Điện thoại của Robert reo vài phút trước nửa đêm hôm thứ Ba.
“Ralph Jurgen đây,” giọng nói bình tĩnh vang lên. “Tôi gọi để báo là Wyncoop đã đăng ký ở... ở vài ngày qua dưới tên John Gresham tại khách sạn Sussex Arms ở New York.”
“À? Thế bây giờ cậu ta còn ở đấy không?”
“Không. Cậu ta đã rời đi vào tối Chủ nhật, theo như tôi được biết.”
“À.” Tay Robert nắm chặt điện thoại. “Nickie có biết bây giờ cậu ta ở đâu không?”
“Tôi không biết. Thật đấy. Còn cô ấy có biết thì cũng không nói cho tôi.”
“Tôi hiểu, tôi hiểu. Bao lâu...”
“Nghe này, Bob, tôi phải nhờ anh chuyện này. Tôi không ngại việc anh báo cảnh sát. Vì thế mà tôi mới gọi điện, để anh có thể báo cho họ. Nhưng tôi không muốn tên mình bị nhắc đến là...”
“Chắc chắn rồi. Được,” Robert nói.
“Anh có thể hiểu điều đó mà, đúng không?” “Rất rõ. Đừng lo, Ralph.”
“Đó là tất cả những gì tôi muốn nói. Tạm biệt, Bob.” Robert chậm rãi đặt điện thoại xuống. Anh mỉm cười. Rồi anh vỗ một cái thật to lên trán. “John Gresham! – John Gresham à!” Anh nhấc điện thoại lên và quay số của Jenny. Sau vài hồi chuông, anh dập máy và quay số lại, nghĩ rằng chắc mình đã quay nhầm số nào đó. Vẫn không có ai nghe máy. Anh nghĩ xem có nên gọi cho Susie Escham không, phòng trường hợp cô ta ở đó, rồi quyết định lại thôi. Tin tức có thể đợi tới ngày mai. Robert dập máy, đứng nghĩ ngợi vài giây, rồi nhấc điện thoại lên và gọi cho trụ sở cảnh sát ở Rittersville.
Thám tử Lippenholtz không có mặt. Trước đó Robert không biết anh ta được phân hạng thám tử.
“Tôi có tin nhắn quan trọng cho anh ta,” Robert nói rồi báo lại cho người trực điện thoại những gì Ralph vừa kể.
Người đàn ông trực điện thoại hỏi cậu ta đã ở Sussex Arms bao nhiêu ngày.
“Tôi không biết, nhưng tìm hiểu điều đó cũng dễ thôi. Cứ hỏi khách sạn là được.”
“Người bạn gọi cho anh là ai vậy?”
“Tôi không muốn khai tên anh ấy. Anh ấy đã yêu cầu như vậy.”
“Việc chúng tôi biết điều đó rất quan trọng, anh Forester. Làm sao chúng tôi kiểm tra...”
“Cứ hỏi bên Sussex Arms trông Gresham như thế nào. Kiểm tra thế chưa đủ à?”
“À, không. Người bạn này của anh có thể chỉ nhìn thấy một người trông giống Wyncoop mà thôi. Bạn của anh có quen Wyncoop không?”
“Có. Tức là, tôi chắc chắn anh ấy đã gặp cậu ta – có thể còn nói chuyện với cậu ta nữa.” Nhưng Robert cũng không dám chắc.
Cuộc tranh luận tiếp diễn. Anh có biết tên bạn mình là gì không?
“Đương nhiên là tôi biết, nhưng tôi đã hứa không khai ra. Tôi xin lỗi, nhưng chuyện này không thay đổi được đâu.”
“Anh sẽ giúp chúng tôi và giúp cả chính anh nữa.”
“Nhưng như vậy tôi sẽ không giúp anh bạn ở New York của mình.”
Người đàn ông trực điện thoại cuối cùng cũng đầu hàng với điệu bộ bất mãn, báo sẽ chuyển thông tin cho thám tử Lippenholtz.
Anh ta hẳn đang nghĩ là người bạn của anh ở New York đã giúp Wyncoop ẩn núp, Robert nghĩ. Lippenholtz chắc chắn sẽ nghi ngờ điều đó. Nếu vị thám tử đó kiểm tra Nickie mà phát hiện ra Ralph thì chẳng qua do anh ta đen thôi, Ralph hẳn đã biết về Greg và nơi trú ẩn của cậu ta suốt mười ngày nay.
Robert về giường, và sau vài tiếng đồng hồ không ngủ được, anh ngồi dậy để lấy một viên Seconal. Lọ thuốc không có trong tủ thuốc. Anh quay lên gác để xem có để quên nó trên chiếc bàn đầu giường không, tìm khắp cái phòng ngủ nhỏ xíu, rồi lại đi xuống tìm trong bếp. Cuối cùng, anh lục tung cả phòng khách nữa. Rồi anh đầu hàng. Anh cho là nó sẽ xuất hiện trở lại ở một chỗ lạ lùng nào đó mà anh đã để lại trong một khoảnh khắc lơ đễnh – như trong tủ lạnh chẳng hạn. Nhưng nó cũng không có trong đó. Anh quay về giường.
Mới hơn chín giờ sáng hôm sau, Robert ra hiệu cho Jack Nielson ra ngoài hút thuốc ở hành lang phía sau. Việc hút thuốc là được phép ở các bàn vẽ phác thảo, nhưng để tìm sự riêng tư và có thể trò chuyện với nhau, các nhân viên thích ra hành lang sau nơi có lối thoát hiểm hơn. Hành lang xám xịt, lạnh lẽo và không có chỗ ngồi, nhưng như Jack nói, nó là chỗ duy nhất ở L.A. mà người ta không cảm thấy mình giống như một con cá cảnh. Robert đã kể cho Jack tin tức mà anh mới nghe được tối qua từ Ralph. Anh định tỏ ra hết sức thản nhiên, nhưng trước khi thốt ra câu đầu tiên, anh đã cười toe toét như một thằng nhóc.
“Ai mà ngờ được!” Jack nói, cũng cười. “Khỉ gió, chuyện này chẳng mấy sẽ kết thúc thôi! Cảnh sát sẽ tìm ra cậu ta. Nhất định là như thế. Mà người bạn ở New York này là ai thế?”
“Tôi không được phép nói ra. Anh biết đấy – một người có một công việc khá to đấy. Không muốn bị đưa tên lên mặt báo.”
Jack gật đầu. “Chỉ là vô tình nhìn thấy Wyncoop thôi hay sao?”
“Tôi không rõ. Nhưng tôi chắc chắn điều anh ta nói đáng tin cậy.”
“Tôi sẽ gọi cho Betty ngay lập tức và kể cho cô ấy,” Jack nói.
Mười giờ hơn, Robert được gọi đi nghe điện thoại. Anh đang họp với ông Jaffe và kỹ sư trưởng bộ phận sản xuất ở trong văn phòng của Jaffe thì Nancy gõ cửa báo có tin nhắn. Robert hiểu rõ ông Jaffe ghét bị xen ngang, nên hỏi Nancy có thể lấy số để anh gọi lại sau được không. Cô quay ra ngoài nhưng chưa đầy một phút sau đã trở lại.
“Họ nói là tin khẩn cấp.”
Robert xin cáo lỗi, xấu hổ trước khuôn mặt cau có của ông Jaffe. Không nghi ngờ gì đó là cảnh sát, và ông Jaffe cũng biết điều ấy.
Đó là Lippenholtz.
“Anh Forester, chúng tôi đã điều tra khách sạn Sussex Arms ở New York, và mô tả của họ về John Gresham trùng khớp,” Lippenholtz nói bằng giọng chậm rãi, bình tĩnh đặc trưng. “Tức là, giống với Wyncoop.”
“Tốt. Anh có biết liệu cảnh sát New York có đang tìm kiếm Wyncoop không? Nếu có thì họ nỗ lực đến mức nào?”
“Họ hiện đang tìm kiếm,” Lippenholtz nói. “Nhưng đây chưa phải là một bằng chứng xác đáng, anh Forester. Nếu anh có thể báo cho chúng tôi tên người bạn của anh...”
“Tôi đã giải thích với một người bên anh là bạn của tôi không muốn bị khai tên ra rồi.”
“Cho dù chúng tôi hứa sẽ không đưa nó lên báo à?”
“Kể cả thế cũng không được, tôi chắc chắn đấy.”
Lippenholtz càu nhàu. “Chuyện này có liên quan gì tới vợ anh không? Vợ cũ của anh ấy?”
“Theo tôi biết thì không. Không đâu.”
Lại càu nhàu. “Anh Forester, sáng nay chúng tôi nhận được tin dữ. Ít ra thì chắc là anh chưa nghe tin này. Hay là anh đã nghe rồi?”
“Không. Gì thế?”
“Jennifer Thierolf được phát hiện đã chết vào lúc tám giờ sáng nay bởi...”
“Jenny?”
“Cô ấy đã uống thuốc ngủ quá liều lượng cho phép. Người giao sữa đã phát hiện ra cô ấy trên đồng cỏ sau nhà sáng nay. Theo lời bác sĩ thì cô ấy đã chết được ba đến bốn tiếng. Cô ấy để lại một lời trăn trối đây.”
“Chúa tôi,” Robert nói. “Tối qua tôi đã cố gọi cho cô ấy vào khoảng... khoảng...”
“Có muốn nghe lời trăn trối của cô ấy không?” “Có.”
“’Robert thân. Em thực sự yêu anh. Giờ thì yêu theo một kiểu khác và sâu đậm hơn nhiều. Giờ em đã hiểu anh và mọi chuyện.” Lippenholtz đọc bằng giọng vô cảm. “Phải cho tới gần đây em mới hiểu ra anh đại diện cho cái chết, ít nhất đối với em là vậy. Nó đã được định trước. Em không biết mình vui hay nuối tiếc nữa, nhưng em biết rõ phải làm gì…’ Anh có biết gì về chuyện này không, anh Forester?”
“Về cái gì?”
“Ý của cô ấy là gì. Lần cuối cùng anh gặp cô ấy là khi nào?”
“Thứ Hai. Tối thứ Hai.” “Lúc ấy cô ấy thế nào?”
“Cô ấy có vẻ... tuyệt vọng, tôi đoán vậy. Cô ấy nói không muốn gặp lại tôi nữa.”
“Vì sao?”
“Tôi không biết vì sao trừ phi... trừ phi cô ấy bắt đầu nghĩ rằng tôi... nghĩ rằng tôi đã giết Greg.”
“Anh có vẻ ấp úng hơi nhiều đấy, anh Forester,” Lippenholtz nói một cách gay gắt. “Cô ấy đã uống ba lọ thuốc. Có ba lọ rỗng trong phòng tắm. Anh có biết làm sao cô ấy lại kiếm được ba lọ Seconal không?”
“À... Một lọ cô ấy lấy từ chỗ tôi. Mới tối qua tôi không tìm thấy nó. Tôi cứ ngỡ mình đã đặt bừa ở đâu đấy và không tìm ra. Cô ấy đã kiếm thuốc hộ tôi. Cô ấy bảo là từ bác sĩ của mình. Tôi cho rằng các lọ khác cũng tới từ cùng một nơi.”
“Ba lọ thuốc không có tên bác sĩ hay số toa thuốc trên thân. Chúng khá lớn, là loại là bạn trai của cô ấy sẽ có, và chúng tôi nghĩ chúng tới từ chỗ anh ta.”
“Phải, tôi đoán là có khả năng đấy,” Robert nói một cách máy móc, thầm nghĩ bây giờ chuyện nguồn gốc của mấy lọ thuốc còn gì quan trọng nữa? Anh nhớ là lọ của anh không có nhãn. Vì sao anh không hỏi Jenny chuyện đó nhỉ?
“Còn một chuyện nữa cũng rất thú vị, anh Forester. Cô gái nhà Escham nói Jenny Thierolf đã kể cho cô ấy cách anh quen Jenny. Nhìn trộm nhà cô ấy. Có đúng như thế không?”
“Đúng,” Robert nói.
“Sao trước đây anh không thừa nhận chuyện đó? Có vấn đề gì nào, anh Forester?”
“Không có gì.” “Không có gì à?”
Robert dập máy. Anh dợm bước quay lại phòng phác thảo, đầu cúi gằm, và va trán vào cửa kính xoay. Nancy đang đi vào. Robert bước lùi lại.
“Chào,” Nancy nói.
Robert quan sát cô ta, nhìn bộ mông tròn đầy đặn của cô mất hút nhanh chóng cuối hành lang. Anh lấy tay đẩy cửa kính mở ra, và đi về phía bàn làm việc của mình.
Anh đứng đờ ra đó, cạnh chiếc đèn huỳnh quang, mắt chớp chớp.
“Có chuyện gì thế Bob?”
Tay của Jack Nielson đặt lên cánh tay của anh. Robert nhìn anh ta và nói, “Jenny chết rồi.” “Chết?”
“Thuốc ngủ.” Robert dợm buông mình xuống ghế nhưng Jack đã kéo cánh tay của anh lên và kéo anh ra sảnh tiếp khách.
Jack bấm thang máy. “Chúng ta sẽ đi uống một chút cà phê. Hoặc một thứ gì đó thật mạnh,” Jack nói. “Anh nghe tin đấy từ ai thế?”
“Cảnh sát vừa gọi điện. Chuyện mới xảy ra sáng nay. Lúc sáng sớm.”
Họ lên xe của Jack. Robert chẳng để tâm xem họ đang đi đâu. Rồi anh thấy mình ngồi trong một quán rượu, một cốc cà phê đen cùng một cốc có vẻ là Scotch đặt cạnh đó, Jack cũng cầm một cốc cà phê và ngồi đối diện anh.
“Uống cả hai đi,” Jack nói. “Mặt anh trắng bệch như xác chết rồi.”
Robert nhấp cả cà phê lẫn rượu. Đột nhiên anh nhớ ra mình phải quay lại họp trong văn phòng của ông Jaffe.
Robert vuốt tay xuống mặt, cười, rồi đột nhiên mắt anh ngập nước mắt.
“Cứ tự nhiên đi,” Jack nói. “Kinh khủng thật.”
“Lời trăn trối,” Robert nói giữa hai hàm răng. Tay anh siết chặt giữa hai đầu gối. “Jenny đã để lại một lời trăn trối. Cô ấy nói tôi là cái chết.”
“Gì cơ? Nói lại xem nào?”
“Cô ấy nói, ‘Phải cho tới gần đây em mới hiểu ra anh đại diện cho cái chết,’” Robert thì thào. “Cô ấy lúc nào cũng nói những chuyện kiểu như vậy, nói về cái chết. Tôi đã bao giờ kể với anh rằng cô ấy từng kể cho tôi nghe về cậu em trai đã mất của cô ấy, ra đi năm mười hai tuổi, hoặc tầm tuổi đó, vì viêm tủy. Jenny nói rằng cô ấy đã phải liên tục nghĩ đến cái chết cho tới khi không còn sợ nó nữa. Theo một cách thú vị...” Anh nhìn khuôn mặt cau có, căng thẳng của Jack. “Anh có theo được không? Anh có theo được câu chuyện không?”
“Có,” Jack nói, khá ngập ngừng, giơ một ngón tay lên ra hiệu gọi một cốc Scotch nữa.
“Và lần đầu tiên gặp cô ấy, tôi nhớ cô ấy đã nói, ‘Em không biết anh đại diện cho điều gì, nhưng một ngày nào đó em sẽ biết.’ Đó là lúc tôi... tôi đang đứng ngoài nhà cô ấy. Tôi đã quen cô ấy theo cách đó. Đúng vậy. Tôi đã gặp cô ấy khi đang nhìn trộm nhà cô ấy.” Robert nhắm mắt lại và uống nốt cốc Scotch.
Jack cau mày, bối rối, như thể câu chuyện anh nói thật vô lý. “Bằng cách rình mò quanh nhà cô ấy à? Ý anh là gì?”
“Thế đấy. Rồi một ngày cô ấy bắt gặp tôi. Một buổi tối. Đó là cách chúng tôi quen nhau. Đừng nói là anh chưa nghe chuyện đó. Greg...”
“Rồi,” Jack nói. “Tôi đoán là Greg. Một cuộc điện thoại ẩn danh mà tôi nhận được – cách đây chừng một tháng. Tôi không biết có nên đề cập chuyện đó với anh hay không, nên đã không nói gì.”
“Vậy là anh cũng đã nghe rồi.” Robert cười vội và chạm vào cốc Scotch mới đem ra. Anh tự hỏi làm sao Greg tìm hiểu được việc Jack là bạn của anh. Có thể là qua Jenny. Thế nhưng chuyện đó có gì quan trọng nữa?
“Người gọi điện thoại nói rằng anh ta là một người bạn của Greg,” Jack kể. “Anh ta bảo là anh ta nghĩ tôi nên biết anh bạn Bob Forester của tôi là một... một thằng điên và nhìn trộm qua cửa sổ nhà các cô gái, rình họ thay đồ, và đó là cách anh quen Jenny Thierolf. Tôi nhớ mình đã nói ‘Cút mẹ mày đi’ và dập máy. Tôi đã nghĩ chắc chắn đó là một người bạn của Greg và ừm, cũng nghĩ trong hoàn cảnh đó, Greg đang lan truyền tất cả những câu chuyện có thể chống lại anh.”
“À, đó là sự thật. Chỉ có điều tôi luôn quan sát Jenny trong bếp. Nấu ăn. Cô ấy khiến tôi...” Anh không thể nói thêm gì nữa, không phải do cảm xúc của anh đang dồn nén đến mức tuôn trào. Anh cảm thấy rất bình tĩnh, thậm chí là tê liệt.
“Như thế nào?” Jack hỏi thêm.
Robert hít vào và nhìn khuôn mặt dài, nghiêm túc của Jack. Biểu cảm của Jack vẫn đầy vẻ bối rối, thậm chí là hơi cảnh giác. “Mùa đông năm ngoái tôi đã rất tuyệt vọng, và cô ấy khiến tôi cảm thấy khá hơn. Cô ấy trông rất hạnh phúc. Tôi đã thấy Greg đến thăm cô ấy vài lần và tôi nghĩ... cô ấy là một thiếu nữ hạnh phúc chuẩn bị kết hôn. Tôi đã thề là sẽ không quay lại nhìn cô ấy nữa, và rồi tôi vẫn quay lại. Tôi đã đến chỗ ấy phải sáu hay tám lần gì đó. Cuối cùng thì đến một buổi tối, cô ấy cũng bắt gặp tôi. Tôi đã xin lỗi, dù đúng là nghe có vẻ kỳ cục thật. Tôi cứ tưởng cô ấy sẽ gọi điện báo cảnh sát, nhưng không. Cô ấy đã mời tôi uống cà phê.” Robert nhún vai và mỉm cười. “Anh có thể nói là cô ấy đã rất hạnh phúc cho tới khi gặp tôi. Cho tới khi cô ấy quyết định rằng tôi đại diện cho cái chết.”
Jack vội vã lắc đầu, vò chỏm tóc ngắn ngủn trên đỉnh đầu. “Nhưng tôi biết rõ là cô ấy yêu anh. Ai cũng thấy được điều đó. Còn khi tôi nghe anh kể thì chuyện này như một điều hoang đường vậy. Anh có đang kể sự thật cho tôi không, Bob, về vụ nhìn trộm đấy? Ý tôi là, ngắm nghía?”
“Có. Nó là sự thật.”
“À” – Jack ngồi lùi ra sau, nhấp một ngụm từ cốc nước cạnh cốc cà phê của mình – “anh không cần kể cho ai khác về chuyện đó đâu. Nếu tôi là anh thì tôi sẽ không kể. Cần gì phải làm vậy?” Jack tập trung châm một điếu thuốc lá.
Robert cảm giác thấy thái độ của Jack đối với anh đã thay đổi, một cách triệt để và vĩnh viễn. Những người nhìn trộm qua cửa sổ nhà người khác là những tên biến thái – dù họ quan sát phụ nữ thay đồ hay rán gà đi nữa. “Tôi vừa khai với cảnh sát rồi,” Robert nói.
“Ôi trời. Có chuyện quái gì vậy? Nó thì có liên quan gì đến Greg đâu? Greg còn sống. Nếu anh...” Jack ngừng lại.
Một khoảng im lặng. Cả hai đều không nhìn nhau. “Tôi có thể hỏi anh một câu hơi riêng tư không?”
Jack hỏi.
“Được.”
“Anh đã bao giờ lên giường với Jenny chưa?” “Chưa,” Robert trả lời. “Sao vậy?”
“Vì tôi cho rằng điều đó sẽ khiến chuyện tình cảm giữa hai người trở nên mãnh liệt hơn nhiều. Đối với cô ấy. Cô ấy còn quá trẻ. Cô ấy yêu anh say đắm, không phải sao?”
“Tôi cho là thế. Lúc nào... tôi cũng cố thể hiện rõ ý mình. Tôi không phải đang cố gắng biện hộ cho bản thân đâu, Jack...”
“Tôi hiểu.”
“Nhưng tôi phải biết trước mới đúng. Phải tỉnh táo hơn. Tôi đáng ra không bao giờ nên để cô ấy gặp lại mình sau lần ấy, buổi tối đầu tiên ấy. Thật sự tôi không hề muốn gặp lại cô ấy nhưng cô ấy đã chủ động tìm tôi. Cô ấy đã tới nhà máy, tìm xe của tôi, rồi lần theo tôi về nhà.” Robert nhắm mắt lại, chán ghét chính giọng nói và ngôn từ của mình.
“Rồi chuyện gì đã xảy ra?”
“Cô ấy ngủ lại qua đêm. Rượu ảnh hưởng đến đầu óc của cô ấy, tôi nhớ là chỉ có hai cốc thôi, và cô ấy không muốn về nhà nữa nên đã ngủ lại trên tràng kỷ ở tầng trệt của tôi. Việc đó diễn ra thêm vài lần nữa và tất nhiên, Greg để ý thấy cô ấy không về nhà. Rồi đến đoạn Greg tấn công tôi. Anh hiểu chứ Jack?”
Jack chậm chạp gật đầu.
“Đáng ra tôi phải đoạn tuyệt hẳn, nhưng lại không. Tôi đã kiên quyết yêu cầu chúng tôi gặp nhau bớt lại, nhưng vẫn không cắt đứt hoàn toàn. Jenny trông rất rầu rĩ. Nhưng đã có lúc tôi ngừng hẳn, hồi tôi còn sống ở Langley, trước khi chuyển sang ngôi nhà mới. Tôi đã bảo là không muốn gặp lại cô ấy nữa, tốt nhất là chúng tôi không gặp lại nhau. Tôi còn cố gắng khuyên nhủ cô ấy cưới Greg.”
“Sau đó thì sao?”
Robert đang tì trán vào lòng bàn tay. “Sau đó... vài tuần sau đó cô ấy tới nhà máy và đi theo ô-tô của tôi về nhà tôi.”
“Tôi hiểu rồi.”
Jack có hiểu thật không? Tôi chưa từng đưa ra bất kỳ một hứa hẹn nào, Robert muốn nói vậy nhưng câu than thở biện hộ đấy khiến anh thấy xấu hổ. “Tôi nên quay lại thôi,” Robert nói, đưa tay tìm tiền.
“Hôm nay đừng quay lại nữa, đừng ngớ ngẩn thế,” Jack nói. “Gọi điện báo cho ông Jaffe đi. Hoặc tôi sẽ thay anh báo cho ông ta.”
“Không, tôi sẽ đối mặt với Jaffe.”
Robert đối mặt với Jaffe bằng một câu tuyên bố cụt lủn về một “khủng hoảng cá nhân,” được nói ra một cách thẳng thừng và cứng nhắc, như một người không còn gì để mất. Robert dám chắc là anh cũng đã mất việc, và đoán chừng việc đúng đắn phải làm bây giờ là gửi thư xin thôi việc.
Đến trưa, Robert đã về nhà. Anh cởi áo khoác, cà vạt, và ngã xuống tràng kỷ đỏ. Anh nằm đó vài tiếng đồng hồ, cho tới khi hoàng hôn bắt đầu buông xuống. Anh không ngủ, vậy nhưng dường như cũng chẳng có gì nán lại trong tâm trí anh hết, kể cả những sự kiện và những câu đối thoại nhàm chán lặp đi lặp lại thường quấy nhiễu anh. Anh cứ như đã chết và cảm thấy những giờ đồng hồ như thế này giúp cho một người sống biết rất nhiều về cái chết. Anh lái xe tới Langley để mua báo. Anh mua cả tờ Inquirer lẫn tờ Gazette của Langley. Chuyện về Jenny nằm trên trang nhất cả hai tờ, và tờ Gazette còn có ảnh chụp. Robert đọc lướt qua các bài báo khi ngồi trong xe. Jenny đã chết, vẫn ôm áo len của anh trong vòng tay và một tay cầm tấm thiệp “Ác Quỷ Sa Đọa.” Lời trăn trối được in đầy đủ bằng chữ nghiêng. Được đặt giữa bài báo, nó nghe đậm chất thơ, bi kịch, vậy nhưng cũng có phần không thật. Trên trang hai của tờ Gazette là một bức hình của Susie Escham, mắt nhắm nghiền, nước mắt tuôn rơi, miệng há hốc, kể lại chuyện đã đến thăm Jenny trước mười giờ tối qua nhưng không được đón tiếp. Susie còn kể rằng Jenny “cách đây ba ngày đã thừa nhận là cô ấy gặp Robert Forester vì anh ta nhìn trộm nhà cô ấy. Đó cũng là những gì Greg Wyncoop vẫn kể. Tôi nghĩ Jenny sợ Robert và đó cũng là lý do cô ấy tự tử.” Robert nghiến răng và khởi động xe.
Điện thoại reo khi anh vào nhà. Anh không nghe máy. Anh ngồi xuống và chăm chú đọc kỹ cả hai tờ báo. Cả hai đều kể lại vụ ẩu đả giữa Forester và Wyncoop tối thứ Bảy, ngày mười sáu tháng Năm, và kể rằng Wyncoop đã mất tích được mười ngày. Tất nhiên, cũng thừa thời gian để báo chí đăng tin có người đã nhìn thấy Wyncoop ở New York, nhưng rõ ràng là câu chuyện đó không được coi là đủ tin cậy để đi in.
Điện thoại lại reo. Anh đoán là mình không thể tiếp tục lờ nó đi. Nếu là cảnh sát thì họ đã ghé qua tìm anh luôn rồi.
“Xin chào,” Robert khàn giọng nói. “Bob, tôi là Naomi Tesser.”
Robert cứng người lại. “Chào cô.”
“Chúng tôi vừa mới đọc báo, Dick và tôi. Và tôi... Anh thế nào, Bob?”
“Tôi thế nào à?”
“À, tôi có thể hình dung được. Bọn tôi đều rất sốc với chuyện này. Jenny là một cô gái có hơi kỳ quặc, thất thường, thỉnh thoảng có phần u uất, chúng ta đều biết điều đó.”
Anh chờ đợi.
“Trong lúc đó... có tin tức gì về Greg không?”
“Greg,” Robert nói. “Có người bảo đã thấy anh ta trong một khách sạn ở New York cách đây vài ngày.”
“Thật à? Ai nhìn thấy vậy?” “Tôi không biết.”
“À, tôi biết đây không phải là một thời điểm tốt để nói chuyện với anh.”
“Đúng là không.”
“Và... trời ạ, cô nàng Susie Escham đó chỉ đổ thêm dầu vào lửa thôi phải không?”
“Nếu cô đang nói về những gì cô ta kể về cách chúng tôi gặp nhau... thì nó là sự thật.”
“Sự thật? Ý anh là, điều Greg nói cũng là sự thật?” “Phải, và tôi quá mệt mỏi khi phải nói dối về chuyện đó rồi. Mục đích của cuộc gọi này là gì vậy?”
“Nhưng... ý anh là, đó là lý do Jenny sợ anh à?” Nỗi sợ hãi mới, thái độ mới của Naomi, ăn khớp với niềm tin anh đã giết chết Greg của cô ta. “Phải, tôi cho một phần là do thế. Cô có phiền nếu tôi dập máy bây giờ không, Naomi? Thế nhé? Cảm ơn cô.” Anh dập máy chặn tiếng “Chờ đã!” của cô ta.
Tin tức chẳng mấy chốc sẽ được lan truyền, anh nghĩ. Cả việc anh gặp gỡ Jenny khi đi nhìn trộm cô, lẫn việc có người đã thấy Greg trong một khách sạn ở New York, nhưng tin tức đầu tiên sẽ lan đi nhanh hơn và ở lại lâu hơn. Anh uống hai viên aspirin và pha một bình cà phê mới.
Một cuộc điện thoại từ Jack và Betty Nielson lúc chín giờ. Họ muốn biết anh có khỏe không, có muốn qua nhà họ ngủ lại không. Robert cảm ơn và từ chối. Rồi Nickie gọi. Cô ta bộc lộ sự thương cảm trước cái chết của Jenny, nghe có vẻ khá nghiêm trang, trừ tông giọng sặc mùi châm biếm. Và nó chẳng tác động được tới anh. Anh nghe máy, trả lời một cách lịch sự và dừng lại, giữ điện thoại.
“Không còn gì để nói à, Bobbie? Anh còn ở đó không? Thôi nào, Bobbie, không nói chuyện nữa à? Chắc là cảm thấy tội lỗi chứ gì?”
Anh nhẹ nhàng dập máy. Rồi anh lại nằm xuống chiếc tràng kỷ đỏ. Giờ anh đang mặc đồ ngủ và áo choàng ngủ, cơn đau đầu đã trầm trọng hơn, giấc ngủ xa ngoài tầm với, và anh muốn trì hoãn những giờ đồng hồ mệt mỏi khi nằm chong chong trên chiếc giường trên gác. Báo chí cũng viết ngày mai bố mẹ của Jenny sẽ tới nhận thi thể. Anh nghĩ đến cảnh họ chửi mắng và trách tội mình.
Đó là một đêm chết chóc. Robert nằm lỳ trên giường khoảng một tiếng đồng hồ rồi mò xuống bếp, cố uống một cốc sữa nóng pha Scotch để có thể chìm vào giấc ngủ. Còn chưa đến nửa đêm. Anh đứng tựa lưng vào tủ lạnh, một tay cầm cốc sữa, nhấm nháp chậm rãi. Rồi khi anh mang cốc tới chỗ bồn rửa thì có một tiếng nổ vang lên ở trước cửa nhà. Robert nằm phịch xuống sàn. Anh bất động như thế trong giây lát, mắt mở to. Anh nghĩ đó hẳn là một tiếng súng chứ không phải tiếng pháo hay tiếng động cơ xe. Anh cho là có kẻ đang di chuyển xung quanh căn nhà ngay lúc này, hẳn đang nhìn vào một ô cửa sổ khác để xem phát súng đã bắn trúng anh chưa, có thể là qua ô cửa sổ bếp ngay sau lưng anh. Không cử động, anh thử cảm nhận xem mình có thấy đau ở đâu, có chỗ nào chảy máu không. Vì sao anh lại nằm phịch xuống sàn nhỉ? Phản xạ nhờ huấn luyện trong quân ngũ chăng?
Robert không nghe thấy tiếng động nào bên ngoài. Anh từ từ nhổm dậy, một tấm bia sống trong căn bếp sáng trưng với hai cửa sổ. Anh tắt công tắc đèn cạnh cửa rồi đi vào phòng khách tối om. Không có ánh sáng trong phòng ngủ trên gác. Các ô cửa sổ đen kịt vì phải cách đó vài thước mới có ánh đèn đường. Robert đi ra chỗ cửa sổ trước, nép sang bên phải, nơi viên đạn hẳn đã xuyên qua. Từ đây nhìn vào bếp, anh có thể thấy bóng tủ lạnh trắng lờ mờ. Cửa sổ phòng khách mở ra khoảng mười centimet. Robert khom người và nhìn ra ngoài. Tất cả có vẻ im lìm và tối om. Các lùm cây tròn đen thui, một bóng cây cao lớn đen thui – và cả những thứ mà anh hẳn không thể nhìn thấy nếu không biết trước là có mặt chúng ở đó.
Anh tự hỏi là Greg hay là một trong những người bạn của cậu ta? Robert bật đèn phòng khách lên và chậm rãi đi về phía bàn cà phê để hút một điếu thuốc. Anh cho là mình nên báo cảnh sát nếu thật sự có một phát súng. Anh vào bếp và cố tìm vết đạn. Cửa tủ lạnh không có gì. Robert nhìn hai bên tường rồi cả tường phòng khách gần bếp. Không có gì. Anh nhấc điện thoại lên, gọi tới đồn cảnh sát Rittersville và báo cáo sự việc. Người trực điện thoại nghe giọng có vẻ rất bực bội. Anh ta hỏi Robert có thấy vết đạn bắn nào không, rồi lại hỏi anh có chắc đó là tiếng súng không. Robert trả lời là có.
Viên sĩ quan nói sẽ cử người qua. Nhiều hơn những gì Robert mong đợi.
Khoảng một tiếng sau, hai sĩ quan cảnh sát tới nhà anh. Họ hỏi Robert khoảng thời gian có tiếng nổ súng – nửa đêm, anh nghĩ thầm – và từ đâu. Robert chưa chạm vào ô cửa sổ mở hé. Nhưng họ không thể tìm được viên đạn. Theo lý thì nó phải bắn trúng tủ lạnh hoặc trần nhà, nhưng không có một vết đạn nào cả.
“Trong một đêm yên tĩnh thì tiếng khởi động xe nghe cũng khá to, anh biết đấy,” một viên sĩ quan nói.
Robert gật đầu. Anh nghĩ có kể với họ chuyện anh tin chắc rằng chính Greg đã nổ súng cũng chẳng ích gì nếu họ không thể tự mình suy luận ra. Hai viên sĩ quan có vẻ biết anh là ai. “Anh là gã Forester quen cô Thierolf đó,” một người đã nói khi vừa bước vào nhà. Chắc phải Lippenholtz mới liên hệ Greg với vết súng bắn được, Robert nghĩ thầm. Có thể. Hai người này trông giống những gã cảnh sát quen tới hiện trường cho có lệ khi có người than phiền về tiếng động lạ.
“Các anh có biết liệu ngày mai thám tử Lippenholtz có ca trực không?” Robert hỏi.
“Lippy à?” Viên sĩ quan nhìn bạn mình.
“Tôi nghĩ là có đấy. Tầm chín giờ? Hay tám giờ?” Hai viên sĩ quan bỏ đi.
Robert về giường, giờ không còn quan tâm đến chuyện ngủ nghê nữa. Buổi đêm chẳng còn mấy.
Sáng hôm sau, với một cốc cà phê trong tay, anh quan sát căn bếp dưới ánh sáng ban ngày. Anh kéo bát salad dịch lên phía trước, tới chính giữa nóc tủ lạnh, và rồi anh thấy viên đạn, nằm gọn trong cái bát gỗ sẫm màu. Nó hẳn đã đẩy cái bát sát vào tường, Robert nghĩ thầm và anh nhớ tối qua một trong hai cảnh sát đã cầm cái bát để nhìn vào bức tường sau lưng nó rồi đẩy cái bát lại. Giờ thì anh đã tìm thấy viên đạn rồi nhé. Robert rút viên đạn nhưng nó không chịu rời ra.
Anh đặt cái bát lên cái ghế cạnh mình trong xe rồi lái tới Rittersville. Một cảnh sát giao thông chỉ đường cho anh tới trụ sở chính. Robert thấy một viên sĩ quan ngồi sau chiếc bàn trong một căn phòng rộng cửa. Anh khai tên và phải đánh vần cho ông ta viết lại. Rồi ông ta nhìn cái bát kỹ càng và thản nhiên bình luận, “Ba hai.”
“Khi nào thì Lippenholtz đến ca?” Robert đã hỏi thăm anh ta khi mới bước vào. Lúc đó là tám rưỡi.
“Tôi không biết,” viên sĩ quan nói. “Bất kỳ lúc nào từ bây giờ cho tới mười hai giờ. Anh ta ra ngoài làm nhiệm vụ.”
“Cảm ơn.” Sau đó anh ra ngoài, để lại cái bát salad bằng gỗ trông đậm chất gia đình trên bàn viên sĩ quan. Tang vật A. Tang vật B có thể là chính anh, anh nghĩ.
Greg hẳn cũng nghĩ đã bắn trúng anh với phát súng ấy. Robert đã nằm phịch xuống sàn, nằm im suốt vài phút. Cậu ta hẳn đã nhìn qua cửa sổ, chờ vài giây rồi bỏ chạy. Robert không nghe thấy tiếng ô-tô. Có thể là Greg không có xe. Cậu ta khó mà kiếm nổi một cái xe, trừ phi đánh cắp và chuyện đó cũng rất nguy hiểm. Nickie, tấtnhiên, có thể cho cậu ta mượn nhưng anh không nghĩ cô ta ngu như thế. Cũng có khả năng là một người bạn của Greg đã nổ súng, Charles Mitchell ở Rittersville chẳng hạn. Nhưng khả năng cao là chính bản thân Greg. Ngoài cậu ta ra, còn ai giận dữ đến mức muốn giết anh nữa?