa bếp. Trời đã gần tối. May mắn thay, Susie luôn mất đến mười lăm phút để trang điểm, thay đồ hay gì đó, kể cả khi cô ta nói sẽ vọt đến ngay lập tức, nhưng cô cũng không dám chắc đã bao nhiêu thời gian trôi qua kể từ khi Susie gọi. Cô quay lại, dợm bước vào phòng khách để uống nốt chai Scotch, rồi từ bỏ ý định ấy, thay vào đó đi tới cái giá sách bên dưới máy quay đĩa và lấy chiếc áo len đan dở của Robert, vẫn còn hai que đan thòi ra khỏi ống tay áo. Với nụ cười thanh thản trên môi, cô cầm tấm thiệp “Ác Quỷ Sa Đọa” và mang nó cùng cái áo len ra ngoài. Khi cửa bếp đóng sập vào thì nó cũng tự khóa lại. Giờ căn nhà đã khóa kín, chìa khóa ở trong nhà, và cô sẽ không bao giờ đi vào đó nữa. Jenny cẩn thận đi bên rìa mép cỏ cạnh đường lái xe vào nhà, vì ở một chỗ nào đó, không hiểu sao cô đã cởi đôi giày ra. Các hòn sỏi nhỏ làm đau chân cô, nhưng chẳng mấy chốc đã tới cánh đồng cỏ rậm rạp, vừa có cỏ xanh rì vừa cỏ có khô rang. Robert đã đứng ngoài này. Cô quay lại để nhìn cửa sổ phòng bếp của mình, ô cửa mà anh hay nhìn. Các cánh cửa chớp tạo thành hai khoảng tối hình chữ nhật, được ánh sáng viền quanh. Rồi cô đi tiếp cho tới khi đã hoàn toàn ra khỏi vùng sáng do ánh đèn trên tầng nhà phát ra. Có vẻ như cô đã bật toàn bộ đèn trong nhà. Trong túi áo bên trái, cô sờ thấy hộp giấy đựng những lưỡi dao lam. Cô hẳn đã lấy chúng ra khỏi tủ thuốc mà chẳng nhớ.
Một chiếc xe rẽ vào đường vào nhà. Jenny ngồi thụp xuống giữa đống cỏ cao vút, ép mình trong bóng tối, má chạm vào chiếc áo len trắng, tay phải nắm chặt tấm thiệp chim khiến nó gập lại. Đèn pha ô-tô không rọi vào cô nhưng cô cảm thấy dễ bị phát hiện trong chiếc áo thụng sáng màu. Cô ép mặt vào cỏ, ghét Susie, ghét loài người. Cửa xe Susie đóng sập lại. Cô nghe thấy tiếng cô ta gõ cửa, chỉ đợi đúng một giây, rồi thử mở cửa.
“Jenny à? Tớ, Susie đây! Mở cửa đi!” Rầm, rầm, rầm nện vào cửa.
Cô ta không thể vào nhà, dù là bằng đường cửa sổ, Jenny nghĩ. Hôm nay vào một lúc nào đó, cô nhớ rất rõ là mình đã khóa toàn bộ cửa sổ tầng dưới, muốn nhốt chặt chỗ không khí đã nằm trong căn nhà, không thay đổi.
“Jenny!” Giọng Susie rít lên. Cô ta đang vòng ra phía cửa trước.
Jenny dang rộng cánh tay áp lên tay áo len đang trải ra. Cô, Robert và Cái chết đang ôm ấp mặt đất. Keng, keng, keng. Đó là tiếng cái vòng sắt đập vào cửa trước. Jenny tự hỏi chuyện này sẽ kéo dài bao lâu. Cô nghe thấy một tiếng bing vang lên bên tai và dường như cô đang trượt xuống một thứ gì đấy, êm ru và lao vùn vụt. Hẳn là do thuốc ngủ, cô ngẩng đầu lên và hít thật sâu. Có thể Susie sẽ gọi cảnh sát trước khi thuốc thật sự ngấm. Sao cô lại không tắt hết đèn đi và lái xe đi đâu đó nhỉ? Cô nghĩ hay là nên đi xa ra sau nhà hơn nữa, nhưng cô sợ nếu đứng dậy thì sẽ bị nhìn thấy mất.
“Jenny, Susie đây mà!” Cô ta có vẻ đang gọi vống lên. “Tớ biết cậu có nhà! Cho tớ vào đi! Ra cửa sổ nói gì cũng được, được không?” Rồi một hồi lâu sau. “Jenny, cậu có đang ở một mình không đấy?” Giờ cô ta lại đang nện cửa bếp rầm rầm.
Một con quạ bay ngang qua, kêu thảm thiết. Hơi muộn để có quạ, Jenny nghĩ. Quạ đen xì. Hợp thật.
Giọng Susie lại vang lên, giờ xa xăm hơn vì tai Jenny đang kêu ong ong. Dạ dày cô quặn lên và cô nhìn thấy một sườn núi chẻ đôi, để lộ một hang động được trang hoàng với măng đá và thạch nhũ màu trắng, hồng và hồng sậm, như cá hồi. Có nước, một dòng sông ngầm, cá mù bơi lội bên trong. Cá trắng tinh và không to lắm. Một con thuyền nhẹ lướt trên mặt nước, rồi Jenny thấy mình đang đi trên mặt nước. Đâu đâu cũng tối đen, vậy nhưng cô vẫn có thể nhìn thấy rất rõ ràng. Rồi nước ngập lên trên mắt cá chân của cô, lạnh thấu xương nhưng làm người ta tỉnh táo. Cô chìa tay ra chạm vào một khối thạch nhũ màu hồng ẩm ướt, lạnh băng, chạm vào giọt nước tinh khiết ở đầu thạch nhũ, giữ nó trên đầu ngón tay trong giây lát trước khi nó trôi đi. Jenny! Giọng nói vang lên từ bóng tối mịt mùng ở sâu trong hang động. Jenny lăn sang một bên, cảm thấy mình đang đè nặng xuống mặt đất, như thể trọng lượng cơ thể cô đã tăng lên gấp mười lần, và lấy lưỡi dao cạo ra khỏi túi. Cô bóc lớp giấy ra khỏi lưỡi dao và dùng nó rạch cổ tay trái. Trời quá tối nên chẳng thể nhìn thấy gì, hoặc do mí mắt của cô đang nhắm chặt, nhưng cô có thể cảm nhận dòng màu hâm hấp đang chảy xuống cánh tay giơ lên, và giỏ thổi qua, khiến nó lạnh đi. Cô kéo tay áo phải xuống và nắm lưỡi dao mạnh hết mức có thể, rạch hình chữ thập. Cánh tay của cô gồng lên dưới áp lực ấy. Không tốt lắm, nhưng có vẻ như thế là đủ rồi, và cô ngả đầu xuống, thư giãn. Cô có thể cảm nhận được máu chảy nhỏ giọt xuống hai cổ tay. Chúng thấm đẫm cái áo len trắng. Mùi len xộc vào mũi cô và cô vẫn nhớ rằng khi đan áo, cô vẫn thường áp nó lên mũi, nhắm mắt lại, cho tới khi mùi len dường như trở thành Robert.
Cô nhìn thấy anh chạy lên cầu thang, hai đến ba bậc một lần. Anh mặc quần đen dài, áo sơ mi trắng, hai ống tay áo xắn lên. Anh dừng lại, ngoái ra sau, mỉm cười, rồi lại tiếp tục chạy lên ngày một cao hơn. Jenny khóc rền rĩ, nghe như tiếng em bé. Rồi bóng hình Robert chuyển thành một cậu bé thấp, gầy, mặc quần đùi, một cậu bé tóc vàng dừng lại cười toe toét với cô, để lộ hai chiếc răng cửa to, đó là em trai đã mất của cô.