“À, chào buổi sáng,” bác sĩ tươi cười nói. Ông ta mặc áo sơ mi, đứng gần tràng kỷ, dưới ánh nắng rực rỡ. “Ngủ ngon chứ?”
Robert liếc nhìn quanh phòng. Đồng hồ đeo tay của anh đã biến đâu mất. Cánh tay trái của anh đau nhức.
“Đồng hồ của anh nằm ở trên cái bàn đằng kia. Bây giờ là tám giờ ba lăm,” bác sĩ nói. “Trong khi anh ngủ có hai cuộc điện thoại. Tôi đã tự chủ trương nghe máy. Một cuộc đến từ Vic McBain ở New York. Anh ta nói rằng nửa đêm hôm qua có gọi điện và bị một cảnh sát cộc cằn trả lời. Chúng tôi đã trò chuyện khá sôi nổi. Tôi báo cho anh ta biết tôi là bác sĩ của anh, đang ở cùng anh, và anh vẫn ổn.”
“Cảm ơn ông.” Robert chớp mắt, đầu óc vẫn biêng biêng. Anh thấy thảm đã được cuộn lại ở một góc nhà và anh nhớ mang máng là tối qua mình đã làm máu dính đầy thảm trong khi gọi điện cho cảnh sát. Robert dợm đứng dậy để rửa mặt.
“Để tôi lấy cho anh một ít cà phê trước đã,” vị bác sĩ nhỏ con nói và đi vào bếp. “Vừa mới pha cách đây có vài phút thôi. À mà ngoài những hành động tự tiện đó ra thì tôi còn dùng cả dao cạo râu của anh nữa. Hy vọng là anh không để bụng. Sữa hay đường?”
“Đen đi,” Robert nói.
Bác sĩ mang cốc cà phê quay lại.
Robert cố gắng nhớ tên của ông ta. Knapp à? Knott. Đúng thế. “Có hai cuộc gọi cơ mà, bác sĩ Knott?”
“Phải. Một cuộc gọi vừa đến cách đây vài phút từ Jack Nelson, tôi nghĩ thế. Anh ta nói sáng nay sẽ ghé qua. Tức là sẽ tới bất kỳ lúc nào.”
Robert quan sát khuôn mặt tròn trịa, vui vẻ của bác sĩ khi nhấm nháp cà phê. Anh không thể hiểu nổi sự hoạt bát, vui vẻ, thiện lành của ông. Nhưng khuôn mặt ông cứ thu hút ánh nhìn của Robert như ánh mặt trời ấm áp vậy.
“À, tôi định sẽ ở lại để xem anh cảm thấy ra sao,” bác sĩ Knott nói, “và cũng để giúp anh một tay nếu cần. Phải nói là một cánh tay mới đúng.” Ông ta cười. “Cho đến ba giờ chiều nay tôi không có cái hẹn nào, và cái hẹn đó...” Ông nhún vai.
Robert dần lấy lại sự tỉnh táo. Anh nhớ là mẹ anh sẽ gọi tới vào lúc mười giờ. Cánh tay anh không quá đau và anh đang tự hỏi liệu mình có thể lái xe tới New Mexico được không. Hôm nay là thứ Sáu. Chiều ngày mai nha sĩ sẽ về đây và áng chừng sẽ đưa ra nhận định về cái xác ngay lập tức. Rồi Robert nhớ ra là tối qua anh đã mơ đến Người Anh em Tử thần. Bằng cách nào đó nó đã thay đổi, không phải sao? Khuôn mặt của Người Anh em Tử thần không còn tươi rói và khỏe khoắn như thường lệ nữa. Nó xanh ngắt. Và có thể cái xác gớm guốc cũng đã xuất hiện trong mơ, đang nằm trên chính cái bàn mà Người anh em tử thần đang ngồi. Cái xác quá chân thật đối với Robert, đã choán đầy tâm trí anh đến mức dù mất hết da thịt, dù trắng ởn, nó vẫn mang hình hài con người, anh không biết rõ là tối qua mình có mơ về nó không nữa.
“Anh đã nói mớ khá nhiều trong khi ngủ đấy,” bác sĩ Knott nói, và Robert cảm thấy tội lỗi như thể một cơn đau bỗng siết chặt lấy toàn bộ cơ thể anh trong giây lát.
“Tôi đã mơ đến cái chết,” Robert nói.
“Phải rồi, phải rồi, chính nó,” bác sĩ nói một cách tươi vui như đối với mọi chuyện khác. “Anh đã nói ‘Người Anh em Tử thần đấy à?’ như một câu hỏi. Và ‘Xin chào’ nữa. Giọng anh không có vẻ gì sợ sệt, tức là nó không phải là một cơn ác mộng. Tôi nghĩ vậy.”
“Phải, tôi có một giấc mơ lặp đi lặp lại,” Robert nói và kể cho bác sĩ. “Nhưng tôi không mê cái chết đến thế.”
“À ha.” Bác sĩ rảo bước về phía lò sưởi.
Anh đột nhiên thấy xấu hổ, nhớ lại lời trăn trối của Jenny mà bác sĩ hẳn cũng đã đọc được trên báo. Anh còn nhớ là vợ ông ta mới mất cách đây mười ngày.
Bác sĩ quay lại, đôi mắt xanh dương lấp lánh. “Cái chết là một điều khá bình thường, cũng giống như việc sinh nở vậy. Loài người từ chối làm quen với nó. Thế thôi, văn hóa này là vậy. Chẳng hạn, ta không thể nói người Ai Cập từ chối làm quen với nó.”
“Nhưng chết cũng phải có thời điểm,” Robert nói. “Chết trẻ là không đúng, không phải sao? Chẳng trách những người trẻ tuổi sợ hãi cái chết. Tôi thấy những người già chấp nhận nó. Chuyện đó khác lắm.” Anh nhìn bác sĩ. “Tôi đã không nói gì về Jenny hết, phải không?”
“Jenny à? Không, tôi không nghĩ vậy. Tôi đã ngủ gà gật trên ghế bành. Không thể nói là tôi nghe được tất cả những gì anh nói. Jenny là cô gái đã tự tử phải không?”
“Phải.”
“Bạn gái của Wyncoop.”
Robert ngồi thẳng lưng dậy, chân đặt xuống sàn. “Anh có định cưới cô ấy không?”
“Không,” Robert nói. “Mọi chuyện đã rất tồi tệ. Cô ấy yêu tôi.”
“Và... anh đã từ chối cô ấy à?”
“Tôi đã bảo... tôi không rõ liệu sẽ có ngày tôi yêu cô ấy hay không. Nên... cô ấy đã tự tử vào tối thứ Ba. Cô ấy nhiều lần tâm sự với tôi là mình không sợ cái chết. Cô ấy đã thấy cảnh em trai mình chết vì viêm tủy. Nó làm cô ấy chới với – trong một thời gian – nhưng cô ấy đã vượt qua bằng cách chấp nhận nó, cô ấy từng kể như vậy. Cô ấy dùng từ “chấp nhận,” nó làm tôi phát hoảng mỗi khi nghe cô ấy nói. Và rồi, ông thấy đấy, cô ấy đã tự tử, chẳng vì một lý do đáng kể nào cả. Tôi đoán là ông đã đọc được trên báo. Họ in cả lời trăn trối mà cô ấy đã viết. Cô ấy bảo là đối với cô ấy tôi đại diện cho cái chết.” Robert nhìn thẳng vào bác sĩ, tò mò muốn biết ông ta sẽ nghĩ sao về câu chuyện, khi không hề biết rõ tất cả các sự kiện, không phải toàn bộ những chi tiết nhỏ nhặt, cho dù ông có theo dõi câu chuyện về Wyncoop suốt trên báo. “Theo một cách nào đó, cô ấy yêu cái chết. Đó là lý do cô ấy yêu tôi.”
Bác sĩ nhìn anh hồ nghi trong giây lát, rồi nụ cười của ông quay trở lại. “Không nghi ngờ gì, đó là vấn đề dành cho một bác sĩ tâm lý. Ý tôi là bác sĩ điều trị cho cô gái đó. Đúng là tôi đã đọc câu chuyện đó. Tối qua tôi đã nhớ lại. Khi lái xe cùng cảnh sát tới đây, tôi đã nhớ lại chuyện đó. Tôi đã nghĩ bất kỳ ai rơi vào tình thế đó cũng khó khăn cả. Mục đích của nhiều vụ tự tử là để khiến một người khác cảm thấy hối hận, thấy tội lỗi. Anh có cắt đứt với cô ấy một cách tuyệt tình không, hoặc điều gì tương tự như vậy?”
“Không.” Robert cau mày. “Trước hết, không hề có bất kỳ một hứa hẹn nào hết, nó cũng không phải là một câu chuyện tình lãng mạn, nhưng đúng là vậy. Thật tình thì tôi không hiểu cô ấy, vì tôi chưa từng nghĩ đến chuyện cô ấy sẽ tự tử. Có thể là tôi chưa bao giờ cố gắng để hiểu cô ấy, cũng có thể là cho dù có cố thì tôi cũng sẽ chẳng thể hiểu được. Nó chỉ khiến tôi cảm thấy hối hận khủng khiếp và xấu hổ vì đã làm hỏng một cuộc đời. Một con người.” Robert thấy bác sĩ gật đầu dứt khoát, hai lần, và anh sợ là lời của mình chưa được hiểu thấu đáo, chưa được rõ ràng. Anh đứng dậy, hơi loạng choạng, nhưng vẫn để cốc và đĩa xuống bàn cà phê và bước vào phòng tắm trên đôi chân đang đi tất.
Anh muốn tắm nhưng lại sợ làm ướt băng gạc, không muốn làm phiền bác sĩ thay chiếc mới nên anh đã dùng khăn rửa mặt vắt ở bồn để lau người và vội vàng cạo râu, không được cẩn thận cho lắm. Anh cảm thấy người mệt lả.
“Bác sĩ, ông kê đơn cho tôi được không?” Anh hỏi khi ra khỏi phòng tắm. Anh đi tới chỗ vali để lấy một chiếc áo sạch. Rồi không gian bắt đầu tan thành những mảng xám. Bác sĩ cầm cánh tay phải của anh, kéo anh về phía tràng kỷ. “Để cho tôi tỉnh táo lại,” Robert lầm bầm. “Tôi không đau đâu.”
“Tôi có thể kê thuốc cho anh, nhưng để làm gì? Hôm nay anh phải thư thả lại. Có người nào mà anh có thể gọi đến ở cùng không?”
Tai Robert kêu ong ong đến mức hầu như không nghe rõ lời bác sĩ.
“Hôm nay anh sẽ không đi đâu cả,” bác sĩ Knott nói. Có người gõ cửa và bác sĩ ra mở.
“Anh là Nelson à?” Ông hỏi.
“Là tôi,” Jack nói. “Chào ông. Tình hình bệnh nhân thế nào rồi?”
Robert đang ngồi thẳng băng ở mép tràng kỷ.
“Khỏe, cảm ơn anh. Anh có muốn uống chút cà phê không, Jack?”
Jack ngó quanh phòng trước khi trả lời, nhìn thấy mép bàn làm việc, tiến về phía nó và chạm vào. “Quỷ thần ơi!”
“Phải, cả thảy là năm viên đạn,” bác sĩ Knott nói, và đi vào bếp.
Hàng lông mày đen của Jack chau lại. “Lần này cảnh sát đã làm gì? Vẫn không gì cả à?”
“Không, họ đã ở đây. Họ có tới. Cả vô số hàng xóm xung quanh nữa,” Robert kể.
“Anh thích uống cà phê như thế nào, anh Nielson?” Bác sĩ hỏi.
“Một thìa đường đầy, cảm ơn ông,” Jack trả lời. “Họ có bắt gặp ai đó ở xung quanh đây không? Họ đã làm gì?”
“Tôi không biết chính xác vì tôi đã ngất đi – khoảng mười phút sau khi bị bắn trúng. Khi tôi tỉnh lại thì căn nhà đã nhung nhúc người.” Robert cười. Dường như chẳng còn việc gì để làm ngoài cười, cười trước khuôn mặt dài thượt, bối rối, cau có của Jack.
Jack nhận cốc cà phê từ tay bác sĩ. “Cảm ơn ông. Anh có nghĩ là Greg không?”
“Có,” Robert nói. “Ngồi xuống đi, Jack.”
Nhưng Jack vẫn đứng im, tay cầm cốc cà phê. Nhìn cái áo vải tweet, cái quần vải flannel nhăn nhúm, đôi giày không gian và vẻ bồn chồn, liên tục liếc nhìn đồng hồ của anh ta là đủ thấy Jack đang nghĩ là mình sẽ phải đi ngay để kịp giờ làm. “Nhưng cảnh sát sẽ làm gì?”
“Tôi nghĩ anh đang quá logic rồi đấy,” Robert nói. Jack lắc đầu. “Tôi đoán là họ sẽ không làm gì cả cho tới khi khám phá ra cái xác không phải là Wyncoop.
Chắc chỉ vậy thôi?”
“Tôi đã hỏi Lippenholtz về tình trạng của cái xác,” bác sĩ Knott nói. “Từ những nhận xét của anh ta thì tôi cũng đoán cái xác có vẻ đã chìm dưới nước lâu hơn hai tuần rồi.”
Hôm nay là ngày thứ mười ba, Robert nghĩ, từ lúc người ta cho rằng Wyncoop đã bị quẳng xuống sông Delaware. Jack đang nhìn anh.
“Anh nghĩ sao... về cái xác ý?”
Robert hớp một ngụm lớn cà phê nóng mà bác sĩ vừa rót ra. “Tôi nghĩ nó chỉ là một cái xác.”
“Tôi sẽ làm trứng bác,” bác sĩ nói và lại đi vào bếp. Jack nhẹ nhàng ngồi xuống tràng kỷ cạnh Robert.
“Có phải điều này nghĩa là bây giờ họ sẽ không tìm kiếm Wyncoop nữa không? Tôi xin lỗi vì hỏi quá ngu ngốc, nhưng tôi thực sự không hiểu nổi.”
“Tôi đoán là từ đầu họ cũng có tích cực tìm kiếm gì đâu,” Robert nói. “Và anh cũng không hề ngu ngốc hơn những người khác, nên đừng tự chỉ trích bản thân. Dẫu sao anh đã đoán đúng – họ không hề tìm kiếm. Sao phải vậy?”
“Vậy họ nghĩ ai là người nổ súng?”
“Điều đó đơn giản là không thu hút sự chú ý của họ,” anh nói.
Tiếng bơ xèo xèo trong một cái chảo trong bếp. Bác sĩ đứng ở cửa bếp, tay cầm một cái bàn xẻng. “Có vẻ anh Forester nói đúng. Chuyện đó không hấp dẫn họ đâu. Tôi khuyên anh nên ngả đầu ra sau và thư giãn đi, anh Forester.” Ông lấy vài cái gối cạnh tường đặt ra sau lưng Robert và anh nằm dựa vào chúng. “Anh cảm thấy thế nào?”
“Ổn, nhưng hơi kỳ kỳ.”
“Tối qua anh mất nhiều máu nên mới cảm thấy như vậy thôi. Tôi đã phải khâu một động mạch lại đấy,” bác sĩ hớn hở nói.
Jack lại nhìn đồng hồ. “Anh có muốn tôi báo điều gì cho ông Jaffe không, Bob...”
“Không có gì hết, cảm ơn anh, Jack. À mà, có đấy.
Anh có thể bảo ông ấy là hôm nay tôi sẽ không đến làm. Tôi bị ốm. Ngay khi có thể, tôi sẽ viết thư xin thôi việc. Bỏ việc. Tôi đã bị thương. Đó là sự thật.”
Jack nhìn bác sĩ rồi lại nhìn Robert. “Tối nay thì sao? Cảnh sát không...”
“Anh Forester được nồng nhiệt chào đón ở nhà tôi,” bác sĩ Knott nói. “Ở Rittersville. Chưa từng có chuyện gì xảy ra ở đó, ngoại trừ...” – ông xoa cái đầu hói – “trừ một cuộc điện thoại lúc nửa đêm vì có người bị khó tiêu. Đó là trò đùa đã lỗi thời nhưng vẫn xảy ra. Anh có muốn ăn trứng với bọn tôi không, anh Nielson?”
Jack đứng dậy. “Không, cảm ơn, tôi phải đi đây. Bob, sao anh không hoãn việc thôi việc lại? Ngày mai có thể nha sĩ...”
“Sau bài diễn văn của ông Jaffe à?” Robert nói. “Ông ấy đã thuyết giáo anh à?”
“Không hẳn là thế, nhưng tôi chắc chắn ông ấy nghĩ tôi phần nào có tội. Một kẻ lập dị, không phải phong cách của L.A. Thế là đủ.”
“Anh đâu có làm việc dưới quyền ông Jaffe ở Philly.” “À, tất cả đều có liên hệ,” Robert nói. “Nếu ngày mai nha sĩ kết luận rằng cái xác không phải Wyncoop thì cũng vẫn chưa tìm được Wyncoop, không phải à?
Điều đó chẳng chứng minh được là tôi không giết cậu ta.” Robert liếc nhìn bác sĩ, mừng vì ông đang nghe từ cửa bếp. “Thật vui khi được trò chuyện. Thật sự rất vui khi được trò chuyện,” Robert nói và lại ngả người dựa vào gối.
“Nhưng tôi không thích thái độ đầu hàng đó của anh,” Jack nói, đổi trọng tâm chân.
Robert không trả lời. Anh đang đầu hàng sao? Anh cảm thấy bản thân trở nên mong manh như một cái hộp thủy tinh nhỏ. Mình có thể làm gì đây, anh nghĩ thầm, và câu trả lời dường như là không gì cả. “Trong phần lớn trường hợp, luôn có điều gì đó mà người ta có thể làm,” anh nói, “nhưng lúc này thì tôi không thấy phương án nào hết.” Giọng anh nức nở và đột nhiên anh nghĩ tới Jenny. Là tại anh mà cô đã tự kết liễu tính mạng của mình. Cô yêu anh và anh đã làm hỏng bét mọi chuyện, khiến cô phải chết.
Jack vỗ vai anh. Robert cúi gằm đầu xuống, bàn tay phải che ngang mắt. Jack và bác sĩ đang nói chuyện, bác sĩ nói bằng giọng ra chiều hiển nhiên là tất nhiên Robert sẽ ở lại nhà ông, khoảng một hai ngày gì đó, nếu cần thiết. Jack ghi lại tên và số điện thoại của bác sĩ. Rồi anh ta ra về và bác sĩ đặt lên bàn cà phê trước mặt Robert một đĩa trứng bác với bánh mỳ nướng được phết bơ và mứt cam.
Khi đang ăn, dòng suy nghĩ của anh bớt mờ mịt hơn. Greg được miễn tội, gần như là được tự do hành động cho tới chiều ngày mai, khi nha sĩ chính thức công bố kết quả, giả như cái xác đó không phải xác Greg, giả như điều đó có thể kích thích cảnh sát hăng hái tìm kiếm cậu ta hơi đôi chút. Nói cách khác, Greg vẫn còn tối nay. Nhưng, Robert nghĩ thầm, nếu nha sĩ kết luận cái xác chính là xác Wyncoop và chỗ răng còn sót lại ở hàm trên chính là của cậu ta thì mới đáng châm chọc làm sao? Và chẳng phải tự anh sẽ là trò đùa nếu sự thật đúng là vậy à?
“Anh đang khỏe dần lên,” bác sĩ Knott nói. “Tôi có thể thấy điều đó.”
“Khá hơn nhiều, cảm ơn ông, bác sĩ Knott. Tôi không nên tới ở nhà ông tối nay, nhưng vẫn cảm ơn nhiều vì lời đề nghị đó.”
“Sao lại không? Anh không nên ở lại chỗ hiu quạnh, xung quanh toàn những hàng xóm gắt gỏng này. Hay anh có muốn tới nhà Nielson bạn anh không? Anh ta nói anh cũng được chào đón ở đó.”
Robert lắc đầu. “Không tới nhà ai hết. Tôi có cảm giác là tối nay mình sẽ lại được nhận thêm một viên đạn nữa, sao lại khiến người khác bị tấn công làm gì? Chỗ hợp tình hợp lý cho tôi là bệnh viện hoặc nhà tù. Nhà tù thì tường dày hơn.”
“Ôi!” Bác sĩ cười khẽ nhưng nụ cười của ông sớm tịt ngóm. “Anh thật sự nghĩ là Wyncoop – hay bất kể đó là ai – sẽ dám làm vậy? Một lần nữa à?” Quả đầu tròn, hếch lên của bác sĩ đột nhiên trông văn minh, thông thái, lý trí, và điềm đạm một cách lố bịch. Rõ ràng là ông không hiểu súng đạn và cũng không hiểu những kẻ như Greg.
Robert mỉm cười. “Có gì ngăn hắn lại đâu? Tối nay tôi sẽ không bận tâm đi đòi người bảo vệ nữa. Tôi đoán là cũng chỉ tốn công vô ích mà thôi.”
Bác sĩ Knott liếc nhìn quanh sàn nhà, nhìn những cái đĩa sạch sẽ, rồi nhìn Robert. “Này, chẳng phải đây là nơi cuối cùng anh muốn ở lại sao, Wyncoop biết anh sống ở đây mà? Còn Rittersville cách đây chừng ba mươi cây số. Đưa xe của anh tới đó đi. Gara của tôi đủ rộng để chứa hai chiếc ô-tô. Chúng ta có thể ở trên tầng hai. Ở dưới tầng một là phòng khách và bếp.” Ông mỉm cười, tự tin trở lại. “Khỏi phải nói thêm, cả cửa trước và cửa sau của tôi đều có khóa chắc chắn. Nhà của tôi là một trong những ngôi nhà cổ hay được gọi là dinh thự. Được xây từ năm 1887. Tôi đã thừa kế nó từ bố.”
“Ông thật tử tế,” Robert nói, “nhưng không cần đâu. Tôi không nhất thiết phải ở lại đây – tôi cũng chưa rõ chuyện đó nữa – nhưng tôi không muốn đi tới chỗ khác có khả năng...”
“Có vẻ anh không nhận ra,” bác sĩ ngắt lời, “tôi sống ở khu vực đông dân cư, khu vực lâu đời nhất của Rittersville. Có rất nhiều nhà xung quanh. Ý tôi không phải chỗ đó chật chội, tất cả các nhà đều có sân vườn, nhưng nó không như... không như ở đây,” ông ra hiệu, “nơi anh lù lù ra đó còn người ta thì có thể biến mất trong rừng hay trong cánh đồng mà chẳng ai hay.”
Robert im lặng, cố gắng nghĩ ra một lập luận khác, một lập luận nào đó ngoài từ “Không” tuyệt tình.
“Sao anh không gọi cho mẹ anh đi nhỉ? Sắp tới mười giờ rồi đấy.”
Robert gọi điện cho mẹ.
Bà cũng đang đợi điện thoại của anh. Bà vẫn muốn anh tới New Mexico và muốn biết khi nào thì anh khởi hành. Robert giải thích là anh phải ở lại qua ngày thứ Bảy vì chuyện nha sĩ sẽ đến nhìn cái xác mà cảnh sát nghĩ là Wyncoop.
“Không, mẹ, con không nghĩ cái xác đó là Wyncoop nhưng cảnh sát phải đảm bảo chắc chắn về điều đó. Đây là một vụ án, mẹ, một tội ác.” Nói ra từ ‘tội ác’ với mẹ anh thấy yên lòng một cách kỳ lạ, bà hoàn toàn tin tưởng việc anh vô tội, còn tin hơn cả Jack, hơn cả bác sĩ, và cả chính anh. Anh đang dùng tay phải áp chặt điện thoại vào tai trái. “Chắc chắn rồi mẹ, mai con có thể gọi điện, Chủ nhật thì chắc sẽ tốt hơn, vì lúc đó con sẽ biết nhiều thông tin hơn… Được rồi, trước mười hai giờ trưa Chủ nhật nhé… Gửi lời hỏi thăm của con tới ba Phil nhé… Chào mẹ.”
“Anh định đi tới New Mexico bằng cách nào vậy?” Bác sĩ hỏi.
“Tôi đã nghĩ đến chuyện lái xe,” Robert vô thức trả lời, còn đang mải nghĩ về tờ báo mà mẹ anh sẽ đọc ngày hôm nay nếu kịp thời gian. Nhất định là sẽ có những lời nhận xét thù địch của cư dân Langley, hàng xóm của anh, chuyện tự tử, vụ bắn tỉa, vụ nhìn trộm, tất cả tập hợp lại và tập trung vào cái xác trong nhà xác của Rittersville. Robert lại cảm thấy chuếnh choáng rồi. “Tôi khá chắc chắn là đến ngày Chủ nhật tôi đủ khỏe để lái được xe. Nếu không tôi sẽ gửi xe lại đây.”
“Hừm. Được đấy, nếu từ giờ tới Chủ nhật anh chịu nghỉ ngơi,” bác sĩ nói, quan sát anh. “Giờ thì ngồi xuống đi, anh Forester.”
Robert ngồi xuống.
“Mẹ anh sống ở New Mexico à?” Bác sĩ đang đi lấy bàn chải đánh răng và dao cạo râu của Robert trong phòng tắm.
“Không, bà ấy sống ở Chicago, nhưng bà ấy và chồng có một nhà nghỉ dưỡng mùa hè gần Albuquerque.
Nó như kiểu một trang trại nhỏ. Họ để cho một cặp đôi sống ở đó và coi sóc nó khi họ không có mặt ở đấy.” Robert lại muốn nằm xuống.
“Nghe có vẻ thoải mái đấy. Tới đó ở một thời gian chắc hẳn sẽ rất tốt cho anh. Uống cái này đi.” Bác sĩ chìa lòng bàn tay ra.
“Cái gì đây?”
“Dexamyl. Chỉ để anh khỏe lên cho đến khi chúng ta tới Rittersville. Anh có thể nghỉ ngơi cả chiều hôm nay sau.”
Vài phút sau, Robert ra ngoài với bác sĩ và đi theo xe ông tới Rittersville.
Ngôi nhà mà bác sĩ quành xe ở lối đường vào chính xác là một dinh thự kiểu cổ. Nó trông như được làm từ bánh trứng đường trắng tinh tươm, có vài bục cửa sổ nhô ra ở tầng một và tầng hai. Tất cả các cửa sổ đều sáng lóa dưới ánh nắng như thể mới được cọ rửa. Trên bãi cỏ mới được cắt tỉa trước nhà là một cây liễu rủ khổng lồ, các cành lá dịu dàng đung đưa. Cây liễu và các bụi tú cầu mang lại cho nơi này một vẻ mềm mại và đậm chất miền Nam hơn hẳn các ngôi nhà khác trên đường. Robert lái xe của anh vào chỗ trống trong gara ở cuối đường.
Bác sĩ đóng cửa gara lại.
“Tôi không dừng lại mua đồ ăn cho chúng ta vì đã báo bà Anne Louise làm chút đồ, và giờ chúng ta sẽ xem xem bà ấy đã nấu chưa,” ông nói, mở cửa sau bằng một chìa trong chùm chìa khóa.
Robert mang đúng một cái vali nhỏ xíu mà bác sĩ đã giúp anh sắp xếp đồ đạc. Họ đi vào căn phòng bếp vuông vắn rộng rãi với vải lót sàn đen-trắng và mặt kệ bằng gỗ cũ cạnh bồn rửa bát. Bác sĩ mở tủ lạnh, kêu “A” đầy hài lòng, nhìn vào ngăn đá rồi tuyên bố là bà Anna Louise đã hoàn thành trọng trách của mình.
“Tôi sẽ thu xếp đồ đạc trên gác cho anh trước,” bác sĩ nói, ra dấu cho Robert đi theo.
Ông dẫn anh qua một phòng khách, đi vào một hành lang trải thảm, lên một cầu thang có tay vịn bóng loáng, nặng nề. Căn nhà trông sạch bóng, không một hạt bụi, nhưng vẫn in dấu người, và Robert cảm thấy mọi đồ đạc, mọi bức tranh, mọi đồ trang trí đều có một câu chuyện hoặc ý nghĩa đặc biệt nào đó đối với bác sĩ và vợ ông. Anh chỉ hy vọng mình sẽ không bị đưa vào phòng ngủ của người vợ quá cố hoặc phòng bệnh của bà, rồi bác sĩ mở tung một cánh cửa cao ra và nói, “Đây là phòng khách của chúng tôi.” Ông ngó quanh. “Được, tôi thấy nó cũng ổn đấy. Cần thêm hoa để trông ấm cúng hơn, nhưng...” Ông dừng lại, rõ ràng đang mong chờ Robert thích nó, khen ngợi căn nhà của ông.
“Nó chẳng cần thêm gì hết,” Robert nói. “Nó là một căn phòng xinh xắn. Còn cái giường...”
Bác sĩ cười. “Bằng lông vũ đấy, dù anh tin hay không. Mẹ vợ tôi đã may chăn. Nó được thiết kế dựa trên loài hoa biểu trưng của Oregon, nho Oregon. Đó là cây thường xanh, Mahonia aquifolium.”
“Vậy sao?”
“Những quả nho màu xanh dương nhỏ xinh, không phải sao? Vợ tôi rất thích cái chăn đó, đó là lý do bà ấy đặt nó trong phòng khách. Bà ấy là như thế đấy. Sao anh không tự nhiên đi, tôi sẽ để anh ở một mình vài tiếng đồng hồ. Nhà tắm ở ngay bên phải phòng anh.” Ông dợm bước ra ngoài. “Nhân tiện, chiều nay anh nên ngủ nhưng liều Dexamyl vừa xong sẽ khiến anh thức chong chong. Tôi sẽ mang cho anh một liều thuốc an thần nhẹ và anh có thể uống hoặc không, tùy thích, nhưng tôi khuyên anh nên mặc đồ ngủ vào và thả lỏng cơ thể.”
Robert mỉm cười. “Cảm ơn ông. Tôi muốn đọc báo trước. Tôi sẽ đi xuống nhà để lấy.”
“Không, đừng, tôi sẽ mang chúng lên. Ở yên đây đi.” Bác sĩ ra ngoài.
Robert lại nhìn khắp một lượt quanh phòng, cảm thấy có phần thật khó tin, rồi mở vali ra để lấy đồ ngủ. Bác sĩ gõ cửa, mang theo mấy tờ báo mà ông đã mua dọc đường, đặt chúng lên cái đệm ghế thêu, vẫy tay và lại biến mất sau cánh cửa. Robert mang báo về giường và ngồi xuống, nhưng anh lún sâu xuống đệm… Cuối cùng, anh ngồi bệt xuống sàn… Anh đọc tờ New York Times đầu tiên để xem họ tiết lộ bao nhiêu thông tin. Anh phải lật tới trang mười bảy mới tìm được bài báo về mình, một cột báo dài mười hai centimet tường thuật chung chung về việc cảnh sát Rittersville đang đợi nha sĩ của Wyncoop, bác sĩ Thomas McQueen, và Robert Forester, người đã ẩu đả với Wyncoop vào ngày hai mốt tháng Năm, đã bị “bắn vào tối thứ Tư tại nhà anh ta gần Langley.” Tất nhiên, đó là chuyện về viên đạn bắn vào cái bát salad. Tờ Courier của Rittersville và Gazette của Langley lại có cách đưa tin hoàn toàn khác. Họ tường thuật vụ năm viên đạn tối hôm qua, “nó dẫn dụ cả một đám hàng xóm hoảng hốt tới nhà Forester. Forester bị thương ở cánh tay trái và được bác sĩ Albert Knott ở Rittersville chữa trị. Đây là lần thứ hai Forester bị bắn bởi một kẻ hoặc một nhóm kẻ tấn công mà người ta nghi ngờ là bạn bè của Gregory Wyncoop…” Cả hai tờ báo đều không đặt ra nghi vấn kẻ tấn công có thể chính là Wyncoop.
Bác sĩ Knott quay lại với một cốc nước. “Anh đang làm gì trên sàn thế?”
Robert đứng dậy. “Nó có vẻ là nơi dễ đọc báo nhất.”
“Ái chà chà.” Bác sĩ lắc đầu. “Đây là một ngôi nhà cũ kỹ đối với anh. Không có gì thật sự thoải mái hết, nếu anh cẩn thận suy xét.”
Robert cười và nhận cốc nước cùng một viên thuốc màu trắng từ tay bác sĩ. “Tôi nghĩ tôi sẽ uống thứ này.”
“Tốt. Tôi sẽ ra ngoài vào khoảng trước ba giờ. Nếu anh đói thì có phô mai và vài món khác trong tủ lạnh đấy. Tối nay chúng ta sẽ ăn một bữa tử tế hơn.” Ông quay ra cửa.
“Ông không muốn đọc báo à?” “Có chứ. Anh đọc xong rồi à?”
“Rồi.” Robert gom chúng lại và đưa cho bác sĩ. Mắt ông chạm mắt anh trong giây lát, trông thoải mái và tươi vui, nhưng dường như cái miệng nhỏ của ông thể hiện một cảm xúc trái ngược. Nó mím chặt. Robert tự hỏi, ông đang hoài nghi hay ngờ vực đây? Hay chỉ là những cảm xúc đau thương còn sót lại? Hay anh chỉ đang tưởng tượng quá đà?
Robert mặc pyjama và đi ngủ.
Khi anh tỉnh giấc, ánh nắng dường như đang chiếu thẳng vào phòng. Mặt trời đang lặn. Theo đồng hồ của anh thì là bảy giờ kém mười lăm. Robert đi vào phòng tắm và rửa ráy, đánh răng, mặc lại đồ. Từ hành lang, anh có thể loáng thoáng nghe thấy tiếng ai đó trong bếp dưới gác, tiếng thìa chạm vào bát. Robert không thể tưởng tượng ra cảnh ông bác sĩ nấu ăn, dù sáng nay món trứng bác khá ngon lành. Robert lại sờ cánh tay của mình, siết nhẹ nó. Gần như không còn cảm giác đau đớn nữa. Anh bỗng thấy người tràn đầy năng lượng và sự tự tin, vội chạy xuống cầu thang, tay để hờ trên lan can. Trong một khoảnh khắc anh nhớ lại lúc chạy xuống cầu thang trong nhà của Nickie.
Bác sĩ đang nấu ăn, ông còn đeo cả tạp dề. “Uống rượu lúa mạch nhé,” ông nói. “Cậu có thích loại đó không? Chai rượu ở đằng kia.” Ông hất đầu ra hiệu về phía một cái chạn cạnh tủ lạnh.
“Tôi không ngại đâu. Ông cũng uống chứ, bác sĩ?” “Tôi có rượu của mình đây rồi, cảm ơn anh, Sherry Bristol Cream.”
Robert rót rượu cho mình rồi hỏi xem liệu anh có thể phụ việc gì không. Anh nhận thấy bàn phòng ăn đã được dọn cho hai người. Bác sĩ nói ông không cần giúp gì hết vì món họ chuẩn bị ăn hết sức đơn giản, thịt gà tây nguội, sốt nam việt quất từ cửa hàng đồ ăn sẵn và mỳ macaroni với phô mai trong ngăn đá.
Bác sĩ rót thêm một chút rượu amontillado khi họ cùng ngồi xuống bàn. Ông kể mình và vợ đều là những người mê rượu sherry và trà. Ông có đến mười sáu loại trà Trung Quốc khác nhau trong bếp.
“Tôi không thể diễn tả hết niềm vui của mình khi có anh bầu bạn,” bác sĩ nói giữa một khoảng lặng trong bữa ăn. Ông vừa hỏi thăm công việc của Robert và anh kể cho ông nghe về quyển sách côn trùng mà anh vừa hoàn thành cho Giáo sư Gumbolowski. Anh đã phải vẽ lại khoảng sáu đến bảy bức tranh nhưng cuối cùng đã hoàn thành trong tháng Ba. “Anh biết không, anh là vị khách đầu tiên mà tôi mời đến kể từ khi vợ tôi mất,” bác sĩ nói. “Mọi người mời tôi đi chơi – anh biết đấy – nhưng tôi thấy thật khó khăn vì biết họ đều đang cố gắng hết sức để giúp mình. Lạ lùng thay, tôi vẫn muốn mời rất nhiều người bạn cũ tới, tổ chức một bữa tiệc tối ngon lành, nhưng tôi nghĩ họ sẽ cảm thấy tôi mất trí khi cố gắng ăn chơi vui vẻ chẳng bao lâu sau khi vợ mình vừa mới mất. Nên tôi đã chẳng làm gì hết. Cho tới khi gặp anh.” Ông mỉm cười một cách hạnh phúc, nhấp rượu sherry rồi châm một điếu xì gà nhỏ. “Và anh còn là một người xa lạ nữa. Buồn cười thật.”
Sau vụ li dị thì tình trạng của anh cũng rất gần như thế, Robert thầm nghĩ. Anh không biết nói gì đáp lại nhưng có vẻ bác sĩ cũng không để tâm. Cho tới khi gặp ông, anh nghĩ. Một người bị chính hàng xóm ghê tởm và muốn tống cổ đi, một người phải chịu trách nhiệm về một vụ tự tử, một người có khả năng đã đẩy một người khác xuống sông và rũ bỏ sạch trơn mọi trách nhiệm. Vị bác sĩ đang nghĩ gì, thật sự thì ông nghĩ gì về anh? Hay là với ông điều đó chẳng có gì quan trọng, vì ông còn mải chìm đắm trong nỗi đau của chính mình? Chẳng phải Robert chỉ là một sự đánh lạc hướng nhỏ nhoi, một chương trình tivi mà bác sĩ bật lên để phân tâm tạm thời sau cái chết của vợ? Robert đoán là mình sẽ chẳng bao giờ biết được câu trả lời cho những câu hỏi đó, không phải tối nay, thậm chí cũng không phải ngày mai hay Chủ nhật, cái ngày mà người ta sẽ đưa ra một lời tuyên bố chính thức nào đó đối với cái xác. Anh cảm thấy bác sĩ sẽ không bao giờ đưa ra một phán xét nào, không bao giờ tiết lộ ý kiến của mình. Nhưng chắc chắn là ông có nhận định riêng và cũng chắc chắn là ông quan tâm đến tình huống của Robert. Vị bác sĩ để ý đến mức còn muốn đọc báo về chuyện đó.
“Anh biết chơi cờ chứ?” Bác sĩ hỏi.
Robert co rúm người lại trong ghế. “Biết một chút, nhưng chơi dở lắm.”
Họ lên cầu thang tới phòng của Robert để ngồi chơi. Trên đó có một bàn cờ làm từ gỗ tếch khảm ngà. Robert đã chú ý đến nó, nhưng anh nghĩ bác sĩ chọn căn phòng đó còn vì nó ở trên gác và ở cuối nhà. Bên ngoài giờ đã tối om. Khi leo lên cầu thang, họ không để lại một bóng đèn nào dưới nhà hết. Bác sĩ mang tách và bình đựng cà phê trên khay. Robert biết luật chơi cờ vua và thậm chí còn từng đọc vài quyển sách về nó cách đây vài năm, vấn đề chủ yếu của anh là anh không có khao khát chiến thắng cháy bỏng. Nhưng anh sẽ cố gắng hết mình để làm hài lòng vị bác sĩ. Ông cười khẽ và tự lầm bầm một mình khi cân nhắc các nước cờ. Một cách tử tế, ông tìm cách chiếu tướng Robert nhanh hết mức có thể. Trong vòng hai mươi phút mà họ đã chơi xong hai ván, và Robert đều thua. Ván tiếp theo, anh tập trung hơn và cuộc đấu trí kéo dài gần một tiếng đồng hồ. Kết quả thì vẫn vậy. Bác sĩ ngả lưng vào ghế, cười khẽ và Robert cũng bật cười.
“Tôi không dám nói mình thua là do thiếu luyện tập vì tôi chưa bao giờ mê trò này,” anh nói.
Xa xa, một chiếc ô-tô đổi số. Ngoài ra không có âm thanh nào khác và Robert thậm chí còn có thể nghe được cả tiếng đồng hồ tích tắc chậm chạp dưới gác.
“Mười giờ hai mươi! Một chút brandy thì sao nhỉ?” Bác sĩ nói.
“Thôi khỏi, cảm ơn. Nó dễ gây ra...”
“À, tôi hiểu. Uống một ít sherry vậy nhé. Thật đấy, nó ngon tuyệt vời.” Bác sĩ đứng dậy. “Không, đừng đi xuống. Tôi sẽ đi nhanh thôi.” Rồi ông biến mất.
Robert đi về phía chiếc giường đôi và quay lại, nghe ngóng. Sự căng thẳng khiến cánh tay trái của anh đau đớn và anh ép mình phải thả lỏng. Chẳng có lấy một tiếng động bên ngoài. Robert nghe tiếng cót két và tiếng sập cửa dưới nhà, nghe như cửa tủ rượu vừa được đóng lại. Anh nhìn cánh cửa khép hờ, nghe tiếng bước chân bác sĩ đang lên cầu thang.
Một tiếng súng nổ. Rồi tiếng thủy tinh vỡ. Robert lao xuống cầu thang.
Bác sĩ đang nằm trên ngưỡng cửa rộng giữa phòng khách và hành lang, chỉ cách cầu thang có vài chục phân. Mắt ông mở to, đầu nghẹo về phía tay nắm cửa.
“Bác sĩ Knott?” Robert lắc nhẹ vai ông, nhìn cái miệng hé mở mà anh mong đợi sẽ động đậy, sẽ cất tiếng nói ngay tức thì. Anh không thấy một vết thương nào trên người ông.
Robert đứng dậy, nhìn vào căn phòng khách sáng đèn, nhìn chiếc cửa sổ mở hé, nhìn khoảng cách hơn chục phân giữa bệ cửa và khung cửa sổ trong góc nhà. Anh đi vào hành lang, mở cửa trước và bước ra hiên. Góc nhà cạnh cửa sổ chỉ là một khoảng không đen kịt tĩnh lặng. Bãi cỏ trống trơn nửa xanh lục nhạt dưới ánh sáng chiếu từ một ngọn đèn đường gần đó, nửa đen xì dưới bóng các bụi cây ngọn cỏ. Robert đứng nín thở, cố gắng lắng nghe xem có thứ gì đó di chuyển sang bên trái hoặc bên phải trên vỉa hè không. Rồi cửa sổ nhà kế bên bật mở.
“Cái gì thế?” Một giọng nữ thét lên. “Bác sĩ Knott?” Robert quay lại chỗ bác sĩ. Ông vẫn không hề cử động. Anh kéo ông ngồi dậy và đầu ông gục về phía trước. Sau đó Robert nhìn thấy một vết cắt dài đỏ rực dọc sau đầu ông, máu chảy tràn ra qua mái tóc mỏng, thấm hết vào cổ áo trắng tinh. Anh nghĩ nó hẳn là một vết rách do đạn gây ra, nhưng lại trông như chỉ là vết xước da. Bác sĩ hẳn đã bị bất tỉnh vì ngã đập đầu vào tay nắm cửa. Anh dợm nâng ông lên nhưng ánh mắt vẩn đục của ông khiến anh khựng lại. Anh vội vàng nghe nhịp tim của ông. Nó vẫn còn đập.
Anh nửa bê nửa kéo bác sĩ về phía xô-pha, rồi chạy vào bếp và lần mò tìm được đèn và thấm ướt vài tờ giấy ăn dưới vòi nước lạnh. Anh quay về chỗ bác sĩ và lau máu sau đầu ông. Còn đủ giấy sạch để lau mặt và trán cho bác sĩ. Đôi mắt vẫn đục ngầu và mở hé ra, miệng há hốc, giờ bác sĩ còn chảy dãi nữa. Robert chạy lên phòng tắm trên gác, mở tủ thuốc đầy các lọ thuốc nhỏ lộn xộn chất đầy ba đến bốn cái giá thủy tinh. Anh làm rơi vài lọ xuống bồn rửa mặt trong lúc tìm kiếm, may mà nó không vỡ và anh cũng tìm thấy thứ mình muốn, thuốc aromatic ammonia spirit. Anh đọc lại nhãn lần thứ hai để chắc chắn: “Liều dùng: ½ đến 1 thìa thuốc hòa với nước.
Phát huy tác dụng nhanh chóng.” Robert ngửi mùi – cực nồng – và cầm nó chạy xuống cầu thang.
Giữ nó dưới mũi bác sĩ không có hiệu quả. Robert sợ làm ông sặc nếu cố cho ông uống nước. Giờ tay ông lạnh toát. Mạch đập dường như yếu hẳn đi. Robert chộp lấy một cái khăn tua rua được gấp gọn trên ghế đôi và đắp nó lên người bác sĩ. Rồi anh nhấc điện thoại lên và gọi tổng đài. Anh báo cho người trực tổng đài biết là anh muốn kiếm bác sĩ, đây là trường hợp khẩn cấp. Đại lộ Waverly, tư gia của bác sĩ Knott. Robert không rõ số nhà.
“Đó là một căn nhà màu trắng. Tôi sẽ bật đèn ở phía trước sân lên. Cô nghĩ là có thể kiếm được bác sĩ ngay lập tức không?”
“À, có thể đấy. Nó ở gần bệnh viện Rittersville. Tôi sẽ gọi cho họ ngay.”
Robert quay lại chỗ bác sĩ và chờ đợi, nắm cổ tay của ông để cảm nhận mạch đập. Đôi mắt xanh dương rạng ngời của ông dường như đang nhìn thẳng vào anh.
“Bác sĩ Knott?” Ông trông như chuẩn bị nói gì đó nhưng lại không hề nhúc nhích lấy một phân.
Có tiếng gõ cửa.
Robert ra mở cửa.
“Ồ!” Một người phụ nữ đầy đặn, tầm năm mươi tuổi đứng đó cùng một người đàn ông trạc tuổi. “Chúng tôi nghĩ là đã nghe thấy tiếng súng ở bên này.”
“Đúng thế. Mời vào.” Robert lùi lại. “Bác sĩ bị bắn trúng. Tôi nghĩ chỉ là... ông ấy đang hôn mê.”
“Bác sĩ Knott!” Người phụ nữ thở dốc, lao vội về phía ông rồi khựng lại. Bà ta nhìn chồng. “Ôi, George!”
“Ông ấy tự bắn mình hay là... Ông ấy bị bắn vào đâu?” Ông ta hỏi.
Robert kể cho ông ta chuyện đã xảy ra và báo là mình vừa mới gọi bác sĩ rồi.
“Anh là bạn ông ấy à?” Ông ta hỏi, nheo mắt nhìn. “Chờ đã, anh không phải là...”
“Robert Forester,” anh nói.
Người đàn bà há hốc miệng nhìn sang anh. “Kẻ nhìn trộm!”
“Chúng tôi đọc trên báo biết là tối qua bác sĩ Knott đã chăm sóc anh,” ông ta nói.
“Đúng thế.” Người đàn ông và người đàn bà có vẻ đang nhích ra xa dần anh, người đàn bà đã hướng về phía cửa trước.
Robert liếc nhìn bác sĩ, ông vẫn không hề động đậy.
“Chúng ta có thể đợi ở đây tới khi bác sĩ đến, Irma.
Anh muốn biết ông ấy thế nào,” người đàn ông nói. “Được thôi, George.”
Không một ai ngồi xuống. Không ai nói gì trong suốt ba, bốn phút. Robert lại sờ mạch đập của bác sĩ. Đôi mắt mở của ông làm anh lo âu. Giờ thì chúng có vẻ trách cứ và cũng có vẻ đã mất hết sinh khí, nhưng ông chưa chết vì mạch vẫn đập. Cho tới khi gặp anh, đôi mắt bác sĩ như định nói vậy. Robert có thể nghe thấy giọng ông: Tôi không thể diễn tả hết biết niềm vui của mình khi có anh bầu bạn… Anh là vị khách đầu tiên… Anh chớp mắt và nhìn hai người ở trong phòng.
Người đàn ông tên George đang hút một điếu thuốc, kẹp giữa hai ngón tay. Ông ta nhìn Robert một cách thách thức, đầy khinh bỉ, như thể ông ta có toàn quyền ở trong căn nhà này còn anh thì không. Rồi ông ta ngồi xuống một cái ghế bọc nhung lưng thẳng và nói, “Ngồi xuống đi, Irma.”
“Em đứng thế này được rồi, George.”
Người đàn ông phả khói thuốc rồi hỏi, “Anh cũng đã gọi cho cảnh sát rồi chứ?”
“Không,” Robert nói. “Chưa.”
“Sao lại không?”
Robert hít sâu. “Tôi nghĩ tìm bác sĩ mới là việc quan trọng nhất.”
Ông ta nhìn anh chằm chằm và lạnh lùng hỏi. “Ai đã nổ súng?”
Robert bình tĩnh nhìn trả ông ta. Anh thấy buồn cười khi ông ta có thể ngồi quay lưng lại phía cửa sổ, buồn cười vì trước đó ông ta không hỏi viên đạn phát ra từ đâu. “Tôi không rõ,” anh nói. “Có thể chính là kẻ đã bắn tôi tối qua.”
“Anh đã bị bắn trúng à?”
“Phải, vào cánh tay.” Ống tay áo của Robert đang được kéo xuống, che khuất băng gạc. Anh căm ghét người đàn ông và người đàn bà này, chỉ ước có thể tống khứ họ đi.
“Anh không nghĩ là mình nên gọi cảnh sát đi à?” Ông ta hỏi, như thể nghĩ Robert đang trốn tránh việc đó, giọng ông ta ác ý đến mức chính bà vợ phải kêu lên đầy quở trách, “Kìa George.” Vậy nhưng đôi mắt bà ta khi nhìn anh lại bộc lộ một nỗi sợ hãi không có ở chồng bà ta.
“Sao ông không gọi cho họ nhỉ?” Anh hỏi ông ta. “Tôi nghĩ ông sẽ nhận được kết quả tốt đẹp hơn tôi đấy.”
“Tốt đẹp hơn à?” Ông ta hỏi một cách hung hãn.
“Nhanh hơn,” Robert nói.
Ông ta liếc nhìn vợ rồi đi tới chỗ điện thoại.
Một tiếng gõ cửa vang lên. Lần này là một vị bác sĩ và một người phụ nữ nói rằng mình sống bên kia đường. Robert trả lời các câu hỏi của hàng xóm trong khi quan sát bác sĩ. Ông ta cởi khuy áo của bác sĩ Knott, dùng ống nghe nghe nhịp tim của ông. Anh nhận thấy ông ta chỉ liếc qua vết thương trên đầu. Rồi ông ta cởi áo khoác ngoài của bác sĩ ra, xắn ống tay áo của ông ấy lên và tiêm thuốc.
“Người này sẽ phải được chuyển vào bệnh viện,” ông bác sĩ nói với Irma.
Irma đang đứng gần đó. “Vâng thưa bác sĩ. Chúng tôi sẽ xử lý việc đó.”
“Bằng xe cứu thương,” bác sĩ tự nói với mình, đi về phía điện thoại.
Robert đi tới chỗ ông ta. “Mọi việc thế nào rồi? Ông ấy sao rồi?”
“Hôn mê,” bác sĩ nói. “Tôi không rõ tim ông ấy có khỏe không, đó là vấn đề. Nó nghe không có vẻ tốt lắm.” Ông ta cáu kỉnh nhìn xung quanh. “Đó là một vết thương do súng. Sao cảnh sát còn chưa tới đây?”
“Họ đang trên đường tới rồi,” George nói.
Bác sĩ nhấc điện thoại lên, quay số, và cộc cằn gọi một xe cứu thương.
Robert nhìn cái khay nằm úp trên sàn, nhìn hai cái cốc thủy tinh vỡ vụn nhưng chân với đáy không bị sứt mẻ, nhìn chai sherry nguyên vẹn lăn lông lốc trong hành lang, nhìn những giọt máu rải rác ở ngưỡng cửa. Rồi anh trông ra cửa sổ, ngưỡng cửa chắc ngang tầm cằm của Greg, nếu hắn ta đứng trên bãi cỏ. Giờ Greg ở đâu? Đang lẩn vào trong bóng tối rồi chăng?