Ngày hôm ấy Robert không có tâm trạng để làm việc, cả ngày hôm sau và hôm sau nữa cũng vậy, anh biết. Khi lái xe từ Rittersville tới Langley, Robert quyết định rằng sáng hôm ấy anh nên vào nói với ông Jaffe về chuyện nghỉ việc. Anh sẽ viết một bức thư theo đúng quy định. Anh cũng sẽ viết một bức nữa để xin lỗi cho ông Gunnarote ở Arrobrit, Philadelphia. Và sau đó tất cả mọi người sẽ nghĩ anh thoái ẩn vì cảm giác tội lỗi, anh cho là vậy, cứ kệ họ thôi. Đến sáng nay, Naomi Tesser hẳn đã kể cho ít nhất một tá người chuyện anh quen Jenny Thierolf bằng cách nhìn trộm nhà cô, và những người này sẽ lại đi loan tin cho nhiều người nữa. Đến giờ này thì câu chuyện ấy đã u ám không sao chịu đựng nổi với Robert, nhưng nó hẳn vẫn còn mới mẻ và thú vị với những kẻ khác. Hoặc nó sẽ chứng thực một tin đồn mà mọi người đã nghe đến hoặc nó sẽ là một tin chẳng biết từ đâu bung ra, nhưng giờ nó sẽ là một sự kiện có thực, vì chính Robert Forester cũng đã thừa nhận.
Anh đến Langley Aeronautics muộn tầm mười, mười lăm phút gì đó, và tất cả các bàn đều đã có có người ngồi khi anh bước vào. Rất nhiều người ngẩng đầu lên, Robert nói “Chào buổi sáng” hoặc “Xin chào” với vài người. Anh cảm thấy bớt ngượng nghịu hơn so với sáng hôm qua, hơn tất cả các buổi sáng tính từ thứ Ba tuần trước. Anh thấy Jack Nielson nhỏm dậy khỏi chỗ bàn làm việc và tiến về phía anh. Robert cởi áo khoác, vắt nó lên tay và mở tủ khóa của mình.
Jack quan sát anh với vẻ lo lắng. Anh ta ra hiệu đi về hành lang sau công ty.
Robert lắc đầu. “Tôi muốn nói chuyện với ông Jaffe,” anh nói nhẹ nhàng khi Jack tới. Tất cả những người ở bàn xung quanh đều cúi gằm đầu xuống. “Tôi không biết vì sao mình lại cất cái áo khoác này đi nữa.”
“Bảo ông ấy là anh muốn xin nghỉ hết tuần nhé,” Jack nói. “Chúa ơi, điều đó cũng dễ hiểu mà.”
Robert gật đầu. Anh lại quay về phía bàn của mình, đi về hướng văn phòng của ông Jaffe.
“Bob.” Jack lại tới bên cạnh anh. Anh ta thì thầm, “Tôi nghĩ có một cảnh sát mặc thường phục đã ở đây cách đây vài phút. Tôi đã thấy anh ta nói chuyện với ông Jaffe trong hành lang. Tôi cũng không chắc, nhưng...” Anh ta ngừng lại.
“Được rồi. Cảm ơn.” Đột nhiên Robert cảm thấy buồn nôn. Anh thả áo khoác xuống lưng ghế của mình.
“Có vấn đề gì thế? Anh ổn chứ?” Jack hỏi. “Tôi ổn,” Robert nói.
Giờ thì người ta đang ngẩng đầu lên nhìn họ.
“Nếu hôm nay anh xin nghỉ thì hãy đi uống cà phê ở Hangar hay đâu đó trước khi rời đi nhé.”
“Chắc chắn rồi,” Robert nói và vẫy tay chào, đi về phía văn phòng của ông Jaffe. Anh liếc nhìn sảnh tiếp khách và qua bức tường kính, anh thấy Lippenholtz, mặc một bộ vest màu xám sáng và mũ tiệp màu, đang bước ra khỏi thang máy. Anh ta cũng nhìn thấy anh ngay lập tức và hất đầu về phía sau ra hiệu cho anh. Lippenholtz dừng lại, rõ ràng là đang đợi anh. Robert mở cửa kính ở cuối hành lang.
“Anh đây rồi,” anh ta nói. “Vẫn đi làm hở?”
“Anh muốn gặp tôi à?” Robert hỏi.
“Đúng vậy. Ngồi xuống nhé?” Anh ta ra hiệu vào chiếc ghế xô-pha màu xanh lục, cỡ dành cho hai người rưỡi, gần thang máy.
Robert không muốn ngồi xuống nhưng vẫn vô thức làm theo.
“Tôi đã nghe nói về vụ nổ súng,” Lippenholtz nói. “Có vẻ anh không bị thương.” Anh ta hút thuốc lá.
“Không. Sáng nay tôi đã tìm thấy viên đạn. Cỡ ba hai. Có thể anh đã nghe tin.”
“Không, tôi không nhận được gì.”
Robert tả lại chỗ đã tìm thấy nó và nói đã mang bát salad tới sở cảnh sát ở Rittersville. Lippenholtz có vẻ hứng thú nhưng cũng chẳng để tâm. “Anh có vô tình biết liệu Wyncoop có giấy phép sở hữu súng không?” Robert hỏi. “Không hẳn là cậu ta cần giấy phép mới có súng nhưng...”
Lippenholtz im lặng đánh giá khuôn mặt của Robert trong vài giây. “Không, Wyncoop không có giấy phép đó. Tôi vẫn nhớ điều này khi kiểm tra các thông tin về cậu ta. Tôi cho rằng anh nghĩ Wyncoop đã nổ phát súng đó?”
“Tôi cực kỳ nghi ngờ là như thế.”
“Anh Forester này, tối qua một thứ vô cùng đáng quan tâm khác cũng đã xuất hiện. Chúng tôi đã cố tình không đăng nó lên báo sáng nay. Xác của Wyncoop đã dạt tới Trenton. Ít nhất chúng tôi cũng nghĩ đó là xác của cậu ta. Việc khám nghiệm vẫn chưa hoàn tất.” Lippenholtz nhìn anh và lấy ngón trỏ xoa cái cằm ụ lên của mình. “Vậy trong tình huống này, anh có nghĩ là ai đó có thể đã nổ phát súng đó không? Một trong mấy cậu bạn trẻ trâu máu nóng của Wyncoop chẳng hạn?”
“Anh có bằng chứng gì cho thấy đó là Wyncoop?” Robert hỏi.
“Chưa có bằng chứng nào, nhưng cái xác có cùng chiều cao, tầm mét chín. Không quần áo, chỉ có đúng một cái thắt lưng có mặt khóa cơ bản, không có tên, và một phần quần. Không có tóc, đó là phần tệ nhất. Người khám nghiệm nói cái xác đã chìm trong nước từ mười ngày cho đến hai tuần. Và đã trôi qua vô số mỏm đá, tất nhiên. Hộp sọ bị dập nát. Có thể là do đá nhưng trông có vẻ giống như bị một cú đánh trực tiếp bằng một món đồ cùn hoặc cũng có khả năng là một hòn đá được dùng để làm vũ khí. Anh nói gì về chuyện đó? Họ phát hiện ra cái xác vào khoảng tám giờ tối qua. Một người đang neo thuyền thấy nó va vào trụ cầu.”
Robert nhún vai. “Tôi nói gì bây giờ? Tôi không nghĩ đó là Wyncoop. Anh cũng nói chưa có bằng chứng còn gì.”
“Không, nhưng có hai điểm. Xung quanh đây không có người nào cùng chiều cao đó mất tích hết. Và anh chàng này trông như thể đã bị sát hại.”
Robert cảm thấy có thể dễ dàng giữ được bình tĩnh đến mức kì lạ. “Phải kiểm tra thêm nhiều thứ khác nữa, không phải sao? Như tuổi tác? Họ không xét được điều đó qua xương à? Thế còn... màu mắt của anh ta thì sao?”
“Đừng nói đến mắt,” Lippenholtz nói.
Robert nóng nảy đứng dậy. Anh đoán là cái xác ở tình trạng thê thảm lắm.
“Anh đang đi đâu đấy?”
Robert châm một điếu thuốc và không trả lời. “Không phải bạn gái của anh nghĩ anh đã giết
Wyncoop sao, anh Forester? Không phải đó là lý do cô ta tự tử sao, vì sao cô ta lại nói rằng với cô ta anh là đại diện cho cái chết?”
Robert cau mày. “Ý anh là gì khi nói ‘không phải cô ấy nghĩ’?”
“Tôi chỉ đang hỏi anh là có phải cô ấy nghi ngờ như vậy, tin như vậy không.”
Robert rót một ít nước từ vòi vào cốc giấy, nuốt một ngụm và để cái cốc vào ống xả rác. “Tôi không biết. Tôi biết là bạn bè của cô ấy vẫn cứ nói ra nói vào bên tai cô ấy. Có vài người. Nhưng nó không đúng trọng điểm, không phải sao? Trọng điểm là cái xác đó có phải Wyncoop hay không.”
Lippenholtz nhìn anh, đôi môi mỏng cười yếu ớt. “Và trong lúc đợi anh khám phá ra thì tôi cho là mình sẽ ăn đạn. Có thể là tối nay.”
“À, tôi không nghĩ vậy đâu, anh Forester.”
Robert cảm thấy muốn đấm anh ta. “Tôi tưởng luật pháp phải bắt người có tội. Đừng chọn tôi chỉ vì tiện tay.”
“Anh Forester, đó đúng là những gì chúng tôi nghĩ chúng tôi sẽ làm đấy.”
Robert quẳng điếu thuốc lá vào hộp cát và nhún vai. “Sự thật là, có lẽ ở tù còn an toàn hơn ở nhà tôi đôi chút.” Và rồi anh tưởng tượng đến cảnh người khám nghiệm cuối cùng xác nhận cái xác là của Wyncoop, có thể là hôm nay. Sau đó thì sao? Bao nhiêu năm cho tội ngộ sát? Hay bây giờ họ đã quyết định đó là tội giết người rồi?
“Có muốn vào tù không, anh Forester?”
“Không.” Robert đút hai tay vào túi quần sau. “Đây là trình tự luật pháp nào vậy? Anh luôn hỏi trước mọi người là họ có muốn vào tù không à?”
“Không. Không phải luôn là như vậy. Sao anh không tới nhìn cái xác nhỉ? Nó có thể giúp ích cho việc điều tra.”
“Được thôi,” Robert cũng huyên thuyên đáp lại.
“Đợi tôi đi lấy áo khoác đã.” Robert quay lại phòng phác thảo, ngang qua bàn của mình, rồi phải quay lại vì áo khoác của anh đang nằm trên ghế, không phải trong tủ đồ. Jack nhìn anh dò hỏi và Robert lắc đầu, lấy tay ra hiệu không có gì tốt đẹp. Anh tiến thẳng tới chỗ Lippenholtz.
Anh ta nhìn anh từ đầu tới chân khi họ đợi thang máy. “Sao lại mặc áo khoác dài? Trời có mưa đâu,” Lippenholtz nói. “Mặt trời đang chiếu sáng rực rỡ kìa.”
“Tôi thích áo khoác dáng dài,” Robert nói. Anh nhận thấy Lippenholtz vui như thể đã phá được án.
Họ đi xe cảnh sát đen ngòm của Lippenholtz tới Rittersville. Anh ta nói là mình không ngại chở Robert về L.A., hoặc một cảnh sát tuần tra có thể làm việc đó.
“Anh đã gặp bố mẹ của cô Thierolf chưa?” Lippenholtz hỏi khi họ lái xe.
“Chưa.”
“Không thử đi gặp à?”
“Không.” Robert nói thêm. “Tôi chưa từng gặp họ.” “Những con người tử tế.”
Robert thở dài, giận dữ và khốn khổ.
Ở Rittersville, Lippenholtz đỗ xe lại trong bãi đỗ xe cạnh sở cảnh sát và họ cùng nhau đi vào trong. Búng một ngón tay, Lippenholtz đã đuổi một viên sĩ quan cảnh sát tóc trắng đang đi tháp tùng bọn họ, và ra hiệu cho Robert ngồi xuống một cái bục gỗ ở cuối phòng. Có sáu cái bàn được sơn bóng loáng, nhưng chỉ một cái có xác được phủ một cái khăn màu xám trắng lên. Một sĩ quan cảnh sát canh gác đang đọc báo trong góc và không chú ý tới họ.
“Nó đây,” Lippenholtz nói, nhấc một đầu tấm vải lên, kéo nó ra.
Robert đã chuẩn bị tinh thần nhưng anh vẫn hơi giật mình trước cảnh tượng đó. Cả cằm dưới cũng biến mất. Xương sọ và xương vai đều lộ ra. Lớp da trắng bệch, xước xát, không máu bám dính lấy hộp sọ. Cái xác trông già cỗi như thể đã nằm dưới nước vài năm rồi. “Răng,” Robert nói. “Còn vài cái răng ở...”
Lippenholtz nhìn anh một cách lạc quan. “Phải, chúng tôi đang cố gắng tìm bác sĩ nha khoa của Wyncoop. Không may là ông ta đang tới thăm họ hàng ở Utah. Tệ hơn nữa, ông ta đang đi săn hay làm gì đấy ở đó.” Lippenholtz trông như thể thấy thú vị với sự kiện đó. Anh ta vẫn đang kéo tấm vải ra cho Robert nhìn.
Anh ra hiệu cho anh ta che nó lại. “Nhìn nó tôi không thể nói được gì.”
“Trông anh trắng bệch cả rồi, anh Forester.”
Và anh còn cảm thấy buồn nôn. Robert quay về phía cửa, ngẩng đầu, nhưng điều đó chỉ khiến cái mùi của chỗ này thêm rõ mồn một. Anh chủ tâm bước đi một cách chậm rãi, chứ không vội vã lao ra cửa, để Lippenholtz tới cửa trước.
“Charley, cảm ơn nhé!” Lippenholtz nói với viên sĩ quan ngồi đọc báo và được nhận một tiếng làu bàu đáp trả.
“Anh nghĩ phải mất bao lâu mới liên hệ được với bác sĩ nha khoa?” Robert hỏi.
“Tôi cũng không biết.”
“Không có hồ sơ của cậu ta ở đây à? Không có ai khác lấy chúng được à?”
“Ông ta là một nha sĩ nhỏ ở Humbert Corners. Mọi thứ đều đã được khóa kỹ.”
“Anh có báo cho ông bác sĩ ở Utah biết là chuyện này rất gấp không?”
“Chúng tôi thậm chí còn chưa liên lạc được với ông ta ở Utah. Chỉ mới nói chuyện với họ hàng của ông ta. Ông ta đi đâu đó rồi.”
“Tên ông ta là gì?”
“McQueen,” Lippenholtz trả lời. “Thomas hay Theodore gì đó.” Anh ta vẫn tiếp tục quan sát Robert.
“Anh nghĩ sao về cái xác? Nó dài một mét chín. Cơ thể khá mảnh...”
Robert chỉ nhìn anh ta, cảm thấy nôn nao đến mức không thể nghĩ gì nhiều về câu hỏi đó. Lippenholtz đang theo anh ra ngoài nhưng dừng lại để nói chuyện với một viên sĩ quan ở chân cầu thang và Robert đi vòng ra bãi đỗ xe, nhanh chóng tống khứ vài hớp cà phê ít ỏi mà anh đã uống ban sáng. Anh châm một điếu thuốc khi Lippenholtz xuất hiện, mỉm cười, đi cùng viên sĩ quan.
“Anh đây sẽ lái xe đưa anh về Langley,” Lippenholtz nói, ra hiệu vào viên sĩ quan đô con bên cạnh. Rồi anh ta nói nhỏ nhẹ hơn, “Còn vài câu mà tôi muốn hỏi anh sáng nay, anh Forester, nhưng trông anh không được ổn cho lắm.”
“Những câu hỏi như thế nào?” Robert hỏi.
“À, cứ cho là chúng ta sẽ đợi tới khi nhận được tin từ nha sĩ đi nhỉ?”
Robert nói, “Tôi tự hỏi tối nay mình có thể có cảnh sát bảo vệ được không... Giả như là một người ngồi trong xe trước cửa nhà tôi chẳng hạn?”
“Một cảnh sát bảo vệ à?” Lippenholtz mỉm cười tươi tắn hơn.
“Cách đây vài phút, chính anh đã hỏi tôi có muốn vào tù không. Thật sự thì cử một người đứng gác sẽ ít rắc rối và đỡ tốn kém hơn, không phải sao?”
Lippenholtz ngập ngừng, mỉm cười, rõ ràng là đang cố nghĩ ra một câu nói dí dỏm.
“Tôi không có vũ khí và rõ ràng là kẻ đang cố gắng bắn tôi thì có,” Robert nói.
“Ôi, thôi nào, không phải anh đang làm quá...” “Anh không phải là cảnh sát trưởng ở đồn này, đúng không, thám tử Lippenholtz?” Robert cảm thấy trán mình túa mồ hôi lạnh.
Nụ cười của anh ta tắt ngóm. Hàng lông mày nhạt nhíu lại thành một đường thẳng băng, căng thẳng. “Anh không có tư cách...”
“Có vẻ anh không nghĩ Wyncoop là người đã bắn tôi vì anh không muốn nghĩ như vậy. Chẳng lẽ vì cậu ta không có giấy phép sở hữu súng sao?” Robert bật cười.
Giờ gã cảnh sát đô con đứng cạnh Lippenholtz đang gầm ghè như một con chó chờ lệnh chủ.
Lippenholtz chĩa cái cằm ụ ra. “Nghe này, anh Forester, nếu không cẩn thận, kiểu nói năng như thế sẽ chỉ lôi anh vào những rắc rối lớn hơn. Anh nghĩ mình là ai? Ngay từ đầu anh đã là một kẻ gây rắc rối! Anh đáng phải bị giam vì tội nhìn trộm, anh có biết điều đó không? Và anh cũng chuẩn bị khiến mình bị bắt vì tội giết người. Thế mà anh có thể đứng đó...”
“Phải, chắc chắn là tôi có thể! Thế thì sao?” Lippenholtz giật mình và liếc nhìn người đàn ông đô con đứng cạnh. “Được rồi. Chúng tôi sẽ cử một người tới đó. Anh muốn lúc nào?”
“Lúc nào cũng được. Càng sớm càng tốt.”
“Được rồi,” Lippenholtz cười tự mãn như thể đang chiều theo Robert.
“Tôi có thể trông cậy vào lời anh không? Ít nhất thì tối nay người đó sẽ có mặt chứ?” Robert hỏi.
“Đúng vậy,” Lippenholtz nói.
Robert không chắc là mình có thể tin tưởng anh ta. “Đưa anh ta về Langley nhé,” Lippenholtz nói. Viên sĩ quan nắm lấy cánh tay của Robert và anh giật ra. Rồi anh ta ra hiệu cho anh đi về phía một chiếc ô-tô màu đen và Robert đi theo. Lippenholtz đang quay lại tòa nhà. Có thể là để ngắm nghía cái xác, anh nghĩ.
Trong chuyến đi về Langley, viên sĩ quan im lìm như tượng. Robert hơi thả lỏng. Đây là lần đầu tiên anh tiếp xúc với pháp luật, luật trở nên cứng rắn hơn, và anh luôn nghe nói việc người ta bị đối xử thô bạo và bị mắng nhiếc khắt khe, vậy nên vì sao lại thấy phấn khích vì chuyện đó? Thường thì cảnh sát giao thông cũng hay hành xử như vậy, chỉ có điều vi phạm giao thông là những vấn đề không đáng kể. Anh thấy mừng vì cuối cùng mình cũng đã đáp trả. Và anh biết là có làm vậy cũng không còn gì để mất thêm nữa.
“Anh định đi đâu đây?” Viên sĩ quan hỏi khi họ về tới Langley.
“Langley Aeronautics,” Robert trả lời.
Viên sĩ quan dừng xe ở cửa bãi đỗ và Robert đi vào trong, tiến thẳng về phía xe của mình rồi lái về nhà. Anh sẽ gọi cho Jack Nielson sau. Giờ anh không muốn nói chuyện với ai hết. Anh đã đóng gói đồ đạc gần xong, chỉ còn vài món trong bếp. Vali của anh nằm mở ra trên sàn, đã gần đầy. Đáng ra anh sẽ dọn đi sau hai ngày nữa, vào Chủ nhật, ngày ba mốt, và anh đã định tới một khách sạn ở Philadelphia. Giờ thì tất cả chuyện đó đã bị hủy bỏ, trừ việc chuyển đi vì anh đã hứa với chủ nhà là sẽ ra khỏi nhà vào ngày ba mốt. Và bây giờ cũng không có gì ngăn anh rời đi nữa, anh nghĩ thầm, không điều gì ngoại trừ chút hy vọng bắt gặp Greg, hy vọng mãnh liệt bắt được cậu ta, dù còn sống hay đã chết, và đưa cậu ta tới sở cảnh sát, vì sẽ chẳng ai tin nếu anh chỉ nói suông là mình đã thấy cậu ta. Anh uống rượu Scotch đá để có thể trấn tĩnh.
Anh lại nghĩ tới bố mẹ của Jenny. Cô kể là bố cô làm công việc gì ấy nhỉ? Robert cảm thấy thôi thúc phải viết cho họ một bức thư, cố gắng giải thích – không phải để miễn tội cho bản thân, mà là để giúp cho họ hiểu vì sao chuyện đã xảy ra lại xảy ra. Mà liệu bố mẹ cô có thèm để tâm đến lý do không? Chẳng phải cái chết mới là điều duy nhất quan trọng, điều duy nhất cần bận tâm hay sao? Tang lễ của Jenny sẽ diễn ra vào ngày mai, anh đã đọc được trên báo ở Scranton như vậy.
Robert bật dậy trước tiếng gõ kèn kẹt bên ngoài cửa sổ trước. Anh vội vã đi về phía đó và đứng nép sang một bên. Ánh sáng chói lóa khiến anh phải khép hờ mắt lại. Rồi anh thấy bên dưới thùng thư, một con chó nâu đốm trắng, có vẻ là giống collie, đang thong dong dạo bước, mũi chúi xuống đất đánh hơi. Robert nhớ là trước đây mình đã từng nhìn thấy con chó đó đi lại xung quanh. Thôi thúc trào dâng, anh mở cửa trước và huýt sáo gọi nó. Con chó dừng bước và quay người lại, tiến một bước về phía Robert rồi lại dừng lại, ngập ngừng. Anh lại huýt sáo, bước ra ngoài hiên và khom người xuống.
Rồi, đầu và bụng hạ thấp, đuôi ngoe nguẩy, con chó chậm rãi tiến về phía Robert. Anh vỗ vỗ đầu nó, thấy biết ơn sự thân thiện của con chó.
“Chó ngoan. Mày có đói không?” Một câu hỏi hay ho làm sao, Robert nghĩ. Xương sườn của con chó hiện ra rõ mồn một qua lớp lông dài.
Anh vào bếp, tìm thấy chút thịt steak còn lại trong tủ lạnh, và mở một hộp thịt bò băm trộn ngô ra. Con chó vẫn đang đợi ngoài hiên, rụt rè không dám vào nhà, Robert cho đồ ăn vào đĩa và mang ra hiên. Con chó ngấu nghiến chỗ thức ăn ấy, xương sườn bạnh ra, thỉnh thoảng nó lại ngước lên nhìn anh, có thể là thấy nghi ngờ mà cũng có thể là thấy biết ơn. Robert mỉm cười, hài lòng khi thấy nó ăn. Rồi con chó đi vào nhà. Cả buổi chiều, nó ngủ say giấc, thức dậy khi anh di chuyển, đi theo chân anh như thể sợ anh bỏ đi. Robert nhận ra nó là chó cái.
Lúc năm giờ, Robert ra ngoài mua báo và gọi con chó ra ngoài, nghĩ là mình không nên nhốt nó lại nếu nó có nhà để về.
Lippenholtz có thể đã chặn báo chí đăng tin về cái xác sáng nay, nhưng giờ thì nó đã nằm chình ình trên báo buổi tối, ngay trang nhất. “Cơ quan chức năng đang đợi xác nhận cuối cùng từ nha sĩ của Gregory Wyncoop, bác sĩ Thomas McQueen ở Humbert Corners, người đang tạm thời rời khỏi thị trấn.” Xác nhận “cuối cùng,” như thể họ đã có cả tá thực tế khác xác nhận cái xác thuộc về Gregory Wyncoop vậy.
Con chó đang đợi trên hiên và nó rên rỉ khi Robert bước lên thềm. Anh đã định dừng lại ở cửa hàng tạp phẩm để mua ít đồ ăn cho chó nhưng rồi quên béng mất. Anh cho nó vài quả trứng sống và một bát sữa, rồi luộc hai quả trứng cho mình.
Rồi điện thoại reo.
Màn đêm sắp buông xuống. Robert mệt mỏi nhìn quanh ba cửa sổ ở phòng khách nhà anh, nghĩ ít nhất thì cũng phải kéo rèm xuống và làm ngay lập tức, vì anh chưa thấy dấu hiệu cho thấy cảnh sát bảo vệ hay xe cảnh sát trên đường ra ngoài mua báo hết. Anh nhấc điện thoại lên.
“Lippenholtz đây,” giọng nói cộc lốc vang lên. “Bác sĩ McQueen sẽ quay lại đây vào chiều thứ Bảy. Nghĩ là anh muốn biết chuyện đó.”
“Cảm ơn. Tốt.” Chiều thứ Bảy còn cách khoảng bốn mươi tám tiếng nữa.
“Tối nay vẫn ở nhà chứ?”
“Phải,” Robert nói. “Anh đã cử người tới bảo vệ nhà tôi chưa?”
“À, rồi. Anh ta sẽ tới đó sớm thôi.”
“Cảm ơn,” Robert nói thẳng toẹt. “Tôi hy vọng là như vậy.”
“Thế nhé,” Lippenholtz nói và dập máy.
Robert kéo toàn bộ rèm xuống và bật đèn bàn viết lên. Trứng đang sôi. Anh tắt bếp đi rồi đứng ăn cạnh bồn rửa. Anh đang nghĩ xem tối nay có nên đi xem phim không – chỉ để ra khỏi nhà. Anh ghét phải làm việc đó, ghét tới mức sẽ không làm nữa. Anh liếc nhìn cửa sổ phòng khách, nhìn con chó đang gục đầu xuống sàn giữa hai chân, quan sát anh. Anh cho là cả buổi tối nay anh sẽ nhìn nó để xem nó có nghe thấy gì không.
“Nếu nghe thấy tiếng động thì mày sẽ sủa chứ?” Anh khom người xuống và vỗ về xương sườn gày rộc của nó.
Tò mò, anh tự hỏi vì sao Jack Nielson hay gia đình Tesser không gọi điện nữa. Cái xác có phải là giọt nước tràn ly đối với họ không? Tất cả đều cho rằng anh sẽ phải vào tù sao? Robert nhận ra, tối nay báo chí thậm chí còn không nhắc đến tên anh. Mẩu tin trên báo chỉ dài có mười centimet, chủ yếu tường thuật lại chuyện cái xác đã được tìm thấy ở đâu và bởi ai.
Robert gọi cho nhà Nielson. Betty nghe máy, tỏ ra tử tế và lo lắng vì Jack kể sáng nay trông anh rất khủng khiếp. Robert trấn an là anh vẫn ổn. Rồi Jack nghe máy.
“Tôi mừng vì anh vẫn ở nhà,” Jack nói. “Khi tôi đọc báo lúc năm giờ chiều – về cái xác – tôi không biết anh sẽ đi đâu nữa.”
“Nhà tù có thể còn an toàn hơn, như tôi đã nói với anh bạn Lippenholtz sáng nay. Anh ta chính là viên cảnh sát mặc thường phục mà anh đã nhìn thấy. Sáng nay anh ta đưa tôi đi xem cái xác, và sau đó...” Anh dừng lại.
“Họ nói gì về nó? Có phải là Wyncoop không?”
“Tôi không nghĩ vậy.” Robert kể cho anh ta về viên đạn tối qua. “Tôi nghĩ Wyncoop đã nổ súng,” anh nói một cách mệt mỏi, “và do đó tôi không nghĩ cái xác đó là cậu ta.”
“Tôi hiểu rồi. Báo chỗ tôi cũng không đề cập tới phát súng. Chẳng trách sáng nay mặt anh trông trắng bệch như ma vậy.”
Họ trò chuyện suốt mười phút và nỗ lực nói chuyện ấy khiến Robert gục xuống ghế bành. Anh mỉm cười cay đắng: Betty không đủ khả năng ngăn sự hồ nghi len vào giọng mình. Cô ta không hề nhắc tới cái xác. Lời nói của cô ta thật vô vị, Robert cảm thấy nó chỉ là những cụm từ để lấp đầy sự im lặng. Khi Jack tha thiết mời anh tới nhà qua đêm với họ, Robert nghĩ – dù anh cũng không dám chắc – mình đã nghe thấy Betty nói, “Đừng... đừng,” ở xa xa. Anh đã cảm ơn Jack và từ chối lời mời đến một ngôi nhà an toàn.
Điện thoại lại reo.
Lần này là Peter Campell gọi đến từ New York.
“Tạ ơn Chúa vì anh đã nghe máy,” Peter nói. “Có chuyện gì xảy ra ở đó vậy?”
Tất nhiên, anh ta muốn biết thêm về cái xác và Robert kể lại tình trạng khủng khiếp của nó, và cả việc kết quả khám nghiệm từ nha sĩ của Wyncoop sẽ có vào thứ Bảy. “Tôi vẫn còn một quân át chủ bài,” Robert nói. “Đó là gì?”
“Một thứ có thể cứu tôi thoát khỏi tội ngộ sát, và đó là việc bị Wyncoop bắn. Nhưng họ sẽ phải tóm được Wyncoop và tìm ra khẩu súng mà cậu ta đã sử dụng. Họ có vẻ không chịu nỗ lực tìm kiếm Wyncoop cho lắm.” Anh kể cho Peter về viên đạn trong bát salad. Với Peter, họ có thể đùa cợt về chuyện đó.
“Bob, anh không thể lên đây ở vài ngày cùng chúng tôi hay sao?”
“Cảm ơn nhiều, nhưng dạo này tôi không được phép rời khỏi thị trấn.”
“Gì cơ?” Peter nói đầy ngờ vực.
“Tình hình ở đây khá tệ. Tôi mừng vì anh không nhận ra điều đó qua báo chí New York. Đừng nghĩ là tôi không muốn đến New York ở với anh nhé. Edna thế nào rồi?”
Edna Campell nghe máy và trò chuyện đôi ba phút. Cô khéo léo dò hỏi anh có yêu cô gái đã tự tử hay không.
“Tôi không rõ nữa,” Robert nói. “Tôi quan tâm đến cô ấy, nhưng đó có phải là yêu không thì tôi không rõ.”
Sau khi gác máy anh mới nhận ra gia đình Campell không nhắc gì đến chuyện nhìn trộm. Và họ cũng không lảng tránh nó, chỉ là do quá thân thiết với anh nên họ hiểu rõ mọi chuyện, Robert nghĩ. Rõ ràng là họ không thấy nó đủ tầm quan trọng để lôi ra. Một cử chỉ đáng quý.
Tầm chín rưỡi, Robert tỉnh giấc, toát mồ hôi sau một giấc ngủ ngắn. Anh đang nằm trên chiếc tràng kỷ đỏ. Anh đã mơ đến một chuyện không dễ chịu nhưng không thể nhớ nổi đó là cái gì. Con chó vẫn ngủ nguyên một chỗ trên sàn. Đèn bàn viết vẫn sáng. Ô cửa sổ mà phát súng bắn trúng bát salad tối qua đi qua vẫn kéo lên mười phân, dù bây giờ rèm cửa đã được kéo xuống hẳn. Anh có nên đóng cửa sổ không? Anh quyết định cứ để nguyên nó như vậy.
Robert đi tới chỗ máy đánh chữ và nhìn bức thư mà anh đã bắt đầu đánh để gửi cho bố mẹ của Jenny.
Ngày 29 tháng 5, năm 19..
Kính gửi cô chú Thierolf,
Cháu viết bức thư này để cố gắng kể lại cho cô chú vài sự thật, vài sự kiện, mà cháu không chắc là hai người có biết hay không, vì cháu không biết Jenny đã kể những gì cho cô chú. Bắt đầu từ sự kiện cuối cùng, tối thứ Hai vừa rồi, cô ấy đã tới nhà cháu để báo với cháu rằng cô ấy không muốn gặp lại cháu nữa. Chúng cháu không hề cãi nhau. Cô ấy không…
Anh quay người đi. Lời lẽ trong bức thư nghe thật sáo rỗng, lạnh lùng và còn có phần than thở nữa.
Tiếng điện thoại réo làm xương sống và vai anh gai lên vì sốc. Chắc lại Nickie. Cô ta đã gọi tới sau nhà Campell vài phút. “Giờ thì anh biết Greg ở đâu chưa?” Cô ta đã hỏi vậy. “Cậu ta chết rồi, cậu ta chết rồi.” Để cắt lời cô ta, để khiến cô ta câm họng, anh đã nhặng xị đòi nói chuyện với Ralph. Nhưng cô ta bảo Ralph đã ra ngoài đi dạo từ rất lâu, rất lâu. Anh nhìn chằm chằm vào chiếc điện thoại đang đổ chuông và cuối cùng vẫn giật phắt ống nghe lên.
“Điện thoại đường dài gọi Robert Forester… Chuyển máy đi, Chicago.”
“Mẹ à?” Anh nói.
“Mẹ đây, Bob. Con thế nào, con yêu?” “Vẫn ổn, mẹ. Con...”
Con chó gầm gừ nhảy dựng lên, nhìn ra cửa sổ và Robert thấy rèm cửa dịch chuyển.
“Mẹ, con phải...” Có một tiếng súng nổ và thứ gì đó bắn trúng cánh tay trái của anh.
Anh đánh rơi ống nghe và gạt cái đèn ra khỏi bàn. Có một phát súng khác khi đèn rơi xuống. Một phát súng khác và tiếng chó ăng ẳng vang lên.
Thêm hai phát súng nữa.
Robert nằm im re trong bóng tối. Con chó rên rỉ. Rồi đột nhiên anh nhảy dựng dậy và lao về phía cửa sổ, nhấc tấm rèm lên dưới màn đêm đen kịt. Anh chạy vào bếp, loạng choạng tìm đèn pin trên kệ, đánh rơi nó xuống sàn, tìm lại nó và quay về phía cửa sổ. Anh khua đèn pin thật nhanh, chiếu tới mọi nơi có thể, rồi đưa tay chậm lại, nhưng vẫn không thấy có gì di chuyển hết. Anh tắt đèn đi, cầm nó như cầm dùi cui và ra ngoài hiên, sải bước một cách can đảm và ầm ĩ, nhảy ra khỏi mép hiên và đi lần ra sau các bụi cây cạnh hàng rào. Anh nhìn về phía đường cái, không có cái hào sâu nào nhưng người ta vẫn có thể ẩn nấp bằng cách nằm bẹp xuống mép đường. Rồi anh nhận ra cánh tay trái của mình đang chảy máu, khá nghiêm trọng. Xa xa về bên trái, theo hướng Langley, anh nhìn thấy ánh đỏ của đèn xe ô-tô. Greg chăng? Có đáng đuổi theo không? Nó biến mất khỏi tầm mắt sau ba giây. Cố gắng tìm nó chỉ là hành động vô vọng.
Anh quay vào trong nhà, bật bóng đèn chính cạnh cửa. Rồi anh nhìn thấy con chó. Nó đang nằm nghiêng, đầu hướng về phía cửa sổ, có một vết thương nhỏ giữa hàng xương sườn. Và nó đã chết.
Anh cầm ống nghe lên, đặt lại vào giá, và đờ đẫn nhìn chiếc điện thoại trong giây lát, nhận ra rằng mình không nhớ được số của sở cảnh sát Rittersvillie. Anh gọi điện.
“Cảnh sát Rittersville,” anh nói khi người trực tổng đài bắt máy.
“Anh muốn gặp sở nào? Toàn bộ các sở đều đã được ghi ra trong niên giám điện thoại.”
“Tôi không muốn tìm niên giám điện thoại,” Robert nói. “Tôi muốn gặp trụ sở chính.” Trong lúc chờ đợi, anh thờ ơ nhìn chằm chằm cái bàn viết sứt mẻ, nhìn mặt kính vỡ tan của một khung tranh treo nghiêng ngả trên bức tường trước mặt. “Xin chào,” Robert nói. “Đây là Robert Forester. Tôi muốn báo cáo...”
Có tiếng nện cửa nhà anh.
Cửa mở hé ra. Một người đàn ông cao to, tóc xám, mặc đồ lao động bước vào, miệng há ra bối rối. Đó là Kolbe, hàng xóm của anh.
“Tôi biết. Có tiếng súng. Tôi đang gọi cảnh sát đây,” Robert lầm bầm như say.
Ông ta đang nhìn con chó, cau mày, cúi xuống xem. “Đó là con chó của nhà Huxmeyer mà,” ông ta giận dữ gào lên.
Một giọng đàn ông the thé vang lên trên điện thoại, “Này! Nói đi! Có ai ở đó không?”
“Tôi muốn trình báo về vài phát súng. Đây là Robert Forester,” anh nói và dập điện thoại. Anh dợm muốn đứng lên rồi ngất lịm.